TRÊN PHẦN ĐẤT của TUỔI THƠ
(Chuyện
phiếm của Gă Siêu)
Chuyện xưa kể lại
rằng: Vào năm 479 trước Tây lịch, Khổng Tử
qua đời và được mai táng trong một ngôi mộ
ở Tứ Thủy Biên, thuộc bắc thành nước Lỗ.
Để tưởng nhớ công ơn dạy dỗ của
thầy ḿnh, Tử Cống, vừa là một học tṛ, lại
vừa là một doanh nhân thành đạt, đă đề
nghị với tất cả các môn sinh, là nên nhất trí
cùng để tang thầy ba năm. Tiếp đó, Tử Cống
c̣n tự dựng một căn lều ngay bên cạnh phần
mộ, để tiện bề nhang khói cho thầy hàng
ngày. Dần dần những người học tṛ khác cũng
bắt chước, tất cả được hơn một
trăm người, cùng dọn đến và làm nhà quanh ngôi
mộ của Khổng Tử. Từ đó h́nh thành một
khu dân cư sầm uất. Người đời sau đặt
tên cho nơi ấy là "Thôn Khổng".
Sở
dĩ những người học tṛ đă dành cho Khổng
Tử những t́nh cảm trân trọng nhất, là bởi
v́ họ đă thấm nhuần những lời dạy bảo
của Khổng Tử.
Thực vậy, theo Khổng Tử,
trong xă hội có ba hạng người chúng ta phải tỏ
ḷng tôn kính mến yêu, đó là quân-sư-phụ,
vua-thầy-cha. Thầy đứng sau vua, nhưng lại
đứng trước cả cha, bởi v́ cha chỉ là
người cho chúng ta cuộc sống, c̣n thầy th́ dạy
cho chúng ta biết phải sống cuộc sống ấy
như thế nào.
Hơn thế nữa, thầy
c̣n nắm giữ một vai tṛ quan trọng đối với
vận mạng của quê hương. V́ thế, người
ta thường bảo: Lương
sư hưng quốc, có nghĩa là thầy
giỏi th́ đất nước được phồn
thịnh. Chính v́ vậy, chúng ta có bổn phận phải tôn sư trọng đạo,
kính thầy và mến đạo. Đạo ở đây là
đạo làm người do Đức Khổng và các bậc
hiền nhân truyền lại, và cho dù thầy mới chỉ
dạy chúng ta được chút xíu, th́ cũng vẫn phải
trọng kính, v́: Nhất tự vi sư bán tự vi sư. Một
chữ là thầy và nửa chữ cũng là thầy.
Bởi
đó, không cần phải chờ tới tháng 7 năm 1946,
khi một tổ chức quốc tế các nhà giáo tiến bộ
được thành lập ở Paris, mang tên gọi là Liên
Hiệp Quốc Tế các Công Đoàn Giáo dục, đồng
thời không cần phải đợi tới năm 1949,
khi bản "Hiến chương các nhà giáo" được
Liên hiệp này ban hành tại một hội nghị ở
Varszawa, thủ đô Ba Lan, ngoài ra cũng không cần phải
đợi chờ đến khi Nhà nước ấn định
chọn ngày 20 tháng 11 làm ngày "Quốc tế hiến
chương các nhà giáo", hay gọi một các đơn
sơ và ngắn gọn hơn, là ngày "Các Nhà Giáo",
người Việt Nam mới tưởng nhớ tới
công ơn của thầy cô, nhưng từ ngàn năm về
trước, quan niệm của Khổng Tử cùng với
Nho giáo đă bén rễ sâu trong tâm hồn người Việt
Nam, nhất là trong lănh vực t́nh nghĩa thầy tṛ.
Thực vậy, đối với
người Việt Nam, từ hàng cùng đinh khố rách áo
ôm cho tới bậc tài cao học rộng, tất cả
đều hay biết về sự quan trọng của thầy
trong việc xây dựng cuộc đời mỗi người
chúng ta, bởi v́:
- Không thầy, đố mày làm nên.
V́ thế, là người học
tṛ, là người môn sinh, chúng ta có bổn phận phải
ghi nhớ công ơn của những vị thầy đă từng
đi qua cuộc đời chúng ta:
- Một chữ nên thầy,
Một ngày nên nghĩa.
Đồng thời phải coi trọng
t́nh cảm của ḿnh đối với thầy:
- Gương vàng rớt xuống
hồ Tây,
Công cha cũng trọng, nghĩa
thầy cũng sâu.
Nhất là phải yêu mến thầy:
- Bồng bồng mẹ cơng con
sang,
Đ̣ dọc quan cấm, đ̣
ngang không chèo.
Muốn sang th́ bắc cầu kiều,
Muốn con hay chữ phải yêu
lấy thầy.
T́nh yêu và sự quí mến đối
với thầy được biểu lộ một cách
đặc biệt, nhất là vào dịp tết nhất và
giỗ chạp, bởi v́ theo quan niệm của người
Việt Nam th́:
- Sống tết, chết giỗ.
Vào dịp tết Nguyên đán, các học
tṛ xa gần náo nức rủ nhau về chúc tết, thăm
hỏi sức khoẻ gia đ́nh thầy. V́ thế, người
ta mới qui định:
- Mồng một tết cha,
Mồng hai tết chú,
Mồng ba tết thầy.
Để hiểu được
t́nh nghĩa thầy tṛ ngày xưa, gă xin trích lại nơi
đây một đoạn trong cuốn "Việt Nam phong
tục" của Phan Kế Bính:
"Học
tṛ khi mới vào học gọi là nhập môn, phải kiếm
buồng cau lạy yết kiến thầy hai lạy. Lúc học
gặp khi mồng năm, ngày tết như tết Nguyên
đán, tết Thanh minh, tết Đoan dương, tết
Trung thu, mùa nào thức ấy, hoặc cặp gà, thúng gạo,
hoặc đường mứt bánh trái, hoặc dăm ba
quan tiền, tùy t́nh đa thiểu mà đem đến lễ
thầy.
Khi nhà thầy có việc, hoặc
việc hiếu, hoặc việc hỉ, hoặc khi có kỵ,
học tṛ cũng kiếm lễ vật đến lễ
và giúp đáp công việc cho nhà thầy.
Cả
bao nhiêu học tṛ hội lại gọi là hội đồng
môn. Hội đồng môn của thầy lập ra hoặc
của học tṛ hội lại mà đặt ra. Thầy
xem trong môn sinh ai là người hiển đạt hơn hoặc
có tuổi hơn th́ bầu làm trưởng tràng để
đứng đầu mà coi sóc việc môn sinh. Lại bầu
một người làm giám tràng để hiệp trợ với
trưởng tràng ..
Khi cha mẹ thầy mất, đồng
môn cũng phải hội giúp thầy ít tiền và phải
sửa lễ phúng viếng đưa đón phân ḿnh. Đến
khi thầy hoặc vợ thầy mất, th́ đồng
môn phải xử trọng thú hơn, mà phải phục tùng
quyền huynh là người kế tự của thầy.
Phải bổ bán mỗi người dăm ba đồng
bạc để giúp cho thế huynh. Lúc đưa ma, hết
thảy môn sinh phải khăn trắng áo trắng
đưa đến huyệt, lạy tạ ba bốn lạy
mới trở về. Về đến nhà, hội họp
với nhau giết ḅ giết lợn tế thầy một
tuần.
Môn sinh cũng phải để
tang thầy học ba năm, song không phải phục tang chế,
gọi là tâm tang, nghĩa là để trong bụng mà thôi .."
Và Phan Kế Bính kết luận:
"Người ta ở
đời nhờ có cha mẹ sinh ra ḿnh, lại phải nhờ
có thầy dạy cho ḿnh th́ ḿnh mới khôn, biết việc
này việc nọ, mới nên người, cho nên học tṛ ở
với thầy như con ở với cha mẹ, ấy cũng
là một mối luân thường của Á đông ta".
Viết đến đây, bỗng
gă lim dim đôi mắt, mơ về tuổi thơ của
gă. Hồi đó, trong thôn làng của gă chỉ có một ngôi
trường tiểu học. Trường tiểu học
lúc bấy giờ chỉ gồm có lớp mẫu giáo, rồi
lớp năm, lớp tư, lớp ba, lớp nh́ và lớp
nhất. Không có nhà trẻ, mầm chồi chi hết. Đi
qua ngôi trường tiểu học này, người ta
thường nghe thấy tiếng học tṛ sang sảng
đọc bản cửu chương, được in
vào b́a vở:
-
Hai lần một là hai, hai lần hai là bốn, hai lần
ba là sáu, hai lần bốn là tám ..
Thầy phụ trách lớp mẫu
giáo tên là Roăn, nhưng mọi người trong làng, từ
già đến trẻ, tất ráo cả nam phụ lăo ấu
đều gọi thầy bằng một tên gọi rất
thân thương, đó là thầy giáo .. già, bởi v́ thầy
cũng đă mang nặng tí tuổi đời trên đôi
vai gầy của ḿnh.
Lúc nào thầy cũng cầm trong
tay chiếc thước kẻ, mục đích là để
gơ nhịp xuống bàn khi học tṛ tập đọc, chứ
chẳng đánh đứa nào bao giờ. Thầy chăm
sóc từng học tṛ như một người mẹ. Dỗ
dành bằng cục kẹo khi có đứa khóc nhè, nhẹ
nhàng phân xử khi hai đứa .. "uấn nhau", thậm
chí c̣n phải dẫn ra cầu ao giặt giũ và tắm rửa,
khi có đứa lỡ .. "ị" ra quần. Bọn
học tṛ lớp mẫu giáo thời bấy giờ thường
được diễn tả như sau:
- Học tṛ tḥ ḷ mũi xanh,
Cầm miếng bánh đúc chạy
quanh nhà trường.
Với
những môn sinh của các cụ đồ, bài học đầu
tiên là một vài câu trong Tứ Thư hay Ngũ Kinh, chẳng
hạn:
- Nhân chi sơ tính bản thiện.
Câu này vốn được "cải
biên" để áp dụng cho xấp nhỏ:
- Nhân chi sơ là sờ vú mẹ.
C̣n học tṛ lớp mẫu giáo,
bài học đầu tiên là nhận mặt những chữ
cái. V́ thế, chẳng biết thầy lấy ở đâu
hay tự bịa ra những câu thơ, những câu vè để
cả lớp cùng đọc cho dễ thuộc và dễ nhớ,
chẳng hạn như:
- O tṛn như quả trứng gà,
Ô thời có mũ,
Ơ thời thêm râu!!!
Hay:
- U - cê úc là cục mắm tôm,
A - i ai là chai nước mắm!!!
Đến khi tập viết, thầy
thường cầm tay từng đứa để nó nắn
nót tô lại từng chữ thầy đă viết bằng
bút ch́ ..
Mồng
ba tết, mỗi đứa được mẹ gói ba hay
bốn quả trứng trong một chiếc khăn tay
để nó xách tới nhà thầy. Khi đến nơi, những
quả trứng ấy được gom vào một chiếc mâm lớn để tết thày. Một
vài đứa chẳng may làm bể trứng trên đường
đi, bèn đứng khóc đỏ cả mắt, mất
công thầy phải dỗ .. Một buổi sáng ở nhà thầy
sao mà vui thế. Trước khi ra về, mỗi đứa
đều được thầy ĺ x́ cho một đồng
tiền mới.
Qua bao nhiêu năm, thầy chỉ
.. chuyên trị lớp mẫu giáo mà thôi. Được mời
dạy lớp cao hơn, thầy luôn mỉm cười và
từ chối. Bao nhiêu lớp mẫu giáo đă qua tay thầy
đào luyện. Dù đă lên thành phố lập nghiệp, dù
đă gặt hái những thành công trong cuộc sống, thế
nhưng mỗi khi có dịp về làng, những người
học tṛ năm xưa ấy vẫn không quên tới
thăm thầy giáo già của ḿnh.
Ngày tháng cứ âm thầm trôi qua.
Đôi vai thầy gầy hơn. Cặp kính trên đôi mắt
thầy lại dầy hơn. Rồi một buổi sáng, cả
làng đều xúc động khi nghe tin thầy mới qua
đời. Và ước vọng cuối cùng của thầy,
đó là:
- Xin hăy chôn cất tôi trên phần
đất của tuổi thơ.
Số
là nghĩa địa của làng gă được chia làm
hai khu vực. Khu vực bên trái dành cho những trưởng
thành và già cả. Khu vực bên phải dành cho những
người c̣n trẻ và các em nhỏ.
Suốt mấy chục năm trời,
đời thầy gắn liền với tuổi thơ.
Có thể nói: Thầy sống v́ tuổi thơ và sống
cho tuổi thơ, nên bây giờ, thầy đă được
yên nghỉ bên cạnh những em nhỏ của thầy.
Tác giả bài viết: Gă Siêu
(@ Internet)