Nguyễn
Gia Thiều
- hồn thơ ấy, chiếc
phao trên cạn ..
(Trần Mạnh Hảo - danlambao)
"Nếu Tổ Quốc tôi
không c̣n biển
Dân tộc tôi sẽ chết
đuối trên bờ"
(Thơ TMH)
Chưa bao giờ
như hôm nay, nước Việt Nam chúng ta cần một
chiếc phao cứu nạn trên cạn (phao vật chất
và cả phao tinh thần) như lúc này, để cứu
thoát cả một dân tộc sắp chết đuối
trên mặt đất, chết đuối trên cao nguyên, chết
đuối trong bùn bô-xít; chính v́ vậy mà chúng tôi trân trọng
mời quư độc giả t́m đến hồn thơ giải
thoát - Nguyễn Gia Thiều.
Khi tiếp cận
một số tác gia văn học lớn thời phong kiến
như Nguyễn Trăi, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn
Gia Thiều, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương .. hầu
như giới nghiên cứu văn học "quy phạm"
ở nước ta đều dùng khái niệm "trung
đại" (trung cổ) là phạm trù văn hóa khu biệt
của phương Tây để làm hệ quy chiếu
đo đạc, thậm chí c̣n làm phương pháp luận
tiếp cận nữa.
Chính sự lầm
lẫn "lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia"
trong phương pháp luận ấy đă dẫn đến
những đánh giá khá sai lạc về 9 thế kỷ
văn học dân tộc thời phong kiến của ông cha
ta. Chúng tôi xin vứt bỏ cái kính chiếu yêu trung cổ -
kinh viện lầm lạc kia để nh́n nhận các tác
gia văn học thời phong kiến của ta dưới
một cái nh́n khác, không phụ thuộc vào những định
kiến hay những bùa chú, những công cụ tiếp cận
gông cùm lỉnh kỉnh ngoại lai nào. Trước hết,
chúng tôi xin đề cập tới một đại tác
gia: Nguyễn Gia Thiều.
Có lẽ,
đại thi hào Nguyễn Du, người kém Nguyễn Gia
Thiều 25 tuổi, kém Đoàn Thị Điểm 51 tuổi,
là người đă từng mê đắm Chinh phụ ngâm
và Cung oán ngâm khúc? V́ vậy, trong Truyện Kiều, chúng ta
c̣n gặp đâu đó hồn lục bát Nguyễn Du phảng
phất khói sương, hơi hướng hai kiệt tác
trước đó. Ví phỏng như không có Chinh phụ ngâm
và Cung oán ngâm khúc, liệu ngày nay chúng ta đă có một tuyệt
tác như đang có trên tay: Truyện Kiều không? Nhất
là tư tưởng, t́nh cảm thẩm mỹ của Nguyễn
Gia Thiều đă ảnh hưởng đến hồn lục
bát Nguyễn Du hơn cả. Đoàn Thị Điểm phải
nhờ vào bản Hán văn của Đặng Trần Côn,
Nguyễn Du dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân mới thành hồn Việt, tiếng Việt tuyệt vời.
Nguyễn Gia Thiều không cần vịn tạm vào cây cầu
Hán tự, hay mượn lốt Trung Hoa mà Việt hóa hồn
người. Ông viết trực tiếp bằng chữ
Nôm, bằng tiếng Việt, một thứ tiếng Việt
rất đài các hàn lâm, rất thâm sâu thông tuệ: "Trải vách quế gió vàng hiu
hắt", kết hợp với tiếng Việt b́nh
dân, vừa hoa hèn cỏ nội, vừa muối mặn gừng
cay, rất đời thường dung dị: "Lau nhau ríu rít c̣ con cũng
t́nh". Chỉ vỏn vẹn 356 câu thơ song thất
lục bát, diễn tả nỗi ḷng ai oán của cung nữ
mà tỏ bày chuyện nhân t́nh thế thái, chuyện trời
đất, tử sinh của thân phận làm người;
Cung oán ngâm khúc quả là một kiệt tác được
thể hiện với một nghệ thuật thơ trác
việt, xuất chúng, mang tính tư tưởng và thẩm
mỹ vào loại cao sang nhất, sâu sắc nhất, mỹ
lệ nhất trong kho tàng văn học cổ Việt Nam.
Nguyễn Gia
Thiều mượn tâm trạng cung nữ mà nói chí hướng
ḿnh, mượn ḿnh mà đối chất, ỉ ôi ta thán thời
thế, mượn thời thế mà vẩn vơ nghĩ
ngợi kiếp người, mượn kiếp người
mà đối thoại, ầu ơ cùng trời đất,
mượn trời đất mà rong ruổi nỗi hư
không, mượn hư không mà an ủi, xẻ chia nỗi buồn
cung nữ. Chính v́ vậy, mỗi câu thơ của bậc
thiên tài không chỉ đa ngữ nghĩa, đa tầng
đa vỉa như vân gỗ trong cây cḥ chỉ ngh́n năm,
mà c̣n nghĩa ở ngoài nghĩa, chữ ở ngoài chữ,
tư tưởng ngoài tư tưởng, như khói
sương ngoài lại khói sương. V́ vậy, khi đọc
Cung oán ngâm khúc, chúng ta không chỉ phải dùng thị giác,
thính giác, tri giác, cảm giác, trực giác mà c̣n phải huy
động cả linh giác, huệ giác, vô giác, thiên địa
giác, tổng hợp lại trong mơ hồ THI GIÁC mới
có cơ gặp được hồn thơ bách tuế
thiên tuế này. Ví dụ như khi đọc câu thơ huyền
nhiệm này của Ôn Như hầu: "Cái quay búng sẵn trên trời / Mờ mờ nhân ảnh
như người đi đêm" mà chỉ tựa vào
"cái quay" luân hồi sắc không, bào ảnh Phật
giáo, hoặc tiêu dao vô vi với "người đi
đêm" áo gấm Lăo Trang kia cũng chưa thấu
được bờ bến câu thơ. Chừng như cái
huyệt, cái rốn, cái thần của câu thơ mang mang rất
đạo này lại nằm trong một động từ
"búng" rất bé, rất đời, rất ngẫu
nhiên ; như thể trên biển cả vô cùng của thế
giới đèn cù hư ảnh, vang lên rất đanh, rất
sắc một tiếng con tôm nhân t́nh chợt búng tanh tách. Và
cái quay Phật giáo kia, cái "người đi đêm"
kia, hóa ra chỉ là tṛ búng con quay của đứa trẻ
con - tạo hóa có tên là thi ca.
Một cái
búng tay tí tẹo thi ca lại có thể mở khép được
cái vô cùng, chạm vào cái lênh đênh, như chạm vào cái
Không của Phật và cái Vô của Lăo, hóa giải nỗi
siêu h́nh bằng nghịch ngợm nhân sinh. Từng câu thơ
của bậc thi hào là một khối thống nhất các
mâu thuẫn lớn trong quy luật đồng nhất, phản
phục, thoắt có, thoắt không, lúc thuỷ, lúc hỏa, vừa
có nghĩa lại vừa phản nghĩa, như trong phân tử
vật chất đă mang sẵn hạt phản vật chất,
trong sự sống nào cũng mang sẵn một mầm chết.
Chính v́ vậy, dùng phương pháp luận cắt lát của
phê b́nh văn học nặng về xă hội học, phê
b́nh lư trí hay phê b́nh trực giác, phê b́nh đạo đức
học, ngôn ngữ học, phê b́nh phân tâm học, phê b́nh cấu
trúc .. đối với Cung oán ngâm khúc e rằng chưa thể
tất.
Phê b́nh xă hội
học từ bấy nay đă chỉ ra rằng Cung oán ngâm
khúc tố cáo chế độ phong kiến tàn bạo, vô
nhân đạo, chà đạp t́nh yêu hạnh phúc con người.
Cái chế độ tự nhiên đi bắt nhốt hết
con gái đẹp thiên hạ vào một cung cấm như tù
chung thân, cho một người sợ nắng sợ gió,
hom hem, bệnh hoạn gọi là vua độc quyền
hưởng lạc, bảo không ác sao được?
Đúng quá. Lại bảo tác phẩm này đầy tính nhân
đạo chủ nghĩa. Nhà thơ bênh vực, cảm
thông, chia sẻ với nỗi buồn đau, nỗi khát vọng
hạnh phúc, nỗi tuyệt vọng về tương lai
của hàng trăm cung nữ, nhất định là
thương người quá đi chứ. Đúng quá. Lại
bảo nghệ thuật của thi phẩm này cao siêu, tuyệt
vời. V́ hơn hai trăm năm nay rồi, những áng
thơ c̣n rung động, xúc cảm hàng triệu con tim yêu hồn
Việt ngữ ông cha. Lại đúng quá. Mà đúng cả với
Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều và thơ Hồ Xuân
Hương nữa.
Phái phê b́nh
phân tâm học th́ dùng ông Freud để lư giải t́nh cảm
bị ức chế t́nh dục của các cung nữ và ngay
cả với Nguyễn Gia Thiều, người bị coi
là quan hoạn, nên mới tạo ra nỗi khổ, nỗi
thèm khát, nỗi hay đầy cảm giác nhục tính của
tác phẩm. Nghe ra, cũng có vẻ có lư. Người khác cho
rằng, Ôn Như Hầu là đệ tử của Phật,
của Lăo, tŕnh bày cuộc đời như các cung nữ bị
ông vua tạo hóa nhốt chơi, khổ lắm, nhục lắm,
mất tự do lắm, nên khuyên ta phải t́m vào cửa
Không, cửa Vô mà lánh cho qua bể trần gian. Lại có vẻ
đúng. Có người chứng minh Ôn Như Hầu yếm
thế, chán đời. Có người lại bảo không,
bên ngoài th́ thở vắn than dài thế thôi, nhưng bên trong
c̣n ham hố lắm, c̣n yêu đời lắm, c̣n hy vọng,
thèm khát ái ân lắm, cầu mong ơn mưa móc cửu trùng
lắm .. Phê b́nh duy mỹ th́ bảo: vứt hết những
cái đó đi, chỉ lấy cái mỹ lệ văn
chương làm tiêu chuẩn thôi, tuyệt đẹp từng
câu, từng chữ. Rồi phê b́nh h́nh thức, phê b́nh ngôn ngữ
học, phê b́nh trường ngôn ngữ .. đều lôi
thiên tài Ôn Như hầu về phía ḿnh như honda ôm giành
khách. Trong Cung oán ngâm khúc có tất cả những điều
trên và c̣n nhiều điều hơn nữa, nhưng h́nh
như rồi chẳng có một điều nào cả.
Ḱa hàng
trăm cung nữ thở than, đau khổ , ám ảnh chuyện
mây mưa, hy vọng, tuyệt vọng, rồi níu lấy Phật,
lấy Lăo, níu cả ông Khổng, thậm chí níu cả ông
Táo, ông Tơ như người chết đuối bám cọc.
Nghĩa là trong 356 câu thơ song thất lục bát, ta thấy
hiện lên cả một thế giới người khổ
ải xin tan ḥa vào thế giới thần thánh như mực
mong ḥa trong nước để được sống
đời chữ nghĩa. Nhưng rồi quay đi, quay lại,
thoắt biến đâu như đèn cù, chẳng c̣n ai. Cả
người đọc thơ bồi hồi, rơi lệ
một lúc cũng biến đi. Chỉ c̣n một ḿnh nhà
thơ lặng lẽ trong từng câu chữ, ép hồn vào
trang giấy như con bướm khô mà gánh chịu bể
khổ kiếp người, gánh chịu cả cái không
đâu vô cùng của triết học và tôn giáo. Khiếp quá.
Cô đơn quá. Sầu thảm quá.
Khi các cung nữ
khóc than khản giọng th́ nhà thơ lên tiếng, phủ nỗi
buồn vạn cổ lên cỏ cây, lên muôn vật, thậm
chí lên cả hậu thế nữa: "Phong trần đến cả sơn khê / Tang
thương đến cả hoa kia cỏ này". Câu lục
bát hay đến rớm lệ hai thế kỷ thi ca. Chừng
như nỗi "phong trần, tang thương " của
dân tộc suốt hơn hai trăm năm qua chưa đi
hết câu thơ thần diệu này của Ôn Như Hầu?
Tưởng như chỉ dùng hai câu thơ trên cũng có thể
b́nh được hồn thơ Nguyễn Du, Đoàn Thị
Điểm, Hồ Xuân Hương, bà Huyện Thanh Quan .. thuở
ấy. Câu lục bát kia bảo nó là tâm hồn thời đại
th́ cũng là đệ nhất tâm hồn, bảo nó là
tư tưởng thời đại th́ cũng là đệ
nhất tư tưởng.
Có thể
nói, Ôn Như Hầu là nhà tư tưởng lớn nhất
của thi ca Việt Nam từ trước tới nay. Tất
cả tư tưởng của thi hào đă được
hồn vía hóa, Việt hoá, thi ca hoá. Thân gỗ của cây triết
học, thần học cứng ngắc, khô khan qua cảm hứng
thi ca Ôn Như Hầu, đă trổ hoa tư tưởng.
Thi ca đă biến triết học trong ông thành mỹ học,
biến bộ óc tràn đầy sách vở kinh điển,
già giặn, siêu h́nh, siêu việt của ông thành nỗi oe oe
chào đời tơ non của trái tim con người. Ngay cả
nỗi thống khổ trần gian đi qua thi ca ông cũng
thành đẹp thế, cảm động và ngây thơ thế,
thương thế: "Thảo
nào khi mới chôn nhau / Đă mang tiếng khóc ban đầu
mà ra". Câu thơ thuần Việt, không một từ
Hán chen vào, dung dị như nhọ nồi rau má mà sâu
thăm thẳm những vực cùng đỉnh. Con người
ra đời phải chăng v́ sợ quá mà cất tiếng
khóc đầu tiên? Tiếng khóc ấy như một tiếng
thét báo hiệu, báo nguy, báo thức, báo yên và báo động.
Khi tư tưởng được phát giác bằng thi hứng,
bằng trực cảm, bằng h́nh ảnh, h́nh tượng
ngôn từ, tư tưởng ấy sống động và
bền vững măi. Trẻ sơ sinh kia sao giống hệt
thi ca, vừa ra đời đă cất tiếng khóc? Tiếng
khóc ấy phải chăng chính là tiếng hát đẹp nhất
của con người trên mặt đất?
Ôi chao, loài
người sẽ thế nào đây, nếu mỗi chúng ta
vừa ra khỏi bụng mẹ đă hí lên cười hềnh
hệch đến méo mó cả phận ḿnh? Cung oán ngâm khúc
quả t́nh đă trở thành một trong những "tiếng
khóc ban đầu" của tinh thần văn hóa Việt.
Con người sơ sinh - thi ca đă đi qua tiếng khóc
thứ nhất dữ dội của ḿnh một cách bi tráng
dễ sợ như thế, phỏng c̣n tiếng khóc nào, nỗi
thống khổ nào trên đời dọa nạt được
nó? Hơn hai trăm năm nay rồi và ngh́n vạn năm nữa,
các thế hệ người Việt Nam đều lần
lượt d́u nhau đi qua câu thơ này của Nguyễn
Gia Thiều, như d́u nhau leo cây cầu kiều bắc qua bể
khổ, để suốt những năm ở trọ trên
mặt đất không c̣n lạ ǵ, ngại ǵ nước mắt
với đau thương, cái mà trong bụng mẹ, thai nhi
đă nghiền ngẫm, đă nhấm nháp qua chiếc cuống
nhau trần thế. Con người bị vây bủa bởi
"tiếng khóc ban đầu" và "nấm cổ
khâu xanh ŕ", có vẻ như sợ hăi quá, hư vô quá,
nhưng mà hay quá, thấm thía quá, đương nhiên quá: "Trăm năm c̣n có ǵ đâu
/ Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh ŕ".
Hăi thật,
phàm là người, xưa nay có ai vượt qua nấm
đất cuối của ḿnh đâu? Bản thân cái chết
cũng rất tự nhiên như cái sinh, chẳng có ǵ đáng
sợ. Ôn Như Hầu gánh trên đôi vai thi ca: một bên là
cái sinh: " tiếng khóc ban đầu", một bên là
cái diệt: "nấm cổ khâu xanh ŕ" mà đi tiêu dao
qua tôn giáo và triết học, đi qua cả nỗi yếm
thế cùng nỗi yêu đời, đi vào tận sâu cái
Không để xóa cái Không, đi hết cái khiếp sợ
để không c̣n khiếp sợ nữa. Vậy th́ cái
đau về nỗi người bèo bọt nào có sá ǵ: "Nghĩ thân phù thế mà
đau / Bọt trong bể khổ bèo đầu bến
mê". Ơ hay, không đi qua hết mê lầm th́ làm sao
diệt được mê lầm, không đi qua "sóng cồn"
th́ sao biết được ḿnh là "con thuyền bào ảnh":
"Sóng cồn cửa bể
nhấp nhô / Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh".
Hóa ra, ngay trong cái Không này, thi ca đă t́m thấy cái Hữu từ
trong cảm giác, từ cảm xúc thẩm mỹ của nỗi
"nhấp nhô", "gập ghềnh" của cuộc
đời bồng bềnh, nhún nhảy như sóng gió,
như vơng đưa, như những câu lục bát sâu sắc
mang tính tư tưởng cao nhất của thi ca Việt
Nam vừa trích dẫn.
Ôn Như Hầu
dắt díu một đoàn cung nữ đang chết khát yêu
đương vượt qua sa mạc của cơi Mộng
hướng vào nguồn suối cơi Thực, qua cơi Tâm lần
t́m cơi Vật, cũng là dắt díu chính bản thân ḿnh vượt
qua siêu h́nh, vượt qua biển bờ tôn giáo hư không
để oà ra gặp cái Ngă, rằng Tôi là có thật, Tôi là
chính của Tôi, không phải bào ảnh, ảo giác, không phải
mê lầm : "Giấc Nam Kha
khéo bất t́nh / Bừng con mắt dậy thấy ḿnh tay
không". Sau giấc ḥe ma mị, bèo bọt , nhà thơ
trong lốt cung nữ đă kinh ngạc "thấy
ḿnh" dù "tay không", không c̣n ǵ cả, không c̣n hư
mê, chỉ c̣n chính bản thân ḿnh, trả cho vô biên cái hư
ngă, chỉ mang theo cái chân ngă mà thành thi ca. Nguyễn Gia Thiều
rốt ráo chẳng hư vô chủ nghĩa tí nào cả.
Cứ tưởng
ông tuyệt vọng chán đời, lánh đời, ai ngờ
ông chỉ núp vào Phật Lăo chơi tí như trưa nắng
núp nhờ bóng cây, đoạn an ủi các cung nữ một
chút rồi lại sà ngay vào kiếp người mà hy vọng,
mà t́nh tứ, mà kén vợ gả chồng cho từ hoa cỏ
đến chim muông. Những câu thơ viết về khát vọng
lứa đôi hài ḥa âm dương vũ trụ hay nhất
từ xưa đến nay của thi ca Việt Nam trong Cung
oán ngâm khúc, khiến trời đất, cát bụi cũng
muốn hoá vợ chồng: "Ḱa
điểu thú là loài vạn vật / Dẫu vô tri cũng bắt
đèo ḅng / Có âm dương có vợ chồng / Dẫu từ
thiên địa cũng ṿng phu thê".
Tiếng Việt
của ca dao tục ngữ được Nguyễn Gia Thiều
nâng cao thành chú rể Việt Nam cưới cô dâu từ ngữ
Hán, điển tích Hán, nhập quốc tịch chữ Nôm
mà hóa hồn Việt thuần thục đoan trang, b́nh dân
đại chúng mà vẫn yêu kiều thục nữ, vẫn
mỹ lệ, tài hoa đến không ngờ. Thành ra Ôn Như
Hầu chính là ông tơ hồng của văn học, lấy
thi ca mà trói buộc chữ duyên t́nh lên cả vần điệu,
lên cả càn khôn. Vượt qua mọi cấm đoán thời
phong kiến, cấm đàn bà con gái không được bày
tỏ ham muốn xác thịt cả trong đời và trong
văn học, Nguyễn Gia Thiều đă ném toàn bộ
chăn gối của tinh thần giải phóng phụ nữ
vào chính mặt vua chúa, cũng là ném cảnh pḥng the vào vẻ
đạo mạo giả dối của thời đại,
giật tung tấm b́nh phong, tấm màn che phong kiến xuống
tưởng không c̣n manh giáp: "Chốn
pḥng không như giục mây mưa", " Khi ấp mận
ôm đào gác nguyệt", "Mây mưa mấy giọt
chung t́nh", "Lối đi về ai chẳng chiều
ong" .. hoặc câu thơ mà phái phân tâm học cũng
phải gọi bằng thầy, thơ hay đến nỗi
chim chuột cũng phải ngẩn ngơ, mê mẩn: "Bóng gương lấp loáng
dưới mành / Cỏ cây cũng muốn nổi t́nh mây
mưa".
Đối với
cái dục, càng diệt, càng ư thức về diệt dục
nó càng phát lộ. Thế th́ làm sao hàng trăm cung nữ ngày
đêm chết khát chờ "ơn mưa móc cửu
trùng" có thể hóa các ni cô mà tu thành chính quả trong ngôi
chùa "Cung oán"? Thành ra, muốn dắt đoàn cung nữ
của ḿnh tới cơi Phật, Nguyễn Gia Thiều phải
đưa họ đi hết cơi dục, cơi mà họ
đang chết khát, đang bị đày đọa trong
địa ngục dục vọng. Đấy là bi kịch
đớn đau nhất, tang thương nhất của
kiếp người, kiếp làm vợ vua trong thế giới
"Cung oán". Để muôn đời, những thân phận
cung nữ kia sẽ nhờ buồn thương mà bất tử
với thi ca Ôn Như Hầu, đặng khóc than về sự
trớ trêu của kiếp vợ vua: "Dẫu nhan sắc mấy cũng thừa / Lấy
chồng vua lại thành chưa có chồng" (thơ Trần
Mạn Hảo).
Thương
thay những kiếp hồng nhan bạc phận, dẫu hóa
cát bụi vẫn c̣n thèm khát hạnh phúc chính ra họ đă
được hưởng nơi quê mùa, dân dă, điều
không thể có trong cung vàng điện ngọc: "Thà rằng cục kịch
nhà quê / Dẫu ḷng nũng nịu nguyệt kia hoa này".
Chao, thi pháp Ôn Như hầu đâu chỉ rực rỡ những
lầu son gác tía. Hồn ông, thơ ông, qua khát khao niềm
chăn gố́ quê mùa của người cung nữ, đă
chớm ánh lên sắc vàng rơm rạ b́nh dân trong tinh thần
"cục kịch nhà quê" rất "oé oẹ", rất
nôm na mà vẫn cứ sang trọng, quư phái kiểu "má
đào chon chót" ("Giải
kết đều oé oẹ làm chi".../ "Song đă cậy
má đào chon chót" ).
Có phải
Nguyễn Gia Thiều muốn qua lời cung nữ mà ngụ
ư, mà bóng gió nói về cuộc trở dạ, cuộc lột
xác, thoát thai của văn học Việt Nam từ Hán sang
Nôm từng quằn quại mấy thế kỷ từ thời
Hàn Thuyên? Ấy là khi ḍng thi ca dân tộc bắt đầu
t́m cách chia tay với thi pháp "bắt voi bỏ rọ"
Hán, tâm thức mực thước Hán cung đ́nh, để
bước ra bầu trời tự do, bước sang thi
pháp lục bát phóng khoáng, uốn lượn bay bổng Việt,
tâm thức nâu sồng Việt b́nh dân đại chúng, chuyển
từ phong cách "phong lưu" qua phong cách "thanh
đạm": "Miếng cao
lương phong lưu nhưng lợm / Mùi hoắc lê thanh
đạm mà ngon"?
Hàng trăm
cung nữ chết sầu chết héo, chôn má đào trong nấm
mồ chung "vách quế, tiêu pḥng" chỉ v́ "miếng
cao lương phong lưu" giả hiệu ấy! Đến
khi biết nuốt vào "lợm" quá, tanh tưởi
quá nhưng không nôn ra được nữa rồi, đành
ngồi mơ "mùi hoắc lê" dân dă hoa hèn cỏ nội
như mơ cảnh Niết Bàn. Măi măi, những cung phi ấy
không c̣n được hưởng hạnh phúc "mùi hoắc
lê" nôm na tuyệt vời, để chúng ta, hậu thế
được hưởng trọn vẹn 356 câu thơ nôm
thuần Việt, hồn Việt "thanh đạm mà
ngon" của Ôn Như Hầu tiên sinh tặng lại.
Giấu nỗi
buồn đau của hàng trăm cung nữ bạc phước,
bất hạnh trong gan ruột ḿnh, rồi cất lên tiếng
ta thán của ngh́n năm cung cấm, tâm hồn Nguyễn Gia
Thiều quả là nhức nhối, quặn thắt đến
cả trời đất, đành nhờ thi ca chuyển tải
xót thương tới muôn vàn mai hậu. Thương thay một
thời đại cung nữ, một thời đại
song thất lục bát, một thời đại của
thi pháp vàng son đă biết cách nghiêng xuống t́m t́nh duyên
nơi "Lau nhau ríu rít c̣
con" nôm na dân tộc, mà vẫn phải mếu máo
cười khóc khi hát khúc ngâm "Cung oán": "Cười nên tiếng khóc
hát nên giọng sầu".
Đau quá,
không chỉ kêu lên một tiếng cô đơn như tiếng
kêu "hàn thái hư" Không Lộ thiền sư xưa,
mà là một tiếng kêu căm uất dài tới hai trăm
năm có lẻ: "Chống
tay ngồi ngẫm sự đời / Muốn kêu một tiếng
cho dài kẻo căm". Ôn Như Hầu dồn cả
nỗi oán hận chế độ phong kiến tàn ác, chà
đạp t́nh yêu hạnh phúc con người của không chỉ
ngh́n muôn cung nữ vào trọn tâm can ḿnh. Ông muốn đập
tan thời đại vô luân đó, muốn đập tan cả
nền móng những khổ đau, muốn đập tan
ngay cả thân xác nặng nề đang chịu thay cái
đau quằn quại của bao cuộc đời, để
tinh thần được tự do bay lượn trong vô
cùng thế giới: "Dang tay
muốn dứt tơ hồng / Bực ḿnh muốn đạp
tiêu pḥng mà ra". Tưởng như hai câu thơ này viết
về nỗi
niềm dân tộc Việt Nam hôm nay đang muốn "dứt
tơ hồng"- (tơ đỏ trói buộc), "muốn
đạp tiêu pḥng" - (chủ nghĩa) mà ra với lồng
lộng nhân loại tự do, nhân loại dân chủ
? Thương thay cho người Việt chúng ta hôm nay h́nh
như vẫn c̣n bị nhốt trong hai câu thơ đau
đáu xa xưa của Ôn Như Hầu ?
Có thể
cùng với bao cung nữ, thân xác Nguyễn Gia Thiều đă
nằm lại trong "tiêu pḥng" của chế độ
phong kiến, nhưng tinh thần ông, kiệt tác của ông
là Cung oán ngâm khúc, thực sự đă đạp đổ
tung thời đại đau thương ấy mà bay về
phía chúng ta, về phía con người. Ở đó, linh hồn
nhà thơ đă thực hiện được giấc
mơ của hơn hai trăm năm trước, cùng tiêu
dao trong thế giới Lăo Trang mà con bướm hoài nghi không
c̣n ngơ ngác giữa mộng và thực nữa :"Thoát trần một gót thiên
nhiên / Cái thân ngoại vật là tiên trong đời".
Chừng như tất cả chúng ta, thông qua tâm sự ngh́n
thu cung nữ - Nguyễn Gia Thiều, đều chỉ là
những cung nam, cung nữ của v́ vua tạo hóa?
Được
kiệt tác Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn -
Đoàn Thị Điểm gợi hứng, Nguyễn Gia Thiều,
một đại quư tộc, một đại trí thức,
một tâm hồn thơ xuất chúng đă mượn nỗi
đau cung nữ mà hát lên tiếng thơ nôm tuyệt diệu,
vừa cao siêu đỉnh trời tư tưởng, vừa
diễm lệ tận cùng t́nh cảm cỏ hoa, vừa quư
phái hàn lâm, vừa nâu sồng dân dă. Cung oán ngâm khúc quả
t́nh có thể xếp ngang hàng với hai kiệt tác Chinh phụ
ngâm và Truyện Kiều, như tam vị nhất thể,
như ba đỉnh núi thi ca trong một quần thể
tinh thần văn hóa Việt cuối thế kỷ thứ
XVIII, đầu thế kỷ thứ XIX c̣n sừng sững
giữa trời, cùng ṿi vọi với đỉnh thi ca
đơn độc Ức Trai trên dưới bốn
trăm năm trước.
Rất tiếc,
trong chương tŕnh văn học từ bậc phổ
thông đến bậc đại học, kiệt tác Cung
oán ngâm khúc chừng như chưa được đánh giá
đúng mức? Tất cả chúng ta, như lớp lớp
người xưa, kể cả những tay bơi cự
phách nhất như "rái tướng" Yết Kiêu và Dă
Tượng đời Trần, đều sẽ lần
lượt, kẻ trước người sau bị sự
"đành hanh" của tạo hóa cḥng ghẹo, đến
độ phải chết đuối trên mặt đất,
như câu thơ hay đến kỳ lạ của Nguyễn
Gia Thiều: "Trẻ tạo
hóa đành hanh quá ngán / Chết đuối người trên
cạn mà chơi". Nhưng may mắn thay, tṛ con tạo
đùa chơi không thể đánh ch́m được hồn
thơ Cung oán ngâm khúc, dù là sự đánh ch́m "trên cạn".
Thi phẩm này cứ trôi lênh đênh như một cái phao tâm
linh cứu nạn trên mặt đất, sẵn sàng cho những
chơi vơi níu bám, ít ra là đối với những tâm hồn
đă được mỹ cảm thi ca cứu rỗi.
Trần Mạnh Hảo
-
danlambaovn.blogspot.com -
(A Trinh sưu tầm và chuyển)