Thành Toàn
(HUỲNH TRUNG CHÁNH)
Sinh
trưởng trong một gia đ́nh trung nông tầm thường,
đời đời lam lũ với rẫy bái ruộng
nương, Phan Thế Vinh vốn không có tham vọng tiến
thân bằng nghiệp văn chương khoa cử. Do hoàn cảnh côi cút, kế mẫu
quá khắt khe, nên để tránh chuyện gia đ́nh lục
đục khó xử, người cha mượn cớ học
hành, để tống con đến nhà người cậu
họ tên Tú Kiết, để mà tị nạn. Tủi thân phận, Thế Vinh tận
tâm học hành. Nhờ chuyên cần,
nhất là nhờ thông minh thiên phú, Vinh tiến bộ vượt
bực, nổi danh là bực văn tài xuất chúng. Tú Kiết thương mến tài
năng, đích thân đưa chàng đến gặp cụ
Nghè Đỗ Bảng, để nhờ cụ Nghè thâu nhận
dạy dỗ, hầu tài năng của chàng có cơ hội
phát triển sâu rộng hơn.
Cụ Đỗ Bảng nguyên là vị Hàng Lâm Đại-học-sĩ
tại đất Thần Kinh, công danh đang thời rực
rỡ bỗng được tin hiền mẫu qua đời
phải từ quan để cư tang. Chẳng bao lâu, người vợ
yêu lại bạo bịnh từ trần. Biến cố dồn
dập khiến cụ Nghè yếm thế, chẳng màng
đến công danh sự nghiệp, quyết tâm sống
đạm bạc chốn quê mùa, lấy việc trao truyền
chữ nghĩa thánh hiền cho thế hệ mai hậu
để làm niềm vui. Thế
Vinh sớm được cụ Nghè coi là bảo đồ,
v́ chàng ưu tú cả tài năng lẫn đức hạnh,
nên có hoài vọng đào tạo người học tṛ thành
một nhân tài hiếm có cho đất nước. Đáp lại, Vinh luôn luôn chứng
tỏ là một người học tṛ xứng đáng, tôn
kính và hiếu dưỡng thầy như từ phụ. Cụ Nghè chỉ có một cô con
gái tên Quyên Quyên. Ngày Thế Vinh
mới đến nhập học, Quyên Quyên c̣n bé bỏng cỡ
tuổi 12, đối với bọn học tṛ lớn, vẫn
thường ngây thơ ṿi vĩnh để được
chiều chuộng đưa đi dạo quanh vườn,
rồi đ̣i hoa, đ̣i bướm. Vào học, Quyên Quyên cũng ngồi
cạnh Vinh, nên hai người đă có cảm t́nh sâu đậm,
dù mức độ giao tiếp cứ giảm dần khi
Quyên Quyên đến tuổi dậy th́. Chỉ mấy năm sau, Quyên
Quyên biến thành một thiếu nữ yêu kiều, nết
na thùy mị, công dung ngôn hạnh vẹn toàn. Thế Vinh thầm yêu Quyên Quyên tự
bao giờ, nên mỗi khi nghe phong thanh có gia đ́nh trâm anh thế
phiệt nào nhờ mai mối xin cưới nàng, th́ Vinh
đau khổ bỏ ăn, bỏ ngủ, ngớ ngẩn
như kẻ điên khùng. Rồi
cho đến khi được tin cụ Nghè khước
từ họ, th́ chàng lại phơi phới hân hoan nghĩ
rằng cụ Nghè đă thầm dành Quyên Quyên cho chàng: cụ
thương và hiểu rơ tài năng và tính t́nh tṛ. Thế là Vinh chỉ cần cố
gắng học, chờ ngày đoạt bảng vàng rồi
sẽ vầy duyên cùng người đẹp.
Chễm chệ trên kiệu tân khoa
vinh quy bái tổ, Phan Thế Vinh rộn ràng vẽ vời mộng
đẹp. Có tiếng ḥ
lơ ấm áp của ai trên cánh đồng ruộng lúa:
Ḥ .. ơ! Chim Quyên ăn trái nhăn lồng
Ḥ .. ơ! Thia lia quen chậu, vợ chồng
quen hơi.
Làm
Thế Vinh càng mơ về Quyên Quyên. Chàng th́ thầm một ḿnh:
"Quyên ơi! Ḿnh chưa là vợ
chồng, mà sao anh nhớ nhung tha thiết mùi con gái đang
xuân, mùi trinh nữ ngọt ngào của em quá đi!"
Vừa
đến ranh giới làng Chú Tượng, huyện Mộ
Đức, Thế Vinh ra lệnh cho phu kiệu dừng lại. Chàng trút bỏ bộ phẩm phục,
thay bộ quần áo thô thư sinh tầm thường cũ
kỹ, một ḿnh đi bộ đến nhà thầy. Thế Vinh muốn về nhà thầy
với tư cách là một người học tṛ hiếu
kính, chớ không xênh xang áo mũ tân khoa, giảm đức
độ khiêm cung của kẻ sĩ.
Dù
nóng ḷng gặp thầy và Quyên Quyên, Thế Vinh cũng
đành phải ghé lại căn nhà ngoài, gian nhà dành cho các
người học tṛ xa nhà ở trọ, để
thăm hỏi các bạn học hỏng thi. Gian nhà trống trải làm Vinh ngạc
nhiên tột độ. Thông
thường, ngay cả Tết Nguyên Đán, học tṛ vẫn
luân phiên cử người trực tại trường
để chăm sóc thầy.
Vinh cuống quít bước về gian nhà chính. Ngôi nhà cũng vắng tanh. Vinh hồi hộp chạy ṿng ra
sau nhà bếp. Chàng mừng rú
lên khi đi t́m thấy d́ Tư đang lúi cúi chăm sóc mấy
nọc trầu. T́m hiểu
nguyên nhân về sự vắng mặt của thầy, Vinh rụng
rời vỡ mộng. Cụ Nghè Đỗ Bảng và Quyên
Quyên đồng xuất gia tại chùa Thiên Ấn. Cụ Nghè đă phát nguyện xuất
gia từ lâu, nhưng lần lựa chờ ngày cô con gái
thành gia thất. Không ngờ
Quyên Quyên thường theo cha lễ Phật nên cũng tiêm
nhiễm hương vị giải thoát, và cương quyết
chọn con đường tu hành.
Mọi việc đều được chuẩn bị
sẵn sàng cả năm rồi, nhưng cụ Nghè nghĩ
thương đám học tṛ, nên tạm hoăn chờ ngày học
tṛ lên đường đi thi mới lên chùa thế phát.
Thế
Vinh lừng khừng trở ra, ḷng rối ren áo năo. Trước sân, hoa phượng vĩ
vẫn rực rỡ như ngày nào, mà giờ đây, nàng
đă không c̣n nữa? Bất
chợt, Thế Vinh cảm thấy lân mẫn với nhà
thơ Thôi Hộ đời Đường. Chàng ngâm nga bài
thơ ứng khẩu theo thi tứ người xưa:
Ngày xưa cũng
ở chốn này,
Em cùng hoa phượng,
hây hây má hồng.
Bây giờ em ở
cửa "không",
Nh́n hoa cợt gió,
chạnh ḷng nhớ thương. (1)
Nhớ
lại t́nh sử Thôi Hộ, bỗng Vinh thoáng thấy có tia
hy vọng nhen nhúm trong ḷng. Ngày
xưa, khi Thôi Hộ chỉ thấy c̣n có hoa đào cợt
gió đông mà không thấy người đẹp, bèn đề
thơ bên cửa. Người
con gái trở về, nh́n thơ mà tương tư chàng thi
sĩ, nên ngày càng sầu héo.
Đến khi Thôi Hộ hay tin t́m đến, th́ nàng
đang cơn hấp hối vô vọng. Thế nhưng những giọt
nước mắt của Thôi Hộ đă làm cho người
đẹp hồi sinh. Vinh nghĩ,
chàng sẽ t́m cho gặp Quyên Quyên.
Rồi biết đâu những giọt nước mắt
của chàng sẽ khiến cho Quyên Quyên cởi bộ áo nâu
ṣng hoàn tục. Đó là lối
thoát lư tưởng mà Vinh cố bám víu vào để hy vọng.
Thiên
Ấn tự (2) là một ngôi chùa cổ kính do sơ tổ
Pháp Hoa tạo dựng trên đỉnh núi Thiên Ấn, xă Niêm
Hà, Quảng Ngăi. Trái núi h́nh dáng
vuông vắn xinh xinh như một dấu ấn, ấn trời
-, phong cảnh thật cô liêu và trang nhă. Thế nhưng Vinh đâu c̣n tâm
trí nào để ngoạn cảnh, chàng hấp tấp leo
trèo cho mau đến đỉnh núi. Mệt nhọc quá! Vừa gạt mồ hôi nhễ nhại,
Vinh vừa rủa thầm mấy ông sư bà văi bày chi tṛ tu
hành mê tín để quyến rũ Quyên Quyên, làm khổ thân
chàng.
Lên
chùa, Vinh mới biết ni chúng cư trú ở một am riêng
biệt gần đó, do sư bà Khánh Hỷ hướng dẫn
tu học. Ni viện có truyền
thống không tiếp khách thập phương. Du khách chỉ có thể liên lạc
với ngôi chùa chính. Thầy
tri khách, thiền sư Bảo Ấn tiếp kiến Vinh, hỏi
nguyên do chuyến viếng thăm.
Vinh ú ớ không biết phải trả lời sao cho
phải. Giữa chàng và Quyên
Quyên chẳng có chút giây liên hệ, c̣n mối t́nh cũng chỉ
đơn phương dấu kín trong ḷng, chàng khó viện
lư do xin gặp mặt. Tuy
nhiên, có lẽ nhờ thầy tri khách ôn ḥa thông cảm, nên
Vinh lần lần bộc lộ được nỗi
ḷng. Trút được uẩn
khúc, Vinh khóc như mưa, để van xin thầy tri khách
chuyển lời đến Quyên Quyên sao cho nàng thấu hiểu
thâm t́nh của chàng. Không ngờ
Quyên Quyên ḷng dạ sắt đá không cho chàng gặp mặt,
chỉ nhờ thầy tri khách nhắn lại: " Sa di ni
Bảo Tường, - pháp danh của Quyên Quyên -, quyết
tâm tu hành nên không tiện gặp người đời bàn
bạc chuyện thế gian phiền năo nữa .."
Thế
Vinh chẳng chịu thua, cứ năn nỉ xin được
gặp Quyên Quyên một lần rồi vĩnh viễn không
trở lại. Trước
thái độ si t́nh khổ sở của Vinh, thầy tri
khách siêu ḷng, đồng ư thuyết phục dùm Quyên Quyên lần
nữa. Lần này ni cô dứt
khoát cho biết, ngày lễ xuất gia, ni cô đă phát nguyện
trước Tam Bảo, là trong đời sẽ chỉ nghe
và luận bàn Phật Pháp, nên rất tiếc không thể hầu
chuyện với kẻ thế gian, trừ khi gặp
người am hiểu Phật Pháp để bàn luận về
Phật Pháp mà thôi.
Thế
Vinh buồn bă lủi thủi lui gót, nhưng chưa ra khỏi
cửa chàng đă quay trở lại. Vinh nghĩ học Phật đối
với chàng không khó. Chàng phải
hội đủ điều kiện tiên quyết này để
đối diện được với Quyên Quyên, rồi
sau đó, nhân việc bàn luận đạo, sẽ vạch
trần những điều mê tín và sai lầm hầu thuyết
phục nàng hoàn tục.
Vinh
yêu cầu thầy tri khách hướng dẫn chàng học
Phật. Sư Bảo Ấn
là vị tăng sĩ học vấn uyên bác nên đàm luận
với kẻ thông tuệ như Vinh rất tương
đắc. Thầy tri khách
tŕnh bày cho Vinh những điểm đại cương,
rồi trao cho Vinh Kinh Luận từ thấp đến cao
để tự nghiền ngẫm. Nhờ học Phật có
phương pháp, Vinh am hiểu Phật giáo thật căn bản,
từ đó, quan niệm của Vinh thay đổi lần. Thái độ khinh thường
chê bai Phật giáo nhường chỗ cho sự kính phục
và nghiêm túc học hỏi.
Nghiên cứu đến kinh Lăng Nghiêm, Vinh lại ngạc
nhiên đến tột độ.
Kinh bao trùm những nghĩa lư huyền bí cao diệu,
văn pháp lưu loát, lư luận vững mạnh, khí thế
hùng tráng .. không thể tưởng tượng nổi. Đến phần Phật giảng
về Chân tâm và vọng tâm, bất th́nh ĺnh, Vinh thấy có
ánh sáng tràn ngập cả châu thân.
Một niềm vui cao tột, lạ lùng khó tả làm
thay đổi toàn vẹn con người của chàng. Chàng khám phá được rằng
cái sở học trần tục bấy lâu nay chàng tự
hào, chỉ là mớ kiến thức hạn hẹp lẩn
quẩn chạy theo vọng tâm nông cạn. Rồi chàng dơng mănh PHÁT BỔ
ĐỀ TÂM, quyết học theo hạnh làm PHẬT, để
trở về cơi chân tâm diệu minh thường hằng.
Mối
sầu t́nh giăng giăng bỗng dưng nhẹ hẳn
ra. Vinh cảm tạ thầy
Bảo Ấn, và dù trong đáy ḷng sâu kín Vinh vẫn mong mỏi
nh́n Quyên Quyên lần chót nhưng chàng tự nghĩ ḿnh
đă hiểu đạo th́ c̣n chạy theo giả cảnh
chi nữa, nên dứt khoát rời bước.
Thế
Vinh trở lên Phú Xuân(3) để phụng mệnh Chúa. Dù biết ḿnh là kẻ mới
đỗ đạt, vừa nhậm chức nếu từ
quan ngay th́ có thể bị gán tội khinh xuất mệnh
Chúa, nhưng chí xuất gia dơng mănh giúp Thế Vinh can đảm
xin Chúa khoan hồng. Chúa Nguyễn
Phúc Khoát (4) là vị Chúa nhân từ, lại hâm mộ Phật
giáo từ thuở nhỏ. Ngài
từng ước mong xuất gia nhưng v́ nghiệp Chúa
ngăn trở không thi hành được, nên chẳng những
thông cảm mà c̣n khuyến khích Thế Vinh theo đuổi
lư tưởng xuất gia đầu Phật. Thương chàng tiến sĩ trẻ
tuổi mà có đạo tâm, Chúa nhận Thế Vinh làm dưỡng
tử, đích thân gởi chàng đến Ôn Minh Giác, chùa Linh
Mụ (5) để nhờ thu nhận.
Về
trụ tŕ chùa Kim Quang chưa đầy ba năm, đại
sư Trí Thông, pháp hiệu của Phan Thế Vinh, đă nổi
tiếng là bậc tam tạng pháp sư uyên bác nhất tại
sứ đàng trong. Đại
sư đă sẵn có thanh thế lớn: Đệ tử
ruột của Quốc sư và là dưỡng tử của
Chúa Nguyễn đương thời. Đại sư nguyên là vị tiến
sĩ tài ba, hùng biện, khéo léo, và giỏi tổ chức,
nên đă biến ngôi chùa khiêm tốn trước kia, thành một
tự viện nguy nga hùng vĩ nhất tại đất
thần kinh. Thật ra khi
đại sư được chúa yêu quí, th́ quan quyền
các giới cũng nối đuôi nhau " mộ đạo". Các bậc giàu sang đánh hơi
được cũng ùn ùn quy y để có chỗ
nương tựa. Rồi sau
đó, giới b́nh dân cũng cuồng nhiệt thu hút đến. Dân chúng quy về đông đảo
th́ Chúa và quan quyền càng nể trọng sư, mà chánh quyền
càng nể trọng, th́ dân chúng lại càng đổ xô về
nhiều hơn nữa. Cứ
thế mà oai danh của đại sư Trí Thông lên ngùn ngụt. Ngôi tự viện, do đó,
được khuyếch trương vĩ đại là lẽ
đương nhiên.
Vừa
qua khỏi cổng tam quan, khách đă thấy hiện rơ hàng
chữ " Sắc tứ Kim Quang Tự" trên bảng
đồng chạm nổi thật đẹp. Trước sân chùa, vườn
cây kiểng vô giá, gồm những cây cổ thụ con con cắt
tỉa công phu, nép ḿnh trong những chậu kiểu cổ
xưa. Thế giới
được thu nhỏ lại, với ḥn non bộ xinh
xinh, phản ảnh đầy đủ cảnh núi non, rừng
rú, biển khơi .. đầy thơ mộng. Trong chùa, kèo cột toàn dùng những
loài danh mộc, chạm trổ công phu, từng viên đá, từng
viên gạch, từng vật dụng chưng bày đều
được đích thân đại sư chọn lựa
sưu tầm. Có thứ phải
đặt mua từ Trung Quốc, có thứ do bàn tay thợ
khéo nhất nước hoàn thành.
Đây là chuông vàng, khánh bạc, kia là lọ lục b́nh
cổ đời Đường, chậu cắm nhang
đời Tống .. Đặc biệt nhất là tượng
Phật điêu khắc linh động, biểu lộ nét
trang nghiêm mà siêu thoát. Tượng
Phật tuy rỗng ruột nhưng lớn bằng người
thật, đúc bằng sáu ngàn lượng vàng y, tạo dựng
được hoàn toàn do tài ba của đại sư. Dĩ nhiên đại sư cũng
tự hào và quí tượng Phật vàng vô cùng, nhất là,
chính v́ công nghiệp tạo tượng nầy, mà đại
sư suưt phải bỏ mạng.
Nguyên khi đại sư quyên góp gần đủ số
vàng cần thiết, th́ được một đại
thí chủ thỉnh về Quảng Nam đăng đàn thuyết
pháp. Chuyến hoằng pháp
đó thành công rực rỡ.
Đại sư lạc quyên thêm trên một ngàn lượng
vàng nữa. Trên đường về, đại sư và
người đệ tử nhỏ, chú Quảng Long, bị
bọn cướp đón đường tại đèo Hải
Vân làm dữ để đoạt vàng. Bọn cướp không ngờ
đại sư đă cẩn thận thuê bảo tiêu chở
vàng về Phú Xuân bằng đường thủy. Lỡ bộ, bọn cướp
đành giữ người đệ tử làm con tin, thả
đại sư về với điều kiện mang một
ngàn lượng vàng chuộc mạng đệ tử. Về đến Phú Xuân, đại
sư ngần ngừ không biết giải quyết sao cho phải. Vàng do Phật tử cúng dường
đúc tượng Phật, đại sư không thể tự
chuyên xử dụng, nhất là, ngày khởi công đúc
tượng đă gần kề, không thể đ́nh hoăn
được. Rồi th́ tin
tức về bọn cướp cũng đến tai Chúa
Nguyễn. Chúa ra lệnh cho
quan quân tức thời tiêu diệt chúng. Bọn cướp tan ră dễ
dàng, nhưng trước khi sa cơ, chúng nổi cơn hạ
sát chú Quảng Long để trả thù. Thương đệ tử, th́
đại sư chỉ có c̣n một phương cách là mang
xác về chôn cất và cầu siêu mà thôi.
Vùng
đất ven biển chạy dài theo dăi Trường
Sơn, đất đai đă cằn cỗi, mà nạn lụt
lội thường xảy ra.
Mùa đông năm Canh Th́n, cơn băo dữ dội lại
tàn phá vùng ven biển. Trung tâm
băo hướng về Quảng Nam, song Thuận Hóa vẫn bị
ảnh hưởng, dù tương đối nhẹ
hơn. Tuy nhiên, tại Phú Xuân,
mưa vẫn dầm dề không ngớt và gió th́ gào thét ghê
rợn, nước tràn ngập cuốn phăng hoa màu, nhà cửa
đồng bào. Nạn nhân: kẻ
chết, người sống trong cảnh màn trời chiếu
đất, cũng không phải là ít. Nạn đói rồi chắc chắn
sẽ xảy ra.
Kim
Quang Tự, tuy rất an toàn v́ xây dựng trên nền móng vững
chắc, nhưng đại sư Trí Thông vẫn trằn trọc
không yên. Đại sư
đích thân đôn đốc tăng chúng chia phiên nhau canh giữ,
đề pḥng mọi bất trắc. Sau mấy ngày nổi cơn thịnh
nộ, gió dịu dần rồi hết hẳn. Nh́n ngôi chùa nguyên vẹn khang trang
vươn ḿnh đón ánh nắng ban mai, đại sư Trí
Thông cảm thấy sung sướng làm sao. Giờ th́ đại sư có thể
yên tâm soạn thảo chương tŕnh Phật sự quy mô
sắp tới. Người
thị giả bỗng gơ cửa báo tin có ni cô Bảo Tường,
xin diện kiến. Đang bận
rộn, không muốn mất th́ giờ vô ích, đại
sư dự định từ chối, nhưng nghe pháp danh
quen quen, nên đại sư ra lệnh mời vào.
Vừa thoáng thấy ni cô, đại
sư bỗng giựt ḿnh sửng sốt. Ni cô chính là Quyên Quyên ngày trước. Xa nhau đă hơn tám năm, ni cô
độ chừng 25 tuổi, tuổi nẩy nở toàn vẹn,
nên tuy vận áo nâu ṣng mà vẻ đẹp lại rực rỡ
hơn xưa. Mối t́nh sâu
đậm vùi chôn trong đống tro tàn dĩ văng, bỗng
dưng bừng dậy mănh liệt.
Đại sư ấp úng:
-
Quyên Quyên ! Quyên Quyên !
-
Tiểu ni pháp danh Bảo Tường. Xin kính chào đại sư tiến
sĩ !
Trí
Thông lấy lại được b́nh tĩnh, sư mỉm
cười hân hoan:
-
Thôi mà cô Bảo Tường !
Danh vị tiến sĩ hư ảo kia mà cô vẫn
c̣n nhớ hay sao ?
-
Dĩ nhiên là phải nhớ !
Thầy tri khách đă căn dặn phải tôn xưng
đại danh là "tiến sĩ đại sư"
th́ mới được tiếp kiến.
Lời nói thẳng thắn của
sư cô làm sư Trí Thông đỏ mặt. Thật ra, khi phát nguyện xuất
gia, đại sư đă khinh thị danh hiệu hư vị
tiến sĩ hư ảo như cỏ rác. Thế nhưng, người
đời lại coi hành vi buông bỏ công danh là trọng,
nên thường nhắc nhở tán tụng. Đại sư ngăn cản thế
nào cũng không chấm dứt được. Đến khi có người đệ
tử thương thầy quá, tán tụng thầy là vị
tiến sĩ đại sư, th́ mọi người toa rập nhau gọi theo. Lúc đầu, đại sư cũng
hơi khó chịu, nhưng nghe măi quen dần th́ đâm ra
ưa thích. Bây giờ, nếu
có người nào thưa hỏi mà thiếu danh vị tiến
sĩ, th́ đại sư không mấy hài ḷng. Bọn đệ tử biết bụng
dạ thầy, dặn ḍ khách rập khuôn theo mà nịnh bợ. Sự kiện đó, đến
nay đại sư mới hiểu rơ, nên có phần xấu
hổ. Đại sư
đành phải làm lơ, hướng câu chuyện sang đề
tài tương lai đạo pháp và xây dựng tự viện,
mà quên lửng không hỏi lư do viếng thăm của ni
cô. Ni cô chính là nguyên nhân đă
khiến đại sư phát đại nguyện xuất
gia, ngày nay, ni cô hiện diện đúng lúc để chứng
kiến thành công vượt bực của sư, nên sư
cao hứng thao thao bất tuyệt. Sư hướng dẫn ni cô
đi xem chùa, giải thích cặn kẽ từng khía cạnh
đặc thù của lề lối kiến trúc, nét sắc
sảo điêu khắc, trị giá của các chậu, b́nh ..
cổ kính. Sau cùng, đại
sư hănh diện tŕnh bày công tŕnh to lớn để hoàn
thành việc đúc pho tượng Phật bằng vàng y, trị
giá trên sáu ngàn lượng.
Bấy
giờ, ni cô mới điềm đạm lên tiếng
:
-
Thưa đại sư ! Tiểu ni đến đây v́ có
tâm nguyện mong cầu đại sư giúp đỡ ..
-
Ni cô yên tâm. Chuyện khó khăn thế nào, th́ ta cũng làm
sao cho sư cô vui ḷng.
-
Không dám ! Thưa đại
sư ! Băo lụt phá hoại
mùa màng. Dân chúng đói rách rất
là khổ sở. Tiểu ni
kính xin đại sư mở lượng từ bi đóng
góp phần nào cho quỹ cứu trợ ..
-
Ta sẽ kêu gọi Phật tử bổn tự góp công sức
vào việc phước thiện đó !
-
Thưa đại sư ! Việc
lạc quyên trong lúc này tiến hành rất chậm. Dám nào !
Xin đại sư đổi tượng Phật
thành sáu ngàn lượng vàng để đem đi cứu
đói, th́ công đúc thật vô lượng !
-
Ôi ! Sao ni cô lại bạo gan
xúi giục ta làm việc phạm thượng tội lỗi,
là bán tượng Phật như vậy ?
-
Tượng Phật chỉ có
tính cách tượng trưng, th́ tượng đá, cây hay
vàng đều giá trị như nhau. Vả chăng, tâm nguyện của chư Phật là đại
từ bi cứu khổ chúng sanh, nếu đại sư đổi tượng
thành thực phẩm cứu trợ dân, tức là hành theo tâm nguyện của chư Phật. Tiểu ni không có điều ǵ gọi
là phạm thượng cả.
Đề nghị lạ lùng của
ni cô làm sư Trí Thông ngớ ngẩn. Cả đời đại
sư, đại sư đă tận lực lo cho chùa, lo
đúc tượng Phật vàng đó. Đại sư thương từng
viên gạch, từng viên đá, từng cái kèo, cái cột ..,
không bao giờ có ư nghĩ là sẽ xa rời, sẽ mất
mát .., huống chi là có ư nghĩ bán pho tượng bảo vật,
càng suy nghĩ, sư càng thấy thương yêu không rời
bỏ được. Tượng
Phật đó đại sư coi như hơi thở,
như mạng sống của ḿnh .. nên đại sư phải
tận lực bảo vệ.
Cho nên, dù là nàng, là Quyên Quyên, mà t́nh yêu vẫn
vương vấn khôn nguôi, đại sư vẫn không
đánh đổi pho tượng được. Đại sư cất tiếng
la, thảng thốt như tiếng hét thất thanh của
người chết đuối:
-
Không! Không thế nào được
!
-
Tiểu ni hiểu là đại sư đă dính mắc sâu
đậm ngôi chùa nầy, với tượng Phật nầy,
không thể nào xả bỏ được. Giờ này! Dầu đức Phật Di
Đà có đích thân đón rước đại sư về
cơi Tây Phương Cực Lạc, chắc đại sư
cũng từ chối. Đại
sư nhất quyết ở lại để ôm giữ
ngôi chùa và pho tượng mà thôi.
Giọng
nói của ni cô Bảo Tường nhỏ nhẹ, mà đại
sư nghe như tiếng gầm thét bên tai. Đại sư lặng người
thấy ni cô từ giă ra đi, mà không biết dùng lời lẽ
ǵ để cầm khách lại.
Sư lẩm bẩm một ḿnh: "Có thật là ḿnh
đă tham nhiễm, quyến luyến như vậy sao? Ḿnh đă bám víu an hưởng cái
CÓ hời hợt như kẻ thế tục chăng?". Có tiếng thằn lằn năo nuột
chắc lưỡi làm đại sư rùng ḿnh. Nỗi sợ hăi mông mênh xâm chiếm.
Đại sư lại nghĩ: " Ḿnh tham đắm chẳng
rời, nếu chết lúc này, th́ chắc không thể nào
siêu thoát được, bất quá, cũng như con thằn
lằn kia, ḅ lang thang quanh chùa, nh́n từng viên gạch, từng
viên đá .. để mà chắc lưỡi tiếc
thương ..".
Cảm
thấy muôn vàn hổ thẹn, đại sư vào tăng
pḥng đóng kín cửa để tự quán sát sự diễn
biến của tâm ḿnh trong thời gian gần đây.
Ngày
sư được Chúa thượng vời về Kim
Quang tự, tâm của sư trong trắng, luôn luôn tâm niệm
trau dồi đức hạnh để hoằng
dương Phật Pháp. Sư
được Chúa thương yêu, rồi bao kẻ đua
nhau chạy theo nịnh bợ tâng bốc thổi phồng
sư lên mây. Lúc đầu,
sư dè dặt không để những lời thuận tai
đó vào tâm, nhưng lần lần sư bị sa lầy. Sư tin tưởng sư chính là
bậc tu hành đạo cao đức trọng, một
"đệ nhất danh tăng" kim cổ nước
Việt. Từ đó, sự
cuồng ngạo mống niệm một kế hoạch tái
thiết Kim Quang tự thành ngôi đệ nhất tự viện
tại xứ đàng trong (6).
Thế rồi, sư lẩn quẩn trong đầu ư
nghĩ kiếm tiền, gom góp cho thật nhiều tiền. Sư nh́n ai, nh́n vấn đề
ǵ, cũng chỉ thấy khía cạnh tiền. Sư đánh giá Phật tử,
kính trọng, ghét bỏ cũng trên căn bản đó. Đôi khi, nếu phải xử dụng
mánh khóe hay lợi dụng chút y quyền của Chúa, để
có tiền lo cho chùa, th́ sư cũng không từ nan. Sư vẫn thuyết pháp, vẫn
dạy đạo .. để ai tu thời tu, c̣n phần
sư, dường như .. sư không tu. Sư chỉ coi đó là một
b́nh phong để thu góp tiền cho chùa. Thế thôi.
Trời
bắt đầu tối hẳn.
Sư lẻn ra ngoài lủi thủi đi theo con
đường làng, ngoái lại nh́n ngôi chùa khang trang, sư
càng hổ thẹn về đạo đức rỗng tuếch
của ḿnh. Trời trong và
đẹp. Vầng trăng
non vừa đủ sáng để soi rọi cảnh tang
thương mà trận băo tàn ác đă dày xéo xóm làng. Rải rác, vài đám lúa tơ mới
cấy bị nước cuốn trôi, năm ba cây to trốc
gốc, và cành lá th́ rơi rụng khắp nơi. Mười căn nhà dân bị cuồng
phong cuốn mất. Không biết
số phận nạn nhân đói rách như thế nào? Ḷng sư bỗng tràn ngập t́nh
thương. Mấy hôm trước,
sư đă nghe báo cáo về thiệt hại nầy, mà sao
lúc đó ḷng sư dửng dưng bất động.
Sư
tiếp tục rảo bước, cảnh chùa Di Đà ở
đầu làng Vạn Xuân bị đổ nát làm sư chạnh
ḷng. Chùa Di Đà do sư Thiện
Quang trụ tŕ. Thiện Quang là vị tu sĩ có tư cách,
nhưng có khuyết điểm là quá thẳng thắn thành
ra vụng về. Thầy
không vồn vă, không chiều ư, không khen nịnh đệ tử
.. thành ra Phật tử thưa dần. Kịp đến khi sư Trí
Thông về Kim Quang tự, sư đă trăm phương
ngh́n kế để thu Phật tử về một mối,
thành thử chùa Di Đà càng xác xơ. Chùa nghèo đến nỗi không tiền
sửa sang, cột kèo đă mục nát, th́ làm sao chống chỏi
nổi với cơn giông băo.
Bấy giờ, sư Trí Thông mới thầm trách ḿnh: A
! Ta vốn dạy đệ tử
người giàu phải biết thương yêu giúp đỡ
kẻ nghèo, mà có bao giờ ta nghĩ đến chùa giàu nên
giúp đỡ chùa nghèo đâu?
Ôi! Ta vốn kính trọng
thầy Thiện Quang, mà khi lập chùa gần nhau, th́ ḷng ta
ngấm ngầm có mầm mống cạnh tranh, chỉ mong
cho chùa "đối thủ" chóng hoang tàn sụp đổ
..
Trí
Thông miên man suy nghĩ đi lần đến ḅ sông Lô
Dung(7). Làn gió mát làm sư tỉnh
hẳn lại. Xa xa, ngôi chùa
Linh Mụ trầm lặng ẩn hiện sau hàng cau. Sư muốn được qú
dưới chân thầy để cầu xin sám hối. Thầy cũng lo cho chùa, cho đạo
mà đạo hạnh thầy cao ngất, c̣n ta th́ bị cuốn
lôi theo tham vọng nên đạo đức mỏi ṃn. Rồi bỗng nhiên, Trí Thông nhớ
lại từng chi tiết câu chuyện ngộ đạo của
vị sơ tổ chùa Linh Mụ ngày xưa:
"Tổ sư họ Cao,
quán Phong Điền, Thuận Hóa.
Thuở nhỏ, tổ đă không chịu dùng thịt
cá, dù bị cha mẹ ép uổng.
Một hôm, theo mẹ lễ Phật, khóa lễ kéo dài
mà bà cụ cứ nấn ná lo công quả trễ năi, cậu
bé buồn ngủ quá. Cậu
bèn đến bàn Phật, gơ mấy tiếng chuông thật lớn. Bị trách mắng th́ cậu bé
đáp:"Con mê, nên phải nhờ
chuông để cảnh tỉnh". Thiền sư Chí Thiện gặp
được pháp khí, nên nhận làm đệ tử, và
nhân câu chuyện gơ chuông, đă đặt pháp danh là Cảnh
Chung. Cảnh Chung theo hầu
thầy 10 năm, khi thầy liễu đạo, liền
lên núi Đông Ngăi, hang đá Thảng Lai, ẩn cư với
pháp hiệu Vô Sự chân nhân, để chuyên tu thiền
định. Chân nhân sống
giản dị, hái cây trái và lá rừng làm thực phẩm. Chân nhân ngồi thiền liên tục
hàng nửa tháng, khi xả thiền, các loài chim lạ vần
vũ quanh sư hát vang lừng như chào mừng đón nhận
từ bi tâm của sư truyền cho. Những người thợ
săn vô t́nh chứng kiến cảnh đó, hâm mộ, lạy
xin chân nhân nhận làm đệ tử. Chân nhân bắt đầu giảng
dạy họ Phật Pháp, rồi khuyên giải họ xa
lánh nghiệp sát sanh hại vật.
Danh tiếng của sư lan rộng dần, chẳng
bao lâu, nhân dân các châu huyện gần xa, đều quy
ngưỡng về sư.
Lúc bấy giờ, khi Nguyễn
Uông vừa bị anh rể là Trịnh Kiểm ám hại,
Nguyễn Hoàng vội vă cầu Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh
Khiêm diệu kế bảo toàn tánh mạng, được
phán dạy: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại
dung thân". Hiểu ư, Nguyễn
Hoàng âm thầm vận động xin về trấn thủ
Thuận Hoá. Trước khi
đi trấn nhậm, Nguyễn Hoàng lại bái kiến Trạng
lần nữa để cầu cẩm nang an dân trị
nước. Lần này, Trạng
Tŕnh ngâm nga:
"Ḷng vô sự, trăng in nước.
Của thảng lai, gió thổi hoa." (8)
Hai câu thơ mang phong thái thiền
dùng làm sách kế an dân có phần khó hiểu, nhưng Nguyễn
Hoàng ôm ấp như sấm kư, chờ đến phút linh ứng
mà xử dụng.
Thuận Hoá và các vùng đất
đai mới khai phá, ḷng dân chưa định. Những kẻ tiền phong dựng
nước phương nam, tính khí vốn ngang tàng khó uốn
nắn. Họ khao khát tự
do và vượt thoát khỏi sự ràng buộc cuả phép
Vua luật nước. Vả
chăng, ḍng họ Nguyễn đối với dân cũng
xa lạ, do đó, tâm nguyện thu phục nhân tâm của
Nguyễn Hoàng gặp nhiều trở ngại. Chúa lo lắng cải tổ hành
chánh địa phương, chăm sóc thương yêu dân,
mà t́nh h́nh cũng không cải thiện. V́ vậy, Chúa thường rời
dinh cơ tại Ái Tử, để giả dạng đi
đó đây ḍ xét dân t́nh. Một
hôm, Chúa đi hành dọc sông Lô Dung, lên đến khúc sông uốn
cong như rồng lượn bao phủ một quả
đồi xinh xinh, th́ dừng lại trên đồi. Tại đây, Chúa gặp một
bà cụ già mặc áo đỏ, phong thái trang nhă thần
tiên, tự xưng là Liễu Huệ công chúa, căn dặn:
"Đây là huyệt đất đă hội tụ đủ
linh khí, nhưng phải xây dựng ngôi chùa, mời cho
được Vô Sự chân nhân về trụ tŕ, th́ sự
nghiệp mới bền vững". Dứt lời, bà cụ biến mất. Lời dạy của bậc thần
tiên, suy ra phù hợp với cẩm nang Trạng Tŕnh, khiến
Chúa vô cùng phấn khởi. Chúa
liền cho khởi công xây cất ngôi tự viện trên
đồi Kim Long, đặt tên là LINH MỤ, Nghiă là Cụ
bà linh thiêng, rồi đích thân lên động Thảng Lai,
núi Đông Ngăi, dùng lễ cầu hiền để thỉnh
Vô Sự chân nhân về trụ tŕ.
Theo lời khuyên của chân
nhân, dựa vào Phật giáo để liên kết nhân tâm tạo
sức mạnh tinh thần dân tộc, Chúa thực thi kế
sách nhân dân đến đâu, chùa chiền đến đó,
nhiên hậu khi mọi việc ổn định, mới
h́nh thành chính quyền địa phương. Từ đó, nhân tâm được
thu phục lần lần, tạo nên khí thế hùng mạnh
cho xứ đàng trong. Chúa Nguyễn
Hoàng đối xử với chân nhân cực kỳ cung
kính. Chúa thường đến
chùa học đạo hoặc thỉnh ư chân nhân về những
vấn đề hệ trọng, và thường thân mật
gọi chân nhân là SƯ ÔNG LINH MỤ. Quân dân bắt chước,
nhưng gọi trại đi thành Ôn Linh Mụ, chữ Ôn
phát sinh từ đó.
Vô sự chân nhân, nguyên là một
sơn tăng không thích ràng buộc bởi lễ nghi phiền
phức. Từ ngày bất
đắc dĩ hạ sơn nắm giềng mối đạo,
để rồi bị mọi người, từ Chúa
Thượng cho đến thứ dân cung kính suy tôn, là việc
trái ḷng. Do đó, chân nhân vẫn
giữ nếp sống thanh đạm cũ, cũng như
thời dụng biểu thiền quán cũ. Pháp môn thiền của chân nhân
đặt căn bản trên kinh An ban thủ ư (9), nên rất
giản dị: "Khi thở vào hành giả biết ḿnh
đang thở vào, khi thở ra hành giả biết ḿnh thở
ra", nói khác, khi nghe người tâng bốc hành giả biết
ḿnh đang nghe người tâng bốc, và chính v́ vậy nên
chân nhân luôn luôn tỉnh thức.
Chiều chiều, chân nhân thường đi thiền
hành một ḿnh dọc theo bờ sông, những lúc đó, chân
nhân không bị ngoại cảnh chi phối, nên cảm thấy
thật thảnh thơi, an lạc. Chân nhân bước từng bước
thanh thản, đi để mà đi chớ không phải
đi để mà tới (10), thích dừng th́ dừng .. Yên lặng trong tỉnh thức. Một hôm, chân nhân đi xa hơn
thường lệ, dừng chân nh́n gịng sông. Nước trong, êm ả và nhẹ. Gịng sông nầy, thuở nhỏ
chân nhân đă từng lặn hụp, giờ phút hồn
nhiên đó rất tuyệt diệu.
Bốn bề thanh vắng gợi chân nhân thú tắm
sông. Chân nhân cởi đồ
rồi thoải mái trầm ḿnh trong nước mát. Gịng nước xoa nhẹ làn da
như cuốn trôi đi hết bụi trần, bụi chùa
bám trên người sư. Chân
nhân khoan khoái thở thật sâu và hụp đầu xuống
nước. Khi chân nhân ngoi
đầu lên, th́ có tiếng trẻ nít la to:
-Ấy chết! Coi chừng ông trọc đầu
nớ!
Bấy lâu nay tai của chân
nhân bị bắt buộc phải nghe toàn là những lời
cung kính hoa mỹ: Bẩm đại lăo ḥa thượng,
Kính tŕnh Ôn, Thỉnh nguyện, Thỉnh cầu, Chúng con
đê đầu đảnh lễ .., thật là nhàm
chán. Nay chân nhân mới
được gọi một cách hồn nhiên là ông trọc
đầu, điều đó khiến chân nhân vô cùng sảng
khoái. Chân nhân quay đầu
nh́n lại. Té ra đó là hai
chú tiểu, lén cắp xuồng ra chốn vắng vẻ
để đùa giỡn, mà lại c̣n lớn gan gọi Ôn
là lăo trọc đầu. Hai
chú sợ điếng người, cuống quít xá lia, miệng
lắp bắp chẳng nên lời, suưt rơi ṭm xuống
nước. Chân nhân
thương quá lên tiếng:
- Cái thằng ni lạ quá! Tao trọc đầu, mi gọi
tao trọc đầu là đúng quá rồi! Có chi mô mà mi sợ hăi như rứa?
Chân nhân thốt lời đó
trong một tâm trạng an lạc, không mảy may dính mắc
ràng buộc ǵ với lễ nghi phiền phức của xă
hội câu nệ. Và trong giây
phút hồn nhiên đó, bỗng dưng chân nhân hoát nhiên đại
ngộ".
(Chư thiền sư, khi công
phu viên măn, th́ đôi khi chỉ cần nghe tiếng chim hót,
tiếng lá rơi .. làm trợ duyên mà ngộ đạo. Sơ tổ Linh Mụ, sau hơn
50 năm nghiêm tŕ tu tập, tâm đă rỗng rang không trở
ngại, nên nghe tiếng hồn nhiên của trẻ, mà đại
ngộ cũng là việc b́nh thường )
Câu
chuyện sơ tổ giúp sư Trí Thông định hướng
cho nếp sống tu hành. Ḷng
đă chủ định nên sư b́nh thản trở về
Kim Quang tự. Sư soạn
thảo một bức thơ dài viết cho bổn sư,
Ôn Linh Mụ. Trong thơ, sư thú nhận rằng bấy
lâu không nghiêm túc tu tŕ, thả lỏng tâm quay cuồng theo
danh lợi hư hỏng mà không hay. May nhờ thiện tri thức nhắc
nhở mới hồi tỉnh.
Do đó, sư quyết định xin từ bỏ chức
vị trụ tŕ Kim Quang tự, để theo hạnh khổ
đầu đà hoằng hoá phương Nam, hầu sám hối
lỗi lầm. Thứ đến
sư thỉnh cầu bổn sư đứng ra đem pho
tượng vàng thanh toán để lấy tiền cúng
dường cho nạn nhân băo lụt. Ngoài ra, cũng xin bổn
sư giải quyết những việc cần thiết
trong đó có việc chọn lựa vị tân trụ tŕ cho
Kim Quang tự. Viết xong,
sư hướng về chùa Linh Mụ, lạy từ tạ
thầy rồi giao thơ cho thị giả mang đi. Đoạn, sư âm thầm rời
chùa, chỉ mang theo một b́nh bát, một tay nải đựng
hai y hậu tầm thường, bộ kinh Lăng Nghiêm
cùng vài món hành trang lặt vặt của một du tăng khất
sĩ.
Trước
sự thay đổi nếp sống đột ngột, từ
một vị trụ tŕ tôn kính lắm kẻ cung phụng,
thành một khổ đầu đà lang bạt, sư Trí
Thông cũng gặp những khó khăn lúc đầu. Tuy nhiên, sự yếu đuối
thể xác dễ dàng khuất phục bởi sức mạnh
tinh thần, được củng cố bằng pháp môn
hành tŕ buông bỏ, không dính mắc như vị sơ tổ
Linh Mụ, nên sư cảm thấy an lạc. Niềm an lạc mà trước
kia, khi bận rộn với ngôi vị trụ tŕ, sư
không bao giờ hưởng được.
Sư
thường chọn những con đường làng vắng
vẻ, tránh qua lại khu phố ồn ào. Đi khoan thai từng bước:
Đi để mà đi chớ không phải để mà tới,
cũng như, tu để mà tu chớ không nhằm đắc
đạo. Thở ra sư biết
ḿnh thở ra. Thở vào sư
biết ḿnh thở vào. Bước
chân thanh thản, êm ái, trân qúi đặt vững vàng trên mặt
đất thương yêu, như đang đi trên tịnh
độ. Sư ngủ ở
đ́nh, miếu hoang, gốc cây, mái hiên nhà .., và thọ thực
thất thường tùy tâm hỷ cúng của đồng
bào phật tử. Xóm làng nào
thuận duyên, sư lưu lại đôi ngày hay vài tuần,
tùy nghi giảng Pháp sống thực và đơn sơ. Sư đến với họ
như người bạn đồng hành trên con đường
tu tập hơn là vị thầy xa cách. Sư có thể ngồi đan
thúng, dệt chiếu .. hay đi mót lúa với đồng
bào rồi tùy cơ giảng đạo. Sư cũng có thể làm vú em,
chơi đùa hồn nhiên với trể con, để dạy
chúng câu thơ, bài ca dao nhẹ nhàng đạo vị. Mà thật ra, sư cũng không nhất
thiết phải mở lời.
Sư hiện hữu của sư cạnh những
người dân chất phác, nụ cười, dáng điệu,
tư cách của sư .. có cái ǵ gần gũi, ấm áp khiến
cho họ tự nhiên thương mến đạo.
Càng
đi lần về phương Nam, hệ thống chùa chiền
càng khiếm khuyết về phẩm lẫn lượng. Chùa chỉ tập trung tại Gia
Định thành và vài thị trấn lớn, c̣n vùng xa xôi
th́ hầu như vắng bóng.
Nhu cầu hoằng pháp đôi khi đ̣i hỏi sự
dừng chân một thời gian dài, và nếu hợp duyên
sư cũng đứng ra tạo dựng một ngôi chùa
làng xinh xắn. Dân quê dốt
nát, nên sư chỉ hướng dẫn họ giáo lư
đơn giản và thực tiễn, như tam quy ngũ giới,
tu tâm dưỡng tánh, tránh ác hành thiện mà thôi. Điều đó rất hợp với
sư, v́ từ lâu, khi hành hạnh khổ đầu đà,
sư chỉ chuyên tâm quán niệm hơi thở, c̣n cái sở
học bao la huyền đàm sư không c̣n nhớ đến
nữa. Dĩ nhiên, sư cũng
chuyên hành tŕ công phu, nhưng đọc tụng kinh điển,
sư tụng để mà tụng, để tự nhiên
cho kinh thẩm thấu trực nhận, chớ không dùng lư
trí xét đoán, hay suy luận t́m hiểu như xưa nữa. Khi ngôi chùa thành lập đă có
cơ sở vững chắc, sư đến các đại
ṭng lâm, thỉnh một vị đạo đức
tăng để giao ngôi chùa, hầu tiếp tục tâm nguyện
một khổ đầu đà.
Cứ thế mà trong thời gian hơn hai mươi
năm, sư đă lần lượt tạo dựng
được 9 ngôi chùa làng tại khắp vùng Vàm Cỏ và
Tiền Giang.
Sư
lại xuôi về miền Hậu Giang. Mùa thu năm Giáp Th́n, một trận
lụt mà lúc khởi đầu có vẻ chỉ là chuyện
ngập nước b́nh thường, lại biến thành
tai họa thảm khốc.
Nguyên hàng năm, vào mùa nước nổi, sông Cửu
Long dâng cao tràn ngập ruộng đồng, đường
sá, chợ búa. Dân chúng theo lệ,
ở nhà sàn hay đắp nền nhà cao vừa phải,
nước có dâng cao khỏi nền nhà chăng nữa, th́
cũng chịu đựng vài ngày th́ lại từ từ
rút xuống. Nhưng đến
năm Bính Th́n, nước dâng lên măi đến độ bất
ngờ, và v́ không chuẩn bị nên có kẻ khi thấy nguy
hiểm, muốn chạy đi th́ đă muộn, đành
đeo mái nhà chờ chết.
Sư liền vận động những đoàn ghe cấp
cứu người sống sót đem về những giồng
đất cao tạm trú. Riêng
những xác thây ma trôi phập phều, sư cũng đích
thân vớt về. Và v́ lư do
nước ngập không thể đào huyệt, sư kết
bè làm một băi tha ma nổi, chờ nước rút rồi
mới chôn cất. Cứu lụt
xong, sư lại lên đuờng.
Một
hôm, hành hóa tại trấn Kiên Giang, vô t́nh sư khám phá đuợc
một ngôi chùa lá hoang vắng nhỏ bé, nằm lẻ loi ở
đầu xóm Vĩnh Hiệp.
Trước cửa có treo biển đề " Vô
Môn Tự", mà nét chữ nguệch ngoạc đă lu mờ. Chùa vắng người, nhưng
cũng không đến nỗi lạnh lẽo. Có lẽ, tuy không có người ở
thường trực, nhưng cũng có thiện tín đến
chùa đốt nhang, lễ Phật.
Tượng Phật bằng đất, đắp vụng
về, vừa thiếu cân xứng, vừa làm gương mặt
kém từ bi. Thật tiếc!
Sư thầm nghĩ, rồi sư liên tưởng
đến tượng Phật vàng Kim Quang Tự. Tượng
Phật vàng như vết thương đă lành, mà sẹo
vẫn c̣n, nên dù trên 24 năm qua, sư hành pháp buông bỏ,
mà vẫn gợi nhớ khi vô t́nh thấy một pho tượng
kém mỹ thuật. Như
thường lệ, sư quán niệm câu kinh Kim Cang
"Nhược dĩ sắc kiến ngă, dĩ âm thanh cầu
ngă, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến
Như Lai" để đối trị.(11)
Mây
đen vần vũ từ lúc nào, mà mưa nặng hột
rơi ào ào trên mái lá. Mái chùa mục
nát. Nước dột vài
nơi. Trước mặt
sư, một ḍng nước to bỗng rơi thẳng xuống
tượng Phật. Đất
bị thấm nước rả dần đi. Chứng kiến cảnh tượng
Phật bị hư hoại, bất giác, sư nhớ
đến bài pháp của tổ Triệu Châu:
"Đừng để Phật đồng
vào ḷ, đừng để Phật gỗ vào lửa, đừng
để Phật đất vào nước. Phật thứ thiệt ngồi ở
bên trong. Bồ đề và Niết
bàn, Chân như và Phật tánh, tất cả là chiếc
áo ngoài buộc siết thân thể.
Chúng được coi như là phiền năo .."
Sư
bỗng nhiên lặng người, thân tâm biến mất, chỉ
thấy trước mặt ḿnh hiển hiện một khối
duy nhất quang minh chiếu diệu lung linh tuyệt vời. Một thoáng sau kinh nghiệm
đó sư bừng tỉnh lại nh́n tượng Phật
th́ thấy tượng đă trở thành một đống
đất khô nứt nẻ.
Té ra một thoáng của cơn đại định,
là đă mấy ngày trôi qua rồi.
Sư
quyết định dừng lại nơi nầy. Hàng ngày sư đọc tụng
kinh Lăng Nghiêm để kiểm chứng sở đắc
ḿnh, đồng thời, bắt đầu thăm nom
săn sóc đám dân chài. Những
kẻ sinh nhai về nghề biển, làm việc nhọc nhằn
và thập phần nguy hiểm nhưng thu hoạch
tương đối khá cao.
Sau chuyến đi mươi ngày họ có thể nghỉ
ngơi cả tháng. Đó là thời
gian cờ bạc, rượu chè .. để rồi gây
chuyện chửi bới, hục hặc nhau suốt
năm. Giáo hóa họ đạo
lư là việc khó khăn, đó cũng là nguyên nhân khiến vị
sư kiến tạo ngôi chùa ngày trước đă thất
vọng bỏ đi.
Tuy
nhiên đạo đức của sư Trí Thông đă cảm
hóa họ nhanh chóng. Thú cờ bạc,
rượu chè bừa băi giảm dần. Nhận thấy nghiệp sát sanh
của họ quá nặng, sư khởi xướng phong
trào ăn chay tập thể.
Nhà chùa nấu cơm chay sẵn rồi khuyến khích
Phật tử quây quần ăn chung. Lúc đầu, sư tổ chức
mỗi tháng một ngày, rồi tăng dần đến mười
ngày. Số Phật tử tham
gia ngày càng đông, nên sư cần những cái nồi thật
to. Một khách thương hồ
chuyên buôn bán nồi tại vùng Sóc Soài, đặt một chiếc
nồi đặc biệt to như một cái lu, nhưng thấp
hơn, để cúng dường cho sư. Nồi quá lớn, không có dịp xử
dụng, nên sư để ở mái hiên trước chùa, hứng
nước mưa. Trẻ con
gọi chiếc nồi đó là " nồi Ông", và cũng
có đứa gọi là Ông nồi". Từ đó, dân chúng thích gọi
chùa của sư là chùa Ông Nồi, cái tên nôm na dễ nhớ
và gần gũi với họ.
Vào
một đêm trăng tṛn tháng chạp năm Mậu Thân,
sau phần công phu, chú khu ô sa di (12) Quảng Hiền đă
chuẩn bị giờ chỉ tịnh, th́ có tiếng quân
lính rầm rộ la ḥ bao vây khu xóm như đang lùng bắt
kẻ trọng phạm.
Một
người trẻ tuổi, hoảng hốt phóng chạy
vào chùa, vừa thấy sư Trí Thông đă vội vàng qú xuống
cầu xin cứu giúp. Sư
b́nh tĩnh bảo khách nằm gọn trong chiếc "nồi
ông", đậy nắp lại.
Sau đó, sư ngồi thiền như thường lệ. Toán lính tràn vào chùa lục soát, chỉ
thấy một vị sư già ngồi thiền và một
em bé nằm ngủ. Chùa trống
trải không có nơi nào ẩn nấp, và cũng không thấy
điều chi nghi ngờ, nên toán quân lính trở ra, lùng kiếm
nơi khác.
Khi
những tiếng la ó của quân lính nhỏ dần, sư
Trí Thông, dở nắp nồi lên, gọi nhỏ:
-
Nguyễn công tử. Mọi việc
đă yên ổn. Xin công tử
an tâm bước ra.
-
Nhà ngươi .. À ! Sư cũng biết ta sao?
-
Dạ biết ! Ngài chính là Chúa Nguyễn Phúc ..
Sư
Trí Thông chưa nói hết câu th́ mũi kiếm từ tay
người khách trẻ đă đâm thẳng vào ngực
sư. Sư ngă quỵ xuống,
máu ra thành ṿi. Người tuổi
trẻ, thật ra, tâm địa không đến nỗi quá
ác độc. Y chỉ có khuyết
điểm là xem ngôi Vua quá trọng, nên hy sinh t́nh nghĩa. V́ ngai vàng ám ảnh nên đa nghi
quá đáng, thủ hạ trung thành như Đỗ Thành
Nhơn mà vẫn đang tâm hạ độc thủ, huống
chi sư chỉ là kẻ xa lạ.
Đang cơn nguy khốn, Chúa lo sợ tông tích bị
tiết lộ, nên hạ sát người bịt miệng
như một phản ứng tự vệ mà thôi. Hành động xong, nh́n thấy vị
sư già hấp hối, ḷng Chúa hơi rung động, nên
Chúa ngần ngừ chưa vội chạy đi.
-
Quảng Long! Quảng Long! Ta thật cảm ơn con đă
thành toàn cho ta.
Đoạn
sư ngoắt Chúa lại gần, cố gắng nói tiếp:
-
Công tử hăy chạy về hướng biển, đến
căn nhà tận cùng, t́m cho được đệ tử
ta là Trần Trung để nhờ chở ra khơi th́ mới
mong thoát nạn.
Nghe
lời chỉ dẫn, Chúa vui mừng gật đầu rồi
chạy biến đi.
Chú
tiểu thức giấc từ lâu, mục kích nội vụ
run sợ im thin thít trên chơng tre, giờ mới loi ngoi chạy
đến bên thầy, khóc thút thít.
Sư
nắm tay đệ tử, thương yêu dặn ḍ:
-
Sanh tử là việc thường, cớ sao con lại
khóc? Nghiệp quả trả
xong, thầy rất an ḷng đă thành toàn tâm nguyện.
Sư
đă yếu lắm rồi, âm thanh nhỏ mà vẫn rơ
ràng. Sư cố gắng móc
túi lấy một phong thơ viết sẵn đưa
đệ tử, nói tiếp:
-
Con hăy t́m đến pháp huynh ta là sư cụ Vĩnh Tràng tại
Định Tường để tiếp tục học
đạo.
Chú
Quảng Hiền thương thầy quá. Té ra thầy biết sẽ gặp
tai kiếp, và đă chu đáo sắp xếp tương lai
cho chú. Cảm động chú
lại ồ lên khóc nức nở.
-
Con nên cười lên và niệm chú văng sanh với thầy
nghen con !
Sư
niệm chú văng sanh. Tiếng của
sư nhỏ dần, nhỏ dần rồi tắt hẳn,
mà gương mặt tươi nhuận vẫn như c̣n
phảng phất nụ cười.
****
Chúa
Nguyễn được Trần Trung đưa đi lánh nạn
tại các ḥn đảo Lơi Sơn, Củ Tron, Nghệ .., rồi
sang Xiêm La cầu viện. Câu
chuyện thoát hiểm được tô điểm lại,
theo đó Chúa ẩn thân trống
trải sau một pho tượng tại ngôi chùa nhỏ thuộc
trấn Kiên Giang, nhưng nhờ "chân mệnh đế
vương", được Phật Trời phù hộ,
nên giặc Tây Sơn lục t́m măi vẫn không thấy. Câu chuyện biến thành huyền
thoại được nhân dân miền Tây tin tưởng,
nên mặc dầu, lực lượng của Chúa bị
đánh tan ră nhiều lần, Chúa vẫn tái lập và phục
hồi nhanh chóng. Không bao lâu,
đến năm Nhâm Tuất Chúa khôi phục giang sơn, tự
xưng là Vua, đổi tên nước là Đại
Nam. Vua là người ân oán phân
minh, nên một mặt đào mồ cuốc mả kẻ
thù, và mặt khác ban bố lợi lộc chỗ có ân. Không nhớ đích xác ngôi chùa thoát
hiểm, Vua ban sắc tứ cho tất cả các chùa thuộc
thị trấn Kiên Giang, và ra lệnh xuất công khố tu
bổ những chùa nầy.
Hai ngôi chùa Thập Phương và Tam Bảo (13), nhờ
vậy, được sắc tứ và kiến thiết trở
thành hai ngôi chùa cổ khang trang nhất tại miền Tây.
Trong
thời gian nầy, chùa Ông Nồi đă hư hoại nên
không được hưởng ân Vua. Măi đến mười năm
sau, tỳ kheo Quảng Hiền tu học về,
thương nhớ thầy nên tái dựng lại ngôi chùa cũ. Thầy cũng theo truyền thống
của sư phụ, là nấu cơm chùa cho những đồng
bào nghèo ăn "chùa", nên mặc dầu chiếc "Nồi
Ông" đă bị hư nát, mà đến nay người
dân vẫn quen gọi ngôi chùa là Chùa Ông Nồi, như 200
năm về trước.
Tháng 11, 1988
Huỳnh Trung Chánh
==========
GHI
CHÚ:
(1) Nguyên tác bài Đường thi của
Thôi Hộ:
Khứ
niên, kim nhật, thử môn trung
Giả
ngoại, đào hoa tương ánh hồng
Nhân
diện bất tri hà xứ khứ?
Đào
hoa y cựu tiếu đông phong.
Tạm
dịch:
Tại
đây, năm ấy, ngày nầy
Hoa
đào, người đẹp hây hây má hồng
Hoa
đào vẫn cợt gió đông
Mà
nay chẳng biết bóng hồng nơi nao?
(2) Thiên Ấn tự do thiền
sư Pháp Hoá, gốc Tiều Châu tạo dựng năm 1694
trên núi Thiên Ấn, Quảng Ngăi.
Hai vị tổ kế vị sư là tổ Khánh Vân và
tổ Bảo Ấn.
(3) Phú Xuân: Làng Phú Xuân thuộc huyện
Hương Trà, Thuận Hoá, đă trở thành kinh đô của
xứ đàng trong sau khi Chúa Nguyễn Phúc Trăng thiên phủ
về năm 1687.
(4) Chùa Linh Mụ do Chúa Nguyễn Hoàng
ra lệnh xây dựng năm 1601 trên đồi Kim Long. Đến đời Minh Mạng,
chùa được cải danh hiệu lại là THIÊN MỤ.
(5) Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-65) là vị
chúa nhân từ và mộ đạo.
Ngài tự xưng là Từ Tế đạo nhân khi ban
sắc tứ các chùa.
(6) Xứ đàng trong: Chỉ cho phần
đất từ sông Gianh trở vào Nam trong thời Trịnh
Nguyễn phân tranh.
(7) Lô Dung: Tên xưa của sông
Hương
(8) Phát xuất từ bài thơ
"THẾ SỰ":
Chưa
dễ ai là Phật Thích Ca
Mọi
niềm nhân ngă, nhẫn th́ qua
Ḷng
vô sự, trăng in nước,
Của
thảng lai, gió thổi hoa.
Ḱa
khách xuân xanh khi trẻ
Mấy
người đầu bạc tuổi già!
Thanh
nhàn ấy, ắt là tiên khách
Được
thú ta, đă có thú ta.
Nguyễn Bỉnh Khiêm
(9) Kinh An ban thủ ư: Tức kinh Quán
niệm hơi thở. Kinh đă được thầy Nhất
Hạnh dịch và chú giải.
(Lá Bối 1987)
(10) Phỏng theo Thiền Hành Yếu
Chỉ của thầy Nhất Hạnh
(11) Việt dịch:
Nếu
thấy ta bằng sắc tướng
Nghe
ta bằng âm thanh
Người
nầy đi đường tà
Không
thấy được Như Lai
Trích Kinh Kim Cang (T.T.Thiện Hoa)
(12) Khu Ô Sa Di: Nghĩa đen là sa di
đuổi quạ, tức là loại sa si tuổi từ 7
đến 13, chỉ có thể làm những việc lặt
vặt như xua đuổi quạ, chớ chưa đúng
hợp ngôi vị sa di.
(13) Các ngôi "Sắc tứ Tam bảo
tự" tại ấp Vĩnh Lạc, "Sắc tứ
Thập Phương tự" tại ấp Vĩnh Thanh,
và chùa Ông Nồi ấp Vĩnh Hiệp đều là những
ngôi chùa xưa, và vẫn c̣n tồn tại thị xă Kiên
Giang.
(NGÔ
QUANG VƠ sưu tầm và chuyển)