.. Nước Tần
có nhà họ Bàng, lúc nhỏ thông minh khôn ngoan sớm, lớn
lên tự nhiên mắc phải bệnh mê: nghe hát cho là khóc,
trông trắng cho là đen, ngửi thơm cho là thúi, ăn
ngọt cho là đắng. Tính hạnh anh ta dở mà cứ
cho là phải; bao nhiêu điều anh ta nghĩ đến,
không cái gì là không đảo ngược sai lầm cả.
Cha anh ta nghe lời người chỉ dẫn, đưa
anh ta qua nước Lỗ để nhờ bậc quân
tử nước Lỗ (tức Đức Khổng
Tử) chữa cho. Nhưng khi qua nước Trần, ông
Lão Đam bàn:"Nhà ngươi há đã biết
được chứng mê của con nhà ngươi đâu.
Nay thiên hạ ai cũng ù ờ về phải trái, mờ
mịt về lợi hại. Kẻ mắc phải
bệnh mê như con nhà ngươi rất nhiều,
chẳng có ai tỉnh cả. Thiên hạ ai cũng mê cả,
thì còn ai làm khổ cho ai ? Trong khi thiên hạđang mê, mà ngươi lại
muốn chữa bệnh mê cho con nhà ngươi, thế thì
chính nhà ngươi lại hóa ra mê mất. Ngay như ta
đây, giảng giải cho ngươi nghe về chứng
mê, vị tất ta được tỉnh; huống chi
bậc quân tử nước Lỗ lại là người
quá ư mê, thì chữa sao được bệnh mê của
con nhà ngươi. Tốt hơn, cha con cùng trở về
ngay cho khỏi nhọc công tốn tiền" (LIỆT
TỬ)
Đọc
đoạn này, tôi cứ thắc mắc mãi, chả
hiểu Đức Khổng Tử có nghe lời
"nhận xét" đầy phỉ báng, bôi bác của
Ngài Lão Tử -một người sống đồng
thời với Khổng Khâu, sáng lập Đạo Giáo
đối lập với học thuyết Nho Gia như
nước với lửa, như mâu với thuẫn,
như trắng với đen- không ? Nếu có thì phản
ứng của Ngài như thế nào hỡi vị
"Vạn Thế Sư Biểu" ???
"Khổng Tử
(551 trước CN), người nhà Châu, nước Lỗ,
huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông. Thân phụ tên
(Khổng) Thúc Lương Ngột, đã có hai vợ
rồi. Nay già mà không có con trai, mới cưới bà họ
Nhan, tên Trưng Tại. Bà Nhan Thị lên cầu tự núi Ni
Khâu, nên chừng sanh ra ngài, lấy tên núi mà đặt tên
Khâu, tự Trọng Ni (Ni Hồi).
Tục truyền
trước khi sanh ngài, bà Nhan Thị thấy một con
kỳ lân tới trước mặt bà, nhả tờ
ngọc thơ: "Con của Thủy Tinh, nối nhà
Châu đã suy, mà làm vua không ngôi".
Lúc sanh ngài, thì bà Nhan
Thị vào ở trong hang đá, núi Nam Sơn, tục gọi
đất Không Tạng, nghe trên trời có âm nhạc và có
tiếng nói:"Trời cảm lòng cầu nguyện
cho sanh ra con thánh".
Lại cũng khi
gần sanh ngài, hang đá nứt, ở trong có một
ngọn suối nước trong chảy ra. Bà Nhan Thị
lấy nước suối đó tắm cho ngài. Tắm
xong, suối liền khô.
Tướng của
ngài cũng lạ hơn người. Môi trâu, tay cọp, vai
(chim) uyên, lưng rùa, miệng rộng, sơn đình
giữa thì thấp còn bốn phía thì cao. Mình dài chín thước
sáu tấc. Ngài học rộng, thấy xa. Ngài góp các lời
lẽ văn chương của tiên thánh đem dạy
thiên hạ, gọi là Nho Giáo.
Vua nước Lỗ
dùng ngài làm quan Tư-khấu (coi việc hình án) song chẳng
bao lâu vua đắm mê nữ nhạc, ngài cản ngăn
không được, bèn từ chức, đi châu lưu các
nước chư hầu như Tề, Vệ, Trần,
Sở, Tống .. mong đem đạo của ngài
để cứu đời. Nhưng than ôi ! đến
đâu cũng không ai tín dụng. Mãi đến già, ngài
trở về nước Lỗ, mở trường
dạy học ở Hạnh Đàn .. Học trò ngài có
tới ba ngàn. Vào bực cao hiền có 72 người ..
..Như ta lấy tư tưởng kim thời mà
luận về đạo đức Khổng Tử, thì
Khổng Tử thiệt là người học rộng,
thấy xa. Sánh với đời đó thì ngài trổi
hơn muôn ngàn người vậy. Nhưng tại ngài sanh
nhằm thời loạn, ai ai trong chư hầu cũng
muốn làm bá làm vua, không còn tùng phục quyền hèn yếu
của Châu-trào, cho nên dầu ngài có giữ theo cang
thường luân lý, ngài dạy, mà có mấy ai chịu
nghe theo. Bởi vậy, tuy ngài dạy được ba
ngàn người học trò, mà sánh với nhơn số
nước Trung-nguyên bốn năm trăm triệu
người, thì ba ngàn đệ tử của ngài lúc
bấy giờ có thấm tháp vào đâu. Thành thử ngài
đi Đông qua Tây, lên Bắc xuống Nam, mà rốt
cuộc không một ai dùng ngài." (DIÊN HƯƠNG)
*
.. ..
Hai mươi năm, nhiều kẻ gian trong
làng xóm
Người hiền khô mang gông cùm
Kẻ mộng du lên bạo chúa
Người ngồi khóc trên sân chùa
Người hùng xưa nay giầu sang
Một thằng bé đứng trần
truồng !
Nhìn người qua buôn và bán,
Kẻ gian ác đi nghênh ngang !
.. ..
Hai mươi năm, những nụ hoa cho
người hái
Những thể xác cho ai đày
Một thầy cô trong nhà chứa
Gặp trò xưa bỗng khóc òa
.. ..
Hai mươi năm, triệu người
đi trong cuộc sống
Mà thể xác như không hồn ..
.. ..
(Nhạc PHAN VĂN HƯNG, Lời NAM DAO)
(Hình cu?a SU'U TÂ`M LIÊN MA.NG)
.. Thời
gian trôi qua. Nhưng thời gian chảy theo nhiều giòng
khác nhau. Giống như một con sông, một giòng bên trong
của thời gian chảy nhanh tại một vài nơi,chảy chậm tại một
vài nơi khác, và có lẽ đôi khi đứng lặng yên
tuyệt vọng với một số người .. (Tác giả ?)
Chả
hiểu sao, dạo này tôi hay nghe những bản nhạc
xưa, những bài ca mới; hay lục lọi lại
những bài viết cũ, những chuyện hôm qua, hôm nay,
những câu văn, câu thơ (của người, của
mình) chép tứ lung tung trong những quyển tập nom có
vẻ cẩn thận, hay trong những cuốn sổ tay
long bìa, sứt gáy, hoặc trên những tờ giấy
tạp nham đủ loại, đủ cỡ, cất vào
bao ny lông, trong hộp cạc-tông, ngay cả trong những
thẩu đựng bánh (ăn sạch nhẵn rồi) có
nắp đậy hẳn hoi .. Nhiều khi vớ bở, vì
chỉ cần vài ba câu ráp nối là có thể thành một
bài .. để có thể trình làng trình xóm "góp vui". Nhiều khi chả biết
của ai đây, chắc không phải của mình rồi (vì
"chí tuệ" quá xá mờ). Nhiều khi ngồi
thộn mặt ra khi đọc được những
giòng quá buồn như vầy:
.. Nay thiên
hạ ai cũng ù ờ về phải trái, mờ mịt
về lợi hại .. Trong khi thiên hạ đang mê, mà
ngươi lại muốn chữa bệnh mê cho con nhà
ngươi, thế thì chính nhà ngươi lại hóa ra mê
mất ..
.. Sanh
nhằm thời loạn, ai ai trong chư hầu cũng
muốn làm bá làm vua .. ngài dạy, mà có mấy ai chịu nghe
theo ..(DH)
Lại
nghe câu nhạc thoáng nghe qua đã buồn, đến khi
thấy sao giống y đời mình thì lại càng thêm
tủi: "Đôi
tay nhân gian chưa từng độ lượng, ngọn
gió hoang vu thổi suốt xuân thì" (TCS) .. Thì
cái thân mình đó, suốt một thuở xuân xanh đã
đầy những vết
thương dư luận, theo mình đến suốt
một đời. Chưa có dịp giải oan xưa, thì
lại được bồi thêm những nhát dao mới
với luận chứng cũ xì, cũ xịt "không có
lửa sao có khói" !!!
Thì
"nhân gian chưa từng độ lượng"
(TCS). Thì "họ đóng đinh chúa Giê Su, bắn
chết thánh Gandhi, chém đầu Thomas More, và đầu
độc Socrate" (NT). Thì "Người hiền
khô mang gông cùm .. kẻ mộng du lên bạo chúa .. kẻ gian
ác đi nghênh ngang". Thì"Người hiền lương dẫu còn
sống, phải cật lưng trong thiên đường,
những vết nhăn trên vừng trán, và hòn than nung trong
lòng .." (ND).
Cho
nên cái tôi con sâu, cái kiến này, làm sao thoát khỏi đôi tay
nhân gian phũ phàng đó hầu đạt được
niềm hạnh phúc nhỏ nhoi:
.. ..
Ta mê mải chợ
đời
Lựa tìm bong bóng
nước
Vớt hoài bao mơ
ước
Hạnh phúc vẫn mù
khơi
.. ..
Ta về từ rệu rã
Dựng lại một
dư hương
Ước gì thôi
nghiệt ngã
Không còn nữa chiến
trường
Chiến
trường trong tâm mình vẫn chưa nguôi giằng co
Thiện Ác. Chiến trường âm ỉ giữa bạn
bè mình, mỗi người mỗi hướng. Chiến
trường giữa người dân mình cùng màu máu
đỏ da vàng, cùng con Rồng cháu Tiên, nhưng tâm ý
chẳng "đồng". Ai cũng muốn "thà làm
đầu gà hơn làm đuôi trâu" nên mấy ai chịu
nhường ai trong cái chuồng "chủ quan, thiên
kiến" chật hẹp, đôi khi nặng trĩu
hơn Ngũ Hành Sơn trấn trên lưng con khỉ
đột Tôn Ngộ Không suốt 500 năm, mong chờ
người cứu độ.
Để lại cho con
hai tiếng đồng bào
Một bọc trăm
con, trăm búa, nghìn dao
Đâm lén anh em,
đạp lên đồng chí
Đồng bào ta ơi,
nhục đến khi nào ?
(HÀ HUYỀN CHI)
Ai
cũng biết, thân phận người Việt Nam
hiện nay ở trong nước thì
"được" làm-chủ cái nghèo, làm-chủ cái
đói, làm-chủ cái nhục, trong khi đày-tớ-nhân-dân
thì "bị" giàu, "bị" no, "bị"
vinh thân phì gia ..
Gả thân xứ khách hàng hàng gái
Bán sức quê người lớp lớp trai
Chính lúc dân đen điêu đứng phận
Là khi Đảng đỏ nhởn nhơ
"ngai"
(Vntvnd)
.. thành phố ruộng đồng
bấu lấy tim tôi
thành nhịp thở
ngõ cụt đường làng cỏ hoa cống rãnh
cây già đá sỏi bùn nước mặn nồng
chảy máu
tiếng kêu
(THANH
TÂM TUYỀN)
Người Việt ở ngoài nước
được thừa thãi tự do, tự do đến
độ nhiều khi tấn công kẻ thù chính (Cộng
Sản) thì ít hoặc kém hiệu qu
Người
Việt ở ngoài nước được thừa thãi
tự do, tự do đến độ nhiều khi tấn
công kẻ thù chính (Cộng Sản)thì ít, hoặc kém hiệu quả. Mà nhục mạ
bạn thì nhiều (đội nón cối, gắn đuôi
hồ ly cho kẻ khác, tố người này là Việt
Gian, cho kẻ kia là nằm vùng .. vv .. vv .. !!!). Đài phát
thanh, báo chí, nhất là trong cõi chợ trời Internet (trên các
diễn đàn on line) là những nơi mà "mặt
trận miền .. tự do, chả bao giờ .. yên
tĩnh" !!! Có chăng là sự im hơi lặng
tiếng tạm bợ để mài dũa cho chữ
nghĩa nhọn lễu hơn, bén ngót hơn, để
đâm đối phương cho chết tốt đi thì
mới hả hê mối hận này (mối hận vì
"đầu gà mày" đẹp mã hơn, gáy hay ho
hơn "đầu gà tao") !!!
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
Hai
câu thơ trên của Cụ Nguyễn Đình Chiểu, tác
giả Lục Vân Tiên, được "chôm" nhiều
nhất để "sao chép" cái khẩu khí có thật
của một bậc sĩ phu thời Pháp thuộc, dùng
thơ văn làm vũ khí để "đâm"
những kẻ rước ngoại bang về giày mả
tổ. Câu thơ quá hay, quá hào sảng, ngất ngưởng
một trời chí khí. Nhưng khi được đàn
hậu sinh "copy", rồi "paste" vô PC của
mình, vô "thơ thẩn" của mình thì cẩn
thận nhé. Miệng tác giả nói ra thì tuyệt hảo, vì
hoàn cảnh, thân thế của tác giả có những
giới hạn tất yếu (đôi mắt mù lòa, sức
cùng lực tận) nên "thế phải thế, thế
thời phải thế". Không thể vẫy vùng ngang
dọc được, không thể dùng súng dùng gươm
được, ông dùng ngòi bút. Quá đúng. Niềm tự hào
của ông cũng đáng quí luôn:"Dầu đui mà giữ đạo nhà, Còn hơn
sáng mắt ông cha không thờ", (lại đi thờ
toàn là những tên đọc méo cả mồm, cả
miệng: Các Mác, Ăng-Ghen, Xì-ta-lin, Mao Xếnh Xáng ..)
Về
phần hậu sinh như chúng ta, xem lại mà coi, còn con
mắt mà lòng có "thấy" được như ông
hay không ??? Hay chỉ biết "nhơi lại"
rồi tưởng mình cũng "hết sức ngon
lành". Thử nghe một "phản biện" hai câu
trên của một bạn đọc xem có ớ
người ra, á khẩu hết một tăng như tôi
không nào:"Đúng.
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà thật. Nhưng
cũng chả có chết thằng nào (dù Tây, Tàu, VC). Nó
vẫn sống nhăn răng, nó vẫn đè đầu
cưỡi cổ dân đen, thì có phải đúng là "Dã
tràng xe cát biển đông, Nhọc lòng mà chẳng nên công cán
gì" hay không ???". (Sao cái câu này giống câu của Lão
Đam đối chọi với Khổng Phu Tử từ
xửa xừa xưa thế nhỉ: "Ngay như ta đây, giảng
giải cho ngươi nghe về chứng mê, vị tất
ta được tỉnh; huống chi bậc quân tử
nước Lỗ lại là người quá ư mê, thì
chữa sao được bệnh mê của con nhà ngươi.
Tốt hơn, cha con cùng trở về ngay cho khỏi
nhọc công tốn tiền").
Người
nào càng thành khẩn với chính mình, thành khẩn với
sứ mệnh dùng ngòi bút "đâm mấy thằng
gian" chừng nào, thì càng nhìn lại mình, nhìn lại
việc viết lách của mình chừng nấy:
Mấy chục năm qua, viết đã nhiều
Xem chừng hiệu quả chẳng bao nhiêu
.. ..
Đàn gẩy tai trâu, tay mỏi rã
Muối quăng mặt biển, nước tiêu vèo
Trong
khi đối thủ thì càng ngày càng tệ hại hơn:
Những tên Việt Cộng càng ăn bẩn
Cả lũ tham quan vẫn đớp liều
(THÁI CUỒNG)
Còn
những kẻ a dua, "ăn có" chút lợi lộc
đớn hèn thì nhan nhản như bầy ruồi xanh:
Người chạy quanh theo thời thế,
Ruồi nhặng xanh bu lối về
(NAM DAO)
Lại
có tác giả, nhìn quanh, ngóng tìm người cùng mình
"nằm gai nếm mật" chỉ thấy toàn
những phường chính trị xa-lông "lộng ngôn,
giả ngữ":
Tìm hoài chưa thấy một ai
Để về nếm mật nằm gai cùng
người
Ai ai cũng tự xưng trời
Thực hành chưa thấy, chỉ lời lộng
ngôn
(Ý NGA)
Tuy
có những lúc bi quan, nhưng khi nhìn ra bát ngát địa
cầu, bao la thế giới, vẫn còn biết bao tri
kỷ, cùng hướng, chung lòng thì ai mà dấu
được niềm vui:
Mừng thay thế giới vẫn còn
Bạn bè tri kỷ tâm hồn rất thơ
Đã thơ lại chẳng hững hờ
Vì thương dân Việt phất cờ tự do
Viết lời tranh đấu thơm tho
Đọc pho hùng sử biết lo san hà
(Ý NGA)
Thế
nên dù giữa đêm đen đằng đẵng, vẫn
vọng lên tiếng kêu tha thiết vì nước, vì dân:
Ai người đồng sức lòng chung
Cạn ta thề nguyện vỡ bùng gươm thiêng
Cứu dân cứu nước tật nguyền
Rạng đời Lạc Việt, dựng nguyên
Việt Thường
(NGUYỄN LẠC VIỆT)
..
Chị Thức lẳng lặng ngồi ôn lại cuộc
đời đã qua. Bộ óc chất phác của chị nhà
quê giản dị, không từng biết tưởng
tượng, không từng biết xếp đặt trí nhớ
cho có thứ tự. Những điều chị nhớ
lại chen chúc nhau hỗn độn hiện ra như
những hình người vật trên một tấm ảnh
chụp. Một điều chắc chắn, chị ta
nhớ ra một cách rành mạch, là chưa bao giờ
được hưởng chút sung sướng thư nhàn
như những người giàu có. (KHÁI HƯNG)
..
Ai biết hiện nay có bao nhiêu bọc than đen
nhất, ráchnhất đang
sống thảm não ở quê hương ? Những cựu
chiến binh của ta mù mắt, cụt chân tay, những
thương phế binh không có một đồng
để sống? Ai
biết đến họ ? Ai nhớ đến họ ? Ai
thương họ, đừng hỏi ai kính trọng
họ, ai biết công họ, lại càng đừng hỏi
ai biết ơn họ. (CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG)
.. ..
tôi chờ đợi
phổi đầy lửa cháy
môi đầy thẹn thùng
vục xuống nhục nhằn tổ quốc
(THANH TÂM TUYỀN)
*
(Hình cu?a SU'U TÂ`M LIÊN MA.NG)
Cái khao khát đến khắc khoải của tôi
hiện giờ (mà chắc chắn vô cùng vô vọng) là làm
sao mà được gặp lại chú bé hay dùng "cờ
la
Cái khao khát đến
khắc khoải của tôi hiện giờ (mà chắc
chắn vô cùng vô vọng) là làm sao mà được gặp
lại chú bé hay dùng "cờ lau tập trận" ngày
ấu thơ. Làm sao mà được gặp lại trang
tuấn kiệt Đinh Bộ Lĩnh, người có công
dẹp loạn "Thập Nhị Sứ Quân". Làm sao được
gặp Vạn Thắng Vương, để hỏi Ngài
cách thức nào Ngài gom được những vị Sứ
Quân (những cái "đầu gà" oai phong lẫm liệt
cỡ Từ Hải "Triều đình riêng một góc
trời, Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà")
đem về dưới trướng, để cùng nhau
trên dưới một lòng giữ an bờ cõi, mang ấm no
hạnh phúc về cho muôn dân Đại Cồ Việt xa
xưa ???
Ôi. "Đất
khách muôn trùng sao nhỏ hẹp, Quê nhà một góc nhớ mênh
mông" (TRÀ LŨ).
Tôi gọi tên Người suốt
bốn mùa
Tiếng chim nhớ tổ chuỗi ngày
thơ
Tiếng mưa nhớ đất, sông
mơ biển
Tiếng gọi khát khao của
đợi chờ
(Vntvnd)
Đợi chờ ngày đồng bào tôi, quê hương tôi,
đất nước tôi thoát khỏi cơn mê dài hơn 30
năm có lẻ ..
Ba mươi năm lẻ đá mòn
Niềm đau trang sử vẫn còn trơ
trơ
Ba mươi năm nát hồn thơ
Có nghe chăng mảnh dư đồ
giẫy đau
(NHƯỢC THU)
Lại một tháng tư
-2006-
* Chân thành CẢM TẠ quí THI, VĂN, NHẠC SĨ có
Thơ, Văn, Nhạc được trích đăng trong
bài
* Chân thành CẢM TẠ quí THI, VĂN,
NHẠC SĨ có Thơ, Văn, Nhạc được trích
đăng trong bài.
* Xin mời bạn đọc xem
3 BÀI THƠ CÙNG CHỦ ĐỀ với PHÙ VÂN 54 như sau: