PHÙ VÂN (tt)

PHÙ VÂN 45

Home | PHÙ VÂN 8 | PHÙ VÂN 37 | PHÙ VÂN 41 | PHÙ VÂN 42 | PHÙ VÂN 43 | PHÙ VÂN 44 | PHÙ VÂN 45 | PHÙ VÂN 46 | PHÙ VÂN 47 | PHÙ VÂN 48 | PHÙ VÂN 49 | PHÙ VÂN 50 | PHÙ VÂN 51 | PHÙ VÂN 52 | PHÙ VÂN 53 | PHÙ VÂN 54 | PHÙ VÂN 55 | PHÙ VÂN 56 | PHÙ VÂN 57 | PHÙ VÂN 58 | PHÙ VÂN 59 | PHÙ VÂN 60 | PHÙ VÂN 61 | PHÙ VÂN 62 | PHÙ VÂN 63 | PHÙ VÂN 64 | PHÙ VÂN 65 | PHÙ VÂN 66 | PHÙ VÂN 67 | PHÙ VÂN 68 | PHÙ VÂN 69

NGỌC TRONG ĐÁ

 

NGỌC TRONG ĐÁ

 

"Biện Ḥa, người nước Sở, được viên đá ở Kinh Sơn, đem dâng vua Sở Lệ Vương, tâu rằng giữa đá ấy có viên ngọc quí, vua truyền thợ ngọc xem, thợ ngọc bảo là viên đá tầm thường, không có ngọc. Vua giận, truyền chặt chân trái Biện Ḥa về tội dối vua. Đến lúc Sở Vơ Vương lên nối ngôi, Biện Ḥa cũng mang viên đá ấy đến dâng, thợ ngọc cũng cho là đá thường, làm cho Vơ Vương nổi giận, truyền chặt nốt chân mặt Biện Ḥa. Khi Sở Văn Vương lên ngôi, Biện Ḥa không c̣n đi được, ôm viên đá ngồi khóc dưới núi Kinh Sơn ba ngày ba đêm, đến máu ḥa nước mắt. Có người thương t́nh nói: "Anh hai lần đem dâng ngọc, hai lần bị chặt chân, th́ nên thôi đi, lại c̣n mong được thưởng hay sao ?" Biện Ḥa đáp: "Tôi không mong được thưởng, chỉ giận rằng quả thực ngọc tốt mà bảo là đá, quả thực ḷng ngay mà bảo là lừa, phải trái, điên đảo không được rơ rệt ra, nên tôi đau xót mà khóc đấy thôi."

 

Sở Văn Vương hay chuyện, cho người lấy viên đá về sai thợ ngọc bổ ra xem, quả được viên ngọc bích rất đẹp, không chút t́ vết. Vua rất mừng, đặt là ngọc Biện Ḥa, lại nghĩ thương Biện Ḥa, cho ăn lộc Đại Phu suốt đời." (LÊ VĂN ĐỨC-LÊ NGỌC TRỤ)

 

Đọc chuyện xưa rồi ngẫm chuyện nay mới thấy đáng kinh, đáng sợ. Mới hiểu "T́nh thâm nhi văn minh". (T́nh càng sâu th́ vẻ đẹp càng sáng). Mà vẻ đẹp càng sáng th́ ta mới thấy được làm người đă là một điều tuyệt diệu. Rồi c̣n có những người bạn hiểu ḿnh, thương ḿnh, v́ ḿnh, th́ lại càng tuyệt diệu biết bao. Như con ngựa Long Tôn kia gặp được chàng Bá Nhạc th́ ôi thôi, mặc sức trổ tài chạy hay, chạy giỏi. Như viên đá sù ś, xấu xí, tầm thường, thô kệch ở Kinh Sơn kia mà không gặp được Biện Ḥa th́ cũng chỉ là một đời đá bị phủ rêu đóng mốc giữa non cao, rừng thẳm, chứ được ai biết, ai hay ḿnh ôm ngọc bích trong ḷng.

 

Lại đáng sợ cho cái người mang tên Biện Ḥa. Con mắt của ông. Tuệ nhăn của ông. Thần thức của ông cao siêu đến cỡ nào mà dám tin có ngọc ẩn trong đá. Tin đến nỗi bị chặt chân trái rồi mà vẫn khư khư với niềm tin đó đến nỗi chân phải cũng bị chặt nốt. Vậy mà đă chịu từ đâu. Vẫn ôm viên đá ngồi khóc dưới núi Kinh Sơn. Khóc tức, khóc tửi. Khóc tàn, khóc phế. Khóc đắng, khóc cay. Khóc dưới triều Sở Lệ Vương. Triều Sở Vơ Vương. Và khóc ṛng ră ba ngày, ba đêm đến máu ḥa nước mắt dưới triều Sở Văn Vương. Khóc đến phải động ḷng người thương t́nh. Khóc đến phải động đến tai vua. Khóc đến nỗi phải trái, điên đảo phải được rơ rệt phân bày ..

 

Và có phải những giọt máu ḥa nước mắt của Biện Ḥa đă nhỏ vào tim tôi một chiều mênh mang sương phủ, giữa thư viện Long Branch lặng ngắt như tờ, nên hốt nhiên tôi giác ngộ. Bỗng nhiên tôi chợt biết cái điều mà tôi từng thắc mắc từ đầu chuyện này: Tại sao lại có người quan tâm đến người, người thương người, người hiểu người, người người đến vậy:

 

"Ngựa Long Tôn gặp chàng Bá Nhạc

Ngọc Kinh Sơn gặp được Biện Ḥa

Nước non kia hẳn chẳng già

Nhân duyên kia định cũng đà có nơi"

(Việt Nam Tự Điển)

 

Vâng. Nhân duyên kia định. Thời cơ sắp bày. Định mệnh giun rủi. Vận số đẩy đưa. Cái xâu chuỗi "Thập Nhị Nhân Duyên" lôi kéo. Vâng. Dứt khoát là phải có một-cái-ǵ-đó, một cái ǵ được gọi tên tùy theo niềm tin, tùy theo tôn giáo. Nên người xa mới hóa nên gần. Nên kẻ lạ từ tận đẩu tận đâu cũng được kéo về cho gặp gỡ, cho nên quen. Hay thật !

 

"Hữu duyên thiên lư năng tương ngộ

Vô duyên đối diện bất tương phùng"

(Có duyên dẫu xa ngàn dặm cũng có thể gặp nhau,

C̣n không, dầu ở trước mặt cũng không chung cùng nhau được)

 

Hay thật ! Chính cái DUYÊN làm Lưu B́nh-Dương Lễ thắm thiết t́nh bạn. Cái DUYÊN làm Bá Nha gặp được Tử Kỳ là khách Tri Âm. Cái DUYÊN làm Quản Trọng có Bào Thúc Nha làm người Tri Kỷ. Cái DUYÊN khiến Bá Đào-Giốc Ai chia cơm xẻ áo, rồi sống chết có nhau.

 

Ngay cả con ngựa hay kia, nhờ có Duyên may mới gặp được chàng Bá Nhạc. Ngay cả viên đá tầm thường kia nếu không nhờ có Duyên khiến xuôi sao gặp được Biện Ḥa. Chuyện một viên đá mà c̣n làm điêu đứng, xính vính cả một đời người dũng khí th́ ắt hẳn phải có cái "chi chi" chứ. Chẳng lẽ tất cả chỉ là chuyện t́nh cờ thôi sao ??? Chẳng lẽ tất cả đều chỉ là chuyện ngẫu nhiên, ngẫu nhĩ thôi sao ??? Cũng như đâu cần phải đợi đến trai tài, gái sắc. Đâu cần phải đợi đến Ái T́nh mới nói đến chữ Duyên ...

 

*

 

Đó là trích đoạn của bài "Chân dung một t́nh bạn" (nói về t́nh bạn chí thiết Lâm Sốc-Đạm Nhiên) được viết từ năm 1997.

 

Mới từ bấy đến nay thôi mà Đạm Nhiên đă đi vào thiên cổ (Phù Vân 2) , cho Lâm Sốc-Lư Sở vẫn ở lại cơi đời đầy "lăng xăng, lích xích, cuống cuồng" thương nhớ bạn xưa ..

 

Trong 8 năm ấy, biết bao nhiêu là những khích lệ của Thầy Cô và Bằng Hữu đă chắp thêm đôi cánh   vào chữ DUYÊN hết sức diệu kỳ cho tôi tha hồ "gơ" (keyboard) và mộng mơ, lăng mạn ..

 

Và trong 8 năm ấy, tôi c̣n thấy được những người Biện Ḥa, những chàng Bá Nhạc hiện h́nh rất kỳ diệu đối với bản thân tôi (một đời đá sù ś, thô kệch; một kiếp ngựa trâu tiểu tốt, vô danh .. )

duyendangaodaicomy.jpg
(Cô MY~ [giu'a~] C.T.A'I va` BA.CH LOAN)

Sau khi tuyển tập "MỈM CƯỜI" được hai bạn Châu Hiền & Lâm Tuyết ở Canada phát từ tâm làm "nhà xuất bản

Sau khi tuyển tập "MỈM CƯỜI" (1997) được hai bạn Châu Hiền & Lâm Tuyết ở Canada phát Từ Tâm làm "nhà xuất bản .. chùa" được 100 bản và đă biếu tặng Thầy Cô, Bạn Bè khắp nơi xong xuôi, th́ một bữa Lâm Sốc từ Louisiana gọi phôn lên đọc một bức thư của một cựu học sinh Rạch Giá hỏi thăm sức khỏe và tên thật của "cái thằng tôi" . Bạn ấy khoe rằng có một bạn học cũ (hiện ở Thụy Sĩ) đă photocopy một số bài trong tuyển tập ấy gởi tuốt về Rạch Giá cho bạn bè chuyền tay nhau đọc. Tôi nghe bạn Lâm Sốc hớn hở báo tin vui mà cứ như mơ .. Sao lại có ṿng tṛn bầu bạn mênh mông đến thế. Sao lại có những việc làm đầy khích lệ "mầm .. già văn nghệ" thầm lặng đến thế !!!

 

Một lần khác, về bài "Rạch Giá, Bạn Bè và Nỗi Niềm Xa Xứ" (Phù Vân 20) được đăng trong  Đặc San Cali năm 2000, một bữa, Nữ Thi sĩ BCD ở Úc gởi tặng tôi Đặc San Úc Châu 2003, đọc kỹ có bài "Thử vẽ chân dung cô Bắc Kỳ Rạch Giá" (tác giả LÂM HỮU XƯA) là một chút "giao duyên văn nghệ" với bài Rạch Giá .. này. Tôi ngạc nhiên quá, rụng rời tay chân quá, v́ thường thường, bạn bè, bằng hữu "nằm" trong bài của ḿnh, tha hồ cho ḿnh vẽ rồng, vẽ rắn. Đâu có dè, ḿnh bị (hay được) "bắt cóc" vào một bài viết khác, được tác giả lạ hoắc (nghe đâu đàn anh của trường NTT cũ), ở tít bên xứ con Kăng-gu-ru, ngắm nghía ḿnh, vẽ vời ḿnh, chiếu tướng ḿnh, dĩ nhiên có thiệt là nhiều cái chút chút cho đi "tàu bay .. giấy" ở trỏng. Nhưng không thể dối, tôi cảm động dữ, v́ không ngờ những mối DUYÊN VĂN NGHỆ dường như trùm lấp cả địa cầu. (Nhất là sau này, khi tôi tập tành làm Web RGTNNT th́ cái Duyên Dài Rộng ấy càng hiển hiện rơ ràng, đậm sắc).

 

Với lại, nói cho cùng kỳ lư ra, ai mà không "thung thướng" chứ, khi có người "ca" ḿnh như vầy nè: .. "bài văn lộng lẫy .. , .. viết văn mượt mà, tài t́nh .., .. tay cầm viết thấy trơn tru, nhuần nhuyễn .., .. người cầm bút hào hiệp .. (cái này th́ quả là oan, bạn bè tôi hào hiệp chứ không phải tôi). Hoặc soi kính hiển vi tường tận đến phát "nể" v́ .. "nói có sách, mách có chứng" quá xá quà xa:

 

.. "Chắc Cô cũng đồng ư với mọi người, khi nh́n nhận rằng: Văn tức là người (nhân như kỳ văn). Qua văn chương của một người, khiến cho thiên hạ dù chưa một lần diện kiến cũng sẽ hiểu được về tác giả, dĩ nhiên là không thể nào hiểu hết, v́ c̣n nhiều cái không viết ra, không cho lộ diện th́ làm sao ai mà hiểu. Tôi nghĩ thà là kín như Cô vẫn là hay hơn, v́ cởi mở quá đáng th́ c̣n ǵ nữa để cho người ta nôn nóng t́m hiểu. Viết lách như Cô quả là khéo, cái ǵ cũng chỉ ít ít vừa phải, không thể nào nhiều đến nỗi phát ngán, độc giả đă thấy rồi, chân dung của Cô đă thể hiện bao gồm một chút nghịch ngợm có chừng mực (cái thằng tôi); một chút dí dỏm mô phạm (cua xào lăn, vỏ cá bự lại rẻ, ống chề); một chút táo bạo có hạn chế (quần xăn cao tận bẹn); một chút thẳng thừng chửi bới không ngần ngại (ăn đầu sóng, nói đầu gió). Dễ thấy hơn cả là cung cách phân giải chuyện đời (khăn áo chỉnh tề đi hóa giải), biết lúc cần ngồi xuống, khi phải đứng lên. Chứng tỏ Cô em trưởng thành với diện mạo bên ngoài là Rạch Giá, nhưng tâm hồn vẫn là Thụy Phương, Hà Đông; do khung trời Bắc Kỳ của mẹ bảo bọc." ..

 

Nhưng có lẽ những gịng sau đây, đă làm tôi "ngùi ngùi" nhất v́ sự cảm thông sâu sắc của bậc đàn anh:

 

.. "Song thân của Cô đă đi qua coi như gần hết chiều dài Nước Việt, dừng lại ở một góc trời hoang vắng, chung quanh toàn là những người bản địa. Cho nên nỗi niềm quạnh hiu của Cô có thể đă được tích tựu từ lâu lắm, cũng như gịng máu văn nghệ của Cô đă có cội nguồn từ Thụy Phương, từ ông Bác Ruột đàn Tam Thập Lục lâm ly đến nỗi ma phải núp ngoài song cửa lắng nghe !"..

 

Và những gịng "giải oan" đầy công bằng, chính trực của bậc huynh trưởng đồng môn cũng làm "nở nang từng khúc ruột" của "Sư Tử Hà Đông" này không ít nhé:

 

.."Trong số những kỷ niệm thâm sâu với bằng hữu, Cô có nhắc đến biệt danh "Sư Tử Hà Đông", dĩ nhiên bạn bè đặt để cho vui vậy mà; chắc Cô thừa hiểu câu chuyện Sư Tử Hà Đông chính gốc của nó là ở bên Trung Hoa, ở miền Hoa Trung th́ phải ?! Có một ngôi làng nằm bên bờ một con sông ở phía đông của một Thủ Phủ. Nổi tiếng khắp Trung Quốc là bởi đàn bà ở đó rất "dữ tợn", ông chồng vắng nhà đi léng phéng là bà vợ vác roi đi t́m, cho một trận nên thân; c̣n ông chồng mà ngoan ngoăn ở nhà th́ muốn ǵ cũng được. Người đời hay nhớ đoạn đầu mà thường quên đoạn sau, như vậy là không công bằng cho các bà Hà Đông bên Tàu. C̣n Hà Đông trong cái tờ Thế V́ Khai Sinh của Cô, lại là một Hà Đông rất dễ thương, đă được Nguyên Sa và Ngô Thụy Miên cho đi vào máu tim của người Việt qua chiếc áo lụa Hà Đông. Tôi có nói chuyện với anh bạn cùng sở, anh nói Hà Đông ở ngoại thành Hà Nội của anh ấy, các bà các cô hiền khô, chỉ chuyên trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa quanh năm với mẹ già, nào có biết dữ dằn ǵ đâu !"..

 

Những gịng văn đằm thắm, nhuần nhị, sâu sắc của tác giả Lâm Hữu Xưa dàn trải mênh mông suốt bài "Thử vẽ chân dung cô Bắc Kỳ Rạch Giá", tác giả nhân dịp nói về cô em BKRG này, đă nói về những kỷ niệm một thời thư sinh (Bạn này .. Thầy kia ..), một thời công thành danh toại của chính ḿnh nữa. Dĩ nhiên kỷ niệm nào cũng không phải chỉ một màu hồng phơi phới, tác giả nói thật luôn về nỗi hàm oan, có lần "xém" bị chết đứng chả khác nào Từ Hải. Đọc văn tác giả Lâm Hữu Xưa, tôi thấy như gặp lại người thân, một người anh, mà tôi chả bao giờ được diễm phúc có trong gia đ́nh đơn lẻ của mẹ con tôi. Cũng y như cảm giác sau này khi đọc Meo Người Miệt Thứ viết về Nam Thái Sơn mà tôi chưa một lần biết vậy (Phù Vân 38). May mắn thay, ở cuối đoạn đời dâu bể, tôi đă "có" những người anh (trong Đại Gia Đ́nh Rạch Giá-Kiên Giang, dù chưa biết mặt, thấy người) đă thân ái nắm tay tôi cùng quay về nguồn cội xưa, thấy lại những t́nh cảm cũ, biết mấy thân thương và cũng đâu ít ngậm ngùi !

c_hendailuong.jpg
(SOCHÊN, Thâ`y Cô T.Q.-DA.I, T.S.LU'O'.NG)

Rồi sau đó, thư Thầy Cô, Email bạn đọc biết mặt hoặc chưa một lần diện kiến, gởi đến tôi như những giọt nước cành dương làm tư

Rồi sau đó, thư Thầy Cô, Email bạn đọc (biết mặt hoặc chưa một lần diện kiến) gởi đến tôi như những giọt nước cành dương làm tươi rói cái nh́n, cách cảm (tưởng chừng đă úa héo, cằn khô). Đă làm tôi thêm vững chân, mạnh bước vào khu rừng chữ nghĩa mênh mông , hoặc bay vào khung trời mộng mơ lăng đăng, nhưng vẫn không kém phần hiện thực diệu kỳ.

 

.. "Gần 3 năm trước tôi bất ngờ nhận được tuyển tập "Mỉm Cười", vừa cảm động vừa ngạc nhiên. Đầu tiên là đọc thấy tên em ngoài b́ thư, một trong vài cái tên đáng nhớ nhất của Rạch Giá khiến gợi nhớ biết bao kỷ niệm, và xúc động rằng hóa ra em cũng c̣n nhớ đến tôi, một trong rất ít ỏi học tṛ cũ c̣n nhớ đến Thầy ..

 

.. Đọc xong "Mỉm Cười", điều thích thú đối với tôi (và là điều khen ngợi nữa, nếu em cho phép) là thấy cái linh hồn trẻ thơ vẫn c̣n hiện rơ suốt khắp tuyển tập (dù tôi biết rơ giờ em đă ở tuổi gần ngũ tuần rồi). Có lẽ em không hề biết, và không hề tin nữa, về điều tôi viết này: Tuy sự gắn bó giữa em và tôi rất ít trong thời gian Nguyễn Trung Trực, nhưng có những nét về em mà tôi không bao giờ quên, và ngược lại, mỗi khi nghĩ đến những nét đó tôi lại nhớ đến em. Một trong những nét đó là mỗi khi nhớ kỷ niệm làm báo Xuân (1968) th́ cho tới bây giờ tôi vẫn chấm chuyện "Cô bé và ông lăo Câu Rê" của em là truyện ngắn hay nhất (cũng như thơ hay nhất của học sinh NTT là Lương Nguyễn) .." (Thư Thầy T.Q.Đại-- 19/06/00)

 

.."Em thân mến. Bao nhiêu lần toan tính, tính toan .. hôm nay mới viết cho em được. Em thấy tôi tệ chưa.

 

Lần đầu khi đọc xong tuyển tập về mùa thu của em (Mỉm Cười). Tôi nghĩ là ḿnh phải viết ngay cho em. Nhưng tại v́ không viết ngay, nên .. Rồi một lần khác đọc lại, tôi nghĩ là phải viết ngay để bày tỏ niềm cảm phục đối với một cây bút rất ư là trữ t́nh và cũng rất trung thực (trong ư kiến về một bài viết trong Đặc San Cali năm ngoái) .. '' (Thư Cô P.T. Mỹ--12/10/00)

 

Có bạn đọc khoe cùng tôi là đă đọc một mạch 3 ngày 3 đêm những bài của Phù Vân, rồi đâm "ghiền" hồi nào không hay. Bạn khác lại bảo những bài viết của tôi cứ như là nói dùm tâm trạng của rất nhiều người .. Gần đây nhất Người Rạch Giá Úc Châu lại nói thích giọng văn "ngổ ngáo" của tôi (xem cuối trang Meo .. Meo 5). Cũng có bạn đồng hương, học cùng trường, nghe đâu cùng cấp lớp lại bảo: "Những bài của Phù Vân đôi khi th́ giận dữ, dùng chữ đốp chát (rất ít khi), đôi khi hơi tếu, đôi khi tả chân thiệt bạo, đôi khi "hơi lạ" mà NRG nói là ngổ ngáo (?) Tựu chung là một giọng văn tâm t́nh, gần gũi với người đọc và viết rất thật. Những điều vừa nói ḥa hợp thành chị hai Phù Vân .."

 

Đâu có ngờ những bài viết ngô nghê của con bé "nhà quê" Rạch Giá ngày xưa (nay già ngắt già ngơ rồi, và đă cố "lóng phèn" muốn chết mà vẫn c̣n nguyên xi cái cốt "nước mặn đồng chua" Nam Thái Sơn nguồn cội của ḿnh) lại được nhiều người quan tâm tŕu mến đến thế. Cho tôi tự hỏi chính tôi rất rất nhiều lần:

 

Chữ DUYÊN nào đă níu

Cho ta về gần nhau

Không phải chuyện trầu cau

Sao đẹp t́nh tương ngộ ???

 

Cho tôi tha hồ làm thơ và tha hồ viết "quên chết" về cuộc sống và những chữ "t́nh" mầu nhiệm của đời này:

 

Anh mở ḷng ra cùng trời đất

Em gửi tâm ḿnh vào thiên thu

T́nh yêu không làm nên nhật nguyệt

Mà thắp sáng đời mù mịt biển dâu

 

Mầu nhiệm thật chứ. V́ nếu không, th́ tại sao có được ĐẠI DUYÊN GẶP GỠ như vậy của những người con xứ cù lao, sông rạch tận cùng nước Việt đang tản mác bốn bể năm châu hằng 2 năm một lần. Sao có được những buổi HỘI NGỘ tưng bừng từ khắp nơi trên thế giới đổ về (Thụy Sĩ, Pháp, Đức, Ái Nhĩ Lan, Úc Châu, Canada, các tiểu bang rải đều  khắp nước Mỹ) tay bắt mặt mừng, hân hoan thăm hỏi, chúc mừng sự thành đạt của nhau, chia nhau những nỗi buồn mất mát, thua thiệt, nạn tai.

 

Mầu nhiệm thật chứ. V́ thời gian đâu hề có nghĩa lư ǵ với những t́nh cảm thắm thiết Thầy Tṛ, Bằng Hữu (Đâu có nhằm nḥ ǵ ba mớ tóc bạc, ba cái miệng móm xọm mất răng đâu. Chúng ta vẫn là những người của một thời "bảng xanh, phấn trắng, phượng hồng" mà, chúng ta vẫn là thanh niên thiếu nữ áo trắng, mộng biếc xanh mà. Dù bây giờ cái màu xanh biếc của mộng mơ có ngả màu chút đỉnh, [hay thiệt nhiều lần chút đỉnh đi nữa]. Dù hiện tại áo trắng thư sinh đă được thay vào muôn màu sắc khác cho phù hợp từng cảnh đời riêng. Nhưng chúng ta vẫn là ta thôi, là trái tim đó, là nhịp đập đó, thủy chung, tha thiết, yêu thương).

 

Thế nên, sự quí mến, gắn bó nhan nhản giữa Thầy Cô với Học Tṛ, giữa Học Tṛ với Thầy Cô và giữa Bằng Hữu với nhau, thể hiện ngay từ cuối thế kỷ 20 đến đầu thế kỷ 21 này, ở nơi xứ lạ lưu vong này, từ cái buổi xảy đàn tan nghé, tưởng đă "xa mặt cách ḷng", vậy mà tất cả lại được "châu về hợp phố" một cách quá đỗi hân hoan, th́ đúng là điều không thể lặng im :

 

" Nhận thư bảo đảm của Lâm Sochên giữa 2001. Một ngân phiếu mua vé máy bay khứ hồi đi Mỹ. Một đoạn thư rằng em mời Thầy sang chơi, ngày giờ tùy thầy, nhưng nếu là hè 2002 th́ em đưa thầy sang dự Họp mặt Toronto luôn thể.

 

Tôi không hề dạy Sochên. Nhờ cùng em gắn bó dịp công tác Hè 1966 làm hiểu nhau, thương yêu như thầy tṛ ruột. Sau ngày sang Úc, em là học sinh Rạch Giá đầu tiên thăm hỏi. Tôi hiểu tánh Sochên, chân thành, ngổ ngáo, nhưng rất ngoan và kính yêu thầy cô. Vả lại, ngoài bạn bè ở Mỹ, tôi c̣n dịp gặp lại thầy Nhân, vừa bạn thân vừa tôi rất yêu và phục. Vả nữa, đă hai lần Họp Mặt tôi đều nhận được thư mời mà đều không khả năng dự, th́ đây là dịp gặp đồng nghiệp cũ, học tṛ xưa. Tôi nhận lời. Giữ cái ngân phiếu đến một năm sau ..

 

.. Đó là tính chất của cả một nền văn hóa dân tộc: Ḷng hiếu kính của môn sinh đối với tôn sư. Tính chất này được biểu lộ qua những vé máy bay, qua việc Ban Tổ Chức đến từng Thầy Cô để gởi tặng tấm bảng biết ơn, qua bài vọng cổ mà thầy Cường được mời lên ngồi trên ghế nghe một em hát những lời tuyên dương công ơn. Nội dung bài ca đă thích hợp mà tài diễn xuất của hai Thầy Tṛ lại rất đạt, khiến nhiều người mủi ḷng. Về vé máy bay, tôi được biết kỳ Họp Mặt nào cũng có một số em mua vé mời Thầy Cô ḿnh. Năm nay cũng có, nhưng tôi không tiện kể v́ tôn trọng sự riêng tư. (Trừ  trường hợp ở trên về Thầy Kiệt và em Một, v́ là bạn thân, hay chính trường hợp của tôi với Sochên, mặc dù em Hên không muốn ai biết việc em làm) ..

 

.. Tôi đă có may mắn làm một ṿng tṛn quanh hai nước lớn thứ tư và thứ nh́ thế giới. Tới đâu tôi cũng thấy "T̀NH", t́nh đồng nghiệp, t́nh thầy tṛ, t́nh bè bạn, t́nh thân thích. Sau hai chữ Kỷ Niệm về Rạch Giá, có thêm chữ t́nh là vậy" (10/2003)

 

Đó là đoạn mở đầu và kết thúc của bài viết "Kỷ niệm T́nh", trích từ Đặc San Úc Châu 2003, tác giả là Thầy Trần Quảng Đại viết về một ṿng du lịch ở Mỹ, ở Canada và về buổi Hội Ngộ Thầy Tṛ ở Toronto 2002 , để thấy tôi không ngoa ngữ và cường đ́ệu mảy may nào về những tấm ḷng Rạch Giá-Kiên Giang tuyệt diệu.

 

Ngoài ra cũng c̣n một tác giả đă nói về những bậc phụ huynh có tấm ḷng hào hiệp ẩn sâu trong manh áo rách cơ hàn, về t́nh thầy tṛ măi măi tươi xanh, bất tử:

vth 1thay05.jpg
(Thâ`y CAO VI. KHANH nga`y xu'a [tra'i])

.." Tôi không biết có xứ nào như xứ ấy không, xứ Rạch Giá của tôi, đất đai đăi người mà người cũng đăi người rất hậu. Năm năm dạy học mà t́nh thầy tṛ nhiều đến không kể xiết. Năm năm bầu bạn với đất đai sông nước mà t́nh nghĩa cao cũng cỡ núi cỡ non. Những người phụ huynh chở tôi đi những cuốc xe không lấy tiền, mời tôi ăn bữa cơm chui đụt dưới cái chái che dựa vách chùa, đưa tôi mượn vốn đi buôn không một tờ giấy lộn làm bằng và cũng không ăn lời một xu nhỏ, đă nai lưng gánh thế cho tôi những thúng đá nặng oằn, đă dang thân hứng bớt cho tôi búa liềm của đám công an tráo trở, đă đưa tay đỡ đần cho tôi những hồi túng quẫn, đă hết ḷng mai mối cho tôi một chuyến vượt biên dù rằng không thành .. Thiệt t́nh nói sao cho hết , những tấm ḷng chung thủy trời biển đó ..

 

.. Nghĩ coi có sướng không ? Ở giữa xứ người lạ hoắc, ông thầy trẻ đă già đến nỗi muốn nh́n không ra, vậy mà gặp lại rồi th́ tṛ cứ tíu tít như một bầy chim sẻ - dù rằng bầy chim cũng đă hơi xơ xác cánh chút đỉnh. Nhưng có hề ǵ ba cái tuổi rong rêu. Cái t́nh nghĩa thầy tṛ nó đâu có chịu già. Nó tươi rói như cọng rau thơm mới cắt ngoài vườn vậy. Nó cũng không chịu chết nữa. Nó đă bị làm thịt mấy lần mà rồi cứ sống nhăn như con Tấm trong chuyện đời xửa đời xưa. Nó sống lại với nguyên vẹn thảo ngay, hết dạ ân cần như không có ǵ đă xảy ra mặc dù mấy mụ "mẹ ghẻ" ác độc đă nhổ lông, vặt cánh, xát muối dồn mắm cả hũ ở phía bên kia biển lớn .."

 

Tác giả Cao Vị Khanh trong tác phẩm "Nghề Thầy" (văn vui), Thư Ấn Quán xuất bản, (được Xí Muội Lâm Hường từ Texas gởi tặng cùng với 2 quyển Thư Quán Bản Thảo tập 18 & 19) đă viết những gịng "vui th́ thật là vui, nghe ra biết mấy .. ngậm ngùi" khi nói về xứ Rạch Giá, người Rạch Giá, t́nh Thầy Tṛ Rạch Giá đầy cảm động v́ những  nghĩa cử cao thượng của những đời đá tảng vô danh nhưng trong ḷng là châu ngọc quí báu. Ngoài ra, tác giả c̣n nói đến một nhóm học sinh "chí t́nh" nữa, như sau:

 

.."Có ai điệu hơn học tṛ của tôi không ? Bỏ tiền ra in thơ giữa buổi mà thơ c̣n nhẹ hơn tờ giấy quyến vấn thuốc rê, chỉ cốt để thầy ḿnh thấy được đứa con tinh thần thai nghén tới mấy chục lần chín-tháng-mười-ngày rồi mà không "lâm sàng" được và cũng c̣n để cho ông thầy cũ có dịp tỏ chí lần chót cùng thiên hạ nữa. Ai sao tôi không biết, chớ c̣n tôi, khi cầm được tập sách mới in thơm phức mùi giấy mực, lúc hoàng hôn đă chập choạng sát gần, tôi có cảm giác giống như vừa chụp bắt được cái bóng hạnh phúc trơn trợt bằng tay không. Tôi sẽ nói sao đây để những người học tṛ cũ biết rằng hạnh phúc là cái ǵ rất đỗi mong manh .. nhưng có thật. Và chính các em, các em đă tạo nó nên h́nh"..

 

*


Cảm tạ những viên ngọc quí, ẩn trong vỏ đá thô kệch sù ś. Xin tri ân cái nh́n thấu suốt và niềm tin bền vững của con người Biện Ḥa Ngày Xưa cũng như những Biện Ḥa Ngày Nay "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu"

 

Cám ơn những việc làm đẹp đẽ cho nhau v́ nhau, của Thầy Tṛ ḿnh, của Bạn Bè ḿnh suốt từ những tháng ngày tang tóc, điêu linh. Xin hàm ơn những chữ T́nh mà Thầy T. Q. Đại đă nêu "Tới đâu tôi cũng thấy T̀NH, t́nh đồng nghiệp, t́nh thầy tṛ, t́nh bè bạn, t́nh thân thích".

 

Cảm ơn tất cả chúng ta, những viên ngọc xanh không t́ vết của Rạch Giá-Kiên Giang (nói riêng), của Đồng Hương Việt Nam luân lạc (nói chung) đang  thầm lặng vô danh, khắp nơi, khắp chốn, ẩn thân quí giá tuyệt vời, nhưng cũng rất nhăn tiền ứng hiện tùy DUYÊN !!! 

 

Cám ơn đời, ơn người

Qua ngàn năm hưng phế

Ngọc-trong-đá tỏa ngời ..

 

 

 

 

(Cuối tháng 06/05)

 

btapthethang7.jpg
(CANADA-Tha'ng 07/2002)

website counter