Ðặc Sản Quê Tôi
(Nguyễn
Lê Hồng Hưng)
Quê hương của Trúc
Thanh nằm nép mình cuối dãy Trường Sơn. Nơi
đó có núi, rừng, ruộng, rẫy và biển xanh. Thanh
chưa bao giờ đặt chưn xuống miệt đồng
bằng. Từ ngày về chung sống với tôi, Thanh chỉ
biết quê chồng qua những câu chuyện kể hoặc
đọc qua sách báo và xem phim ảnh chớ chưa một
lần nhìn tận mắt. Thanh ao ước:
- Ngày nào về nước em
sẽ về quê anh, em rất thích sóng nước miệt
đồng bằng sông Cửu Long.
- Em ở miền núi nên em
thích đồng bằng cũng như anh ở miệt
đồng bằng thì thích về niền núi - tôi tự hào
khoe với vợ - quê hương anh được cái là
thiên nhiên ưu đãi nên có nhiều món ăn dân dã, anh cam
đoan với em, từ Trung ra tới ngoài Bắc không
đâu có được miền trù phú như U Minh.
- Nói cho cố đi ông!
- Em dìa rồi em sẽ biết.
Tôi không nói quá lắm đâu.
Quê tôi vùng ven thuộc về U Minh Hạ, ra biển thì tôm cá
biển, vô sông thì cá tôm sông, lên ruộng thì cá đồng,
rùa, rắn .. Trên trời chim chóc rất nhiều loại
như: diều hâu, diệc, cò đen, cò trắng, le le, chằn
bè, vịt nước .. Những vườn cò, sân chim mỗi
nơi rộng hàng chục công đất vuông. Nhứt là
vào những buổi chiều chim, cò bay về rợp bóng mát
và kêu ríu ra ríu rít vang động cả góc rừng. Cò mần
ổ trên những bụi chà là có nhiều gai nhọn. Ðầu
mùa mưa, cò đẻ trứng, người ta chuẩn bị
áo, quần và may bao tay dầy đề phòng gai chà là quẹt
rách da, chảy máu. Họ mang gùi, vác móc vô rừng móc một
buổi đầy hết gùi nầy sang qua gùi khác, họ
ăn cho tới khi trứng lộn mới ngưng lại.
Ðợi tới khi trứng nở con, chờ cò con bể bọng,
mọc lông non, đủ thịt thì họ lại xách gùi vô
một đợt nữa móc lấy cò con đem về bán
cho quán nhậu hoặc tự làm đồ nhậu.
Nghe tới đây Thanh chận:
- Cò con ăn được
sao?
- Ðược chớ, cò con thịt
thơm, xương mềm, đem nướng, khìa nước
dừa hay rô ti thì ăn rất ngon và nhậu rất bắt.
- Ngày về nước em sẽ
xuống miệt U Minh ăn những món ăn dân dã cho biết.
U Minh Hạ rộng thênh
thang. Nếu đi đường biển từ vịnh Rạch
Giá trải dài xuống tới vịnh Gò Công, cạnh
mũi Cà Mau, thì sẽ thấy rừng mắm xanh rì tiếp
liền với mặt biển. Mỗi năm bãi biển
nơi đây được phù sa bồi ra năm sáu chục
thước, trái mắm trôi tấp vào bãi bám rễ mọc
lên cây con. Ven bãi cây mắm còn non, chiều cao không quá ba
thước, nước lớn ngập khuất gốc,
nước ròng lòi lên đất bùn. Ngoài những râu mắm
(rễ gió) chi chít từ mặt đất chĩa lên trời
ra không có cỏ cây nào khác mọc. Càng lấn vào trong đất
sét càng dẻo, cây mắm càng già tàng cây càng xum xuê lá, gốc
cây mắm lớn vừa lỏn trong vòng ôm của một
cánh tay. Cây mắm dễ đốn và tiện lợi cho những
dân nghèo che chòi ở tạm, lót vạt nằm. Cây mắm
đốt lên gây nhiều khói làm khó chịu cho mấy bà nội
trợ mỗi khi đun bếp nấu cơm, nhưng nó rất
công hiệu nhúm bếp un xua đàn muỗi đói. Những
cây cối khác do chim nhả hột hoặc cây và trái giống
trôi trên sông rạch tấp vào lần lượt mọc rải
rác trên những vùng đất cao như cây bần, cây chà
là, rau muống biển, ô rô, ráng và dây choại mọc chằng
chịt đan nhau. Dây choại U Minh Hạ số lượng
không nhiều nên khi cần người ta chặt về
dành trói cua, xâu cá chớ không đủ thu hoạch hàng tấn
mỗi năm như choại ở miệt U Minh Thượng.
Ðặc sản U Minh Hạ có
tôm, cá, cua, ốc leng, vọp, sò, ba khía .. Cái gì hổng biết
chớ ba khía muối là trúng tủ Thanh rồi. Thanh rất
thích ăn ba khía muối, vậy mà cô chưa từng biết
hình dạng con ba khía còn sống ra sao và cách muối ba khía
như thế nào. Trước khi về sống với tôi,
cô tưởng tượng ba khía là con cua biển con. Tôi phải
một phen giải thích, ba khía tám cẳng hai càng, cũng
giòng họ nhà cua nhưng không phải là cua biển, thân hình
không lớn hơn cái chén ăn cơm, vỏ nó nham nhám, màu
tim tím, trên mu khuyết
ba rạch nên người ta đặt tên là ba khía.
Ba khía còn tươi đem luộc thịt khô khốc, bời
rời không mùi vị gì hết. Nhưng sau một tuần
hoặc mười ngày ngâm trong nước muối tách vỏ
rút thịt ra, thịt dẻo và mùi thơm rất là đặc
biệt, ta có thể pha thêm chanh, đường, tỏi, ớt
vào để vài giờ thì ba khía có thêm hương vị
đậm đà, vô cùng hấp dẫn.
Có một lần Thanh qua tận
Paris, cô xục xạo đâu đó trong mấy tiệm bán
thực phẩm Việt Nam được bốn con ba khía
muối và cô mua thêm vài trái xoài xanh. Ðem về hí hửng khoe với
tôi. Thật tình từ ngày sang định cư xứ
người cho tới nay, các loại mắm thì ăn ngon hết
chỗ chê rồi, nhưng ăn một lần ba ngày sau
trong nhà vẫn còn hôi. Nhứt là ăn ba khía phải dùng tay
tách vỏ, một lát thì hai bàn tay hôi rình. Tuy nhiên thấy vợ
vui tôi cũng hùa theo cho vợ khỏi bị cụt hứng,
hơn nữa lâu lâu ăn một bữa ba khía muối chắc
cũng ngon, nhà có bị hôi một tuần lễ cũng chẳng
hề gì. Ðứng nhìn Thanh lui cui gọt xoài, băm nhuyễn
để trộn ba khía, tôi cao hứng đọc bài dân ca.
Tháng
bảy nước nhảy Cà Mau
Tháng
mười ba khía hội kéo nhau đi mần
Năm
Căn, Rạch Gốc, Rạch Bần ..
Muỗi
kêu mặc muỗi tao mê ba khía hồi
Thanh thắc mắc:
- Nước chảy chớ
làm sao nước nhảy được và ba khía hồi là
ba khía gì?
- Nghe dân ca hay ca dao em phải
hiểu ý người ta nói gì chớ. Miệt dưới
anh vào mùa mưa mực nước dưới sông dâng lên
tràn bờ người ta gọi là nước nhảy,
tháng bảy mực nước lên cao nhứt nên có câu: Tháng
bảy nước nhảy
lên bờ, chớ nước chảy thì chảy quanh
năm hổng có gì đặc biệt hết nói làm gì. Còn
ba khía hội đọc trại ra cho đúng vần thành ba
khía hồi.
- Sao không nói mê ba khía rồi
cho đúng vần.
- Vậy mà em cũng nói
được, em ỷ có chút chữ rồi muốn sửa
thơ ca người ta sao thì sửa à. Người ta nói ba khía hội
thấy mà mê, chớ con ba khía xấu òm ai mê cho được.
Tới đây Thanh mới chịu
nhưng cô còn ráng bướng:
- Cũng được, nghe
giống thơ của Bút Tre lắm.
- À, cái nầy em phải nói
là thơ Bút Tre giống dân ca mới đúng vì cái dạng
dân ca có vần điệu na ná như thơ Bút Tre từ
xưa miệt đồng bằng sông Cửu Long trai gái ông
già bà lão đã dùng để hò hát và nói vè. Chỗ anh ở
có câu vè như vầy: Kinh Ngang
có bác ba Phì cái gì hổng biết chớ .. dóc thì một cây.
Nhiều người nghe hiểu lầm là bác ba Phì tức
là bác ba Mập nhưng thật ra là vì kị huý người
ta hổng kêu thẳng tên bác ba Phi nên mới đọc trại
ra thành bác ba Phì. Một là đúng vần hai là khỏi lo con
cháu bác ba Phi nghe được rồi nổi xung xách dao
phai rượt chém.
Trộn xong tô ba khía Thanh vừa
bưng để lên bàn vừa cười mỉm:
- Em nghe anh nhắc tới bác
ba Phi làm em muốn cười đây, nhưng xong rồi
mình dọn chén ăn cơm đi.
Thật ra ba khía muối từ
Việt Nam bay qua Pháp, rồi từ Pháp vượt trên
năm trăm cây số qua tới Hòa Lan thì thịt rã tan ra
nước hết, còn bốn cái vỏ bọng không, nước
ba khía đã đổi màu đen đen và có hơi nặng
mùi nhưng có lẽ nhờ tôi đọc và cắt nghĩa
bài dân ca hay quá và trộn trái xoài xanh bằm nhuyễn còn pha
thêm tỏi, đường, chanh, ớt cộng thêm tình
nghĩa vợ chồng làm cho mùi vị ba khía dịu lại.
Chiều hôm ấy hai vợ chồng ăn xoài chua trộn
nước muối ba khía và mút hết bốn cái vỏ ba
khía bọng. Tuy thực phẩm không mấy an toàn nhưng
được cái là vợ chồng tôi có bữa ăn rất
vui và cái bao tử của chúng tôi cũng khá tốt nên
đêm đó không phải tốn thêm nước dội bồn
cầu.
Có lẽ tôi phải kể tiếp
chuyện ba khía hội và những biến cố sau nầy
làm cho ba khía không còn hội, nếu không kể bây giờ thì
sau nầy ba khía tiệt giống thì hổng còn ai biết
nó rõ ràng hơn. Tôi sẽ bắt đầu câu chuyện vào
giữa những năm sáu mươi tới sau năm một
ngàn chín trăm bảy mươi lăm. Lúc tuổi của
tôi vừa nhận thức được ít, nhiều về
cuộc sống, tôi đã theo ba, má lang thang xuống tận
cùng miền đất nước. Ai đã từng tha
phương cầu thực khắp miệt U Minh Hạ nếu
không sống bằng nghề bắt ba khía thì cũng một
lần biết qua mùa ba khía hội. Nhứt là vào những đêm trăng già
tháng Mười, dưới dòng những con
rạch xuyên vô khu rừng mắm hoặc rừng đước
thì sẽ thấy trên những chiếc xuồng tam bản,
người ta chuẩn bị sẵn những chiếc
đèn lồng hay những bó đuốc mù u hoặc đuốc
tẩm dầu. Xuồng nhỏ thì chở vài ba chiếc khạp
da bò, xuồng lớn thì chở những chiếc lu to
tướng. Trong khạp, trong lu đựng lưng lửng
nước muối pha sẵn (Ðộ mặn của nước
muối rất là quan trọng cho việc muối ba khía; lạt
quá thì ba khía trở mùi khai khai, mặn quá thì ba khía rụng
ngoe, rụng càng, trong lúc ủ sơ ý để nước
lã lọt vô thì ba khía bị bủng thịt và nước
ba khía đen thui, hôi rình). Thời đó chưa có ống thủy
đo độ, người ta pha nước muối dùng
hột cơm và phối hợp với lưỡi để
đo, sau khi đổ muối vô nước quậy đều
người pha nếm thử nhắm chừng vừa mặn,
muốn chắc ăn họ bỏ một hột cơm
vào nước muối, nếu thấy hột cơm nổi
lên mặt tức là vừa đủ độ để
muối ba khía. Ba khía muối đúng độ để bảy
tám tháng vẫn ăn được. Ðêm trên rừng, trong
ánh đèn lồng lờ mờ dưới ánh trăng già
hơn nửa mảnh, ta thấy ba khía hội đen thui rạp
trên một dãy ráng hoặc trên những dãy ô rô. Lúc đó
người ta mang bao tay vào từ từ hốt bỏ vô
bao rồi đem xuống xuồng đổ vào những
chiếc khạp và những cái lu nước muối. Có
đêm ba khía hội nhiều đến đỗi người
ta hốt đầy lu, đầy khạp và khẳm xuồng
mà ba khía vẫn còn loi nhoi, lúc nhúc quện nhau một khối
đen ngòm.
Khoảng cuối năm sáu
mươi trở về sau thì ba khía hội xa xóm nhà, xa kinh
rạch hơn. Cho nên dân bắt ba khía phải cơm ghe bè bạn
đi sâu vô rừng. Ðêm về trải những chiếc nóp
đệm đan bằng lát trên xuồng rồi chui vô ngủ
chờ trăng lên mới đi lùng ba khía hội. Tuy cực
khổ hơn trước kia nhưng cuộc sống dân mần
ba khía vẫn còn thoải mái. Cho tới sau năm một
ngàn chín trăm bảy mươi lăm. Năm đó dân ở
thành thị thất nghiệp đổ về miệt U
Minh và dân Hà Nam Ninh từ miền Bắc tràn vô ước chừng
nhiều hơn ba khía hội nữa. Mỗi chiều lên, dọc
theo những dòng rạch, đoàn xuồng nối nhau vào rừng,
họ chuẩn bị đèn soi có, đuốc có và có cả
đèn pin. Xuồng bắt ba khía nhẹ hững, mỗi chiếc
chở vài ba người (bây giờ không còn dùng khạp, hay
lu đựng ba khía như xưa nữa) mỗi người
mang theo đèn và một thùng thiếc có nắp đậy
để đựng ba khía. Bất kể ngày tháng, trừ
những ngày ba khía lột, ban đêm họ thắp đèn
soi sáng khu rừng giống y như ngày hội. Có người
sót sa chỉ tay vào rừng: Nhìn
coi kìa, người
hội
chớ ba khía còn đâu nữa mà hội.
Thật vậy, cả một đoàn người lùng bắt
làm anh chị ba khía hoảng hốt chui tuốt dưới
hang. Tuy không chuyên nghiệp như những người mần
ba khía trước kia nhưng cách bắt của họ phải
nói là siêu đẳng, anh chị ba khía chui tuốt dưới
hang sâu, họ để nguyên tay áo, thọt cánh tay tận
nách quyết chí lôi ra từng con một. Cách bắt ba khía của
họ tuy dã man thật, nhưng ta cũng nên cảm thông, vì
nghèo đói họ phải cố gắng thức suốt
đêm trong rừng, lội bùn tới háng, chịu cho muỗi
và bù mắt hút máu để kiếm từng con ba khía về
đổi gạo. Sáng xuống xuồng rửa mặt, móc
trong lỗ mũi một cục khói đèn, khói đuốc
đen thui. Nhưng nhiều nhỏ gì đâu, người
nào giỏi thì bắt được đầy một
thùng thiếc cũng là trúng lắm rồi.
*
Cách đây hai năm tôi
đưa Trúc Thanh về thăm quê tôi tận vàm sông Ông Ðốc.
Từ Cà Mau đi đò tốc hành về sông Ông Ðốc Vàm
mất hơn ba giờ đồng hồ cho sáu chục cây
số đường sông.
Chúng tôi về nhằm lúc cúm
gia cầm và chim chóc chết dịch, chết gió cũng nhiều.
Xa cách hơn hai chục năm trời trở về thấy
cảnh vật quê hương hoàn toàn thay đổi, duy
tánh hiếu khách và hài hước của bà con quen biết
thì không mấy đổi thay. Thấy vợ chồng tôi tới
thăm, nhà nào cũng mần gà, mần vịt đãi đằng.
Khi nghe tôi hỏi chuyện cúm gia cầm và chim chóc bịnh
thì nghe họ cao giọng:
- Ối, đó là gà công nghiệp,
chớ gà, vịt ở nhà nuôi thì mạnh như thần,
tui bảo đảm gà, vịt nhà tui không con nào bị bịnh
hết, ăn đi, cứ ăn thoải mái. Còn chim hả?
Mấy sân chim miệt Ðầm Dơi bị chết nằm
la liệt, có đợt bầy chim đương bay trên
trời tự dưng rớt xuống lộp độp ..
dẫy đành đạch, chết hết ráo, chẳng còn
một con. Tốt hơn hết đừng ăn chim chóc
miệt nầy, nguy hiểm lắm.
Tôi không nhịn được
cười, quả là không hổ danh con cháu bác ba Phi. Gà thì
còn phân biệt được gà công nghiệp hay gà nhà nuôi,
còn chim chóc thì làm sao phân biệt được chim miệt
nầy miệt kia. Ðịnh hỏi nhưng thôi, dù sao anh nầy
cũng là truyền nhân của bác Ba, tôi cần phải kính
trọng. Vả lại, dầu tôi có hỏi cách nào chăng
nữa thì ảnh cũng trả lời qua tuốt luốt
..
Về với quê hương
mà tôi cứ ngỡ mình tới một nơi nào xa lạ và
mới thấy lời hứa với Trúc Thanh quả là khó
thực hiện. Những dự tính của vợ chồng
tôi hình như không phù hợp với người ở bên
nhà. Chuyện mùa màng tiêu tan, cá mắm hết sạch, rừng
cây bị tàn phá .. không nóng bỏng bằng chuyện ông cán bộ
nầy cất nhà lầu, bà Việt kiều kia về mua
đất .. Những miếng đất ngày trước
là rừng, bây giờ bán cũng được giá lắm.
Họ chờ đợi vợ chồng tôi một chuyện
gì khác hơn, còn chuyện của chúng tôi thì đối với
họ giống như chuyện của một hành tinh nào ở
ngoài trái đất. Nhưng hổng lẽ tôi lại đi
mua một miếng đất để làm chỗ cho chim,
cò đậu và cho ba khía làm hang? Mà nói cho cùng bán hết tài sản
nhà tôi cũng chưa chắc gì đã mua mổi một thẻo
đất ở đây.
Ở chơi cả tuần
lễ mà tôi cũng chưa biết cách nào đưa Thanh
đi và cũng hổng biết nói làm sao cho cô thoả mãn
tánh tò mò. Hỏi chỗ đi chơi thì nơi nào cũng
đương quy hoạch. Sông Ðốc Vàm bây giờ là thị
trấn và đã đổi thay quá sức tưởng
tượng. Nhà lầu cao lợp ngói, lợp tôn. Ngoài
đường xe gắn máy hai bánh chạy ào ào, người
ta ở đâu đổ về đông như kiến cỏ.
Ngày trước bên kia sông nhà cửa lưa thưa chen theo rừng
rậm, bây giờ rừng bị phá sạch, nhà cửa mọc
lên như nấm mọc mùa mưa. Ðộng vật thì hiếm
hoi. Muốn ăn con cua, con vọp phải đặt mua một
hai ngày. Còn ba khía muối có pha đèn tìm đỏ con mắt
cũng chẳng ra nói chi là đốt đuốc. Cá, tôm biển
không còn nhiều. Ghe câu mực, đánh cá phải ra tuốt
hải phận quốc tế, tận ranh giới Thái Lan
hay Mã Lai câu và đánh mới có.
Một chiều kia tôi đứng
phía sau nhà nhìn con nước lớn lấp lửng, có một
con ba khía cái chống cẳng đứng dưới gốc
cây mắm lùn còi cọc mọc lẻ loi giữa bàu nước
cạnh hông nhà. Tôi quay vô nhà kêu Thanh ra xem cho biết con ba
khía sống, chắc cô vui thích lắm. Thanh hớn hở
đi ra đứng quan sát con ba khía một hồi cô day qua
hỏi tôi:
- Tại sao càng của con ba
khía chiếc lớn, chiếc nhỏ mà có vẻ không
được bình thường?
Tôi nhìn kỹ con ba khía
hơn, chẳng những cặp càng của nó trông có vẻ
bịnh hoạn mà còn rụng thêm hai ngoe nữa. Tôi nói theo
kinh nghiệm của mình:
- Có lẽ trước kia nó
bị tai nạn làm sao đó, phải dùng tới đôi càng
chống đỡ để thoát thân, cuối cùng thua cuộc
bị gãy hai cái ngoe và phải bỏ lại hai chiếc càng
mạnh và cứng; phải qua một hai mùa trăng, lột
vỏ một vài lần, đôi càng mới mọc lại
được, dĩ nhiên đôi càng sau thì không đẹp
và mạnh bằng đôi càng trước.
Nhìn chị ba khía đứng
lẻ loi đưới gốc cây mắm non trơ cành còi
cọc, giọng Thanh xót xa:
- Tội nghiệp quá, gà bịnh,
chim chóc cũng bịnh cho tới ba khía ở dưới
hang cũng bị tật nguyền.
Nghĩ tới những khu rừng
bị phá hoang và những động vật từ rừng
ra tới biển, từ lớn cho tới nhỏ đã bị
tàn sát thảm thương, tôi nói:
- Con người ăn những
thứ nầy bị bịnh cũng phải lắm.
- Nghĩa là sao anh?
- Em không thấy sao, từ
ngày về tới giờ vợ chồng mình hỏi chuyện
ai cũng cười xoà nói cho qua. Hình như họ chờ
đợi mình một cái gì khác hơn là chuyện rừng
cây bị phá, gà vịt, chim chóc bị bịnh chết và nếu
bây giờ mình đem chuyện con ba khía tật nguyền nầy
ra nói thì chắc họ cho là mình điên.
- Nếu thật vậy thì vợ
chồng mình bịnh chớ đâu phải họ bịnh.
Quê hương tôi bây giờ
trông giàu đẹp lắm, nhưng sao tôi vẫn thấy nó
nghèo nàn, lạc hậu hơn thời xa xôi ấy. Tôi không
muốn nói thêm, bèn lảng sang câu chuyện:
- Anh mới vừa kêu mấy
cháu đặt mua mấy ký lô vọp cho em ăn thử.
Có lẽ Thanh cũng đã cảm
nhận được sự mất mát của quê
hương nầy, cô buồn bã nói như thể cho một
mình mình nghe:
- Tới nước nầy
rồi còn lòng dạ nào ăn với uống.
Khi chúng tôi nhìn lại thì
nước dưới bàu đã ngập lên tới chỗ
chị ba khía đứng, chị ta bèn leo lên thân cây mắm
còi để tránh mực nước dâng. Tôi khều Thanh và
chỉ chị ba khía:
- Em coi kìa, chị ba khía leo
lên cây tránh nước lụt, nhìn chị ta mà anh nghĩ tới
con người khi thất thế sa cơ thì chạy nạn,
khi đường cùng thì đấu tranh giành giựt đến
đỗi từ thể chất đến tinh thần
cũng tàn tạ đâu khác gì chị ba khía gãy càng rụng
ngoe kia.
Thanh thở dài một cái rồi
kéo tôi, vừa đi vô nhà cô vừa tuyên bố:
- Bắt đầu từ
ngày mai cho tới ngày về bển, vợ chồng mình sẽ
ăn chay!
- .. ..
NGUYỄN LÊ HỒNG HƯNG
(T.T.K.D
sưu tầm và chuyển)