Nhớ về một mùa lễ
Tạ Ơn.
(NGUYÊN NHUNG)
Tôi đến
Mỹ vào một ngày mùa Đông năm 1992. Đối với
tôi lúc ấy, cảm giác lạnh lùng trống vắng khi
nh́n thấy những rừng cây trơ trụi hai bên xa lộ nằm thiếp ngủ,
thành phố về đêm nhấp nháy những ánh đèn xanh
đỏ dưới cơn mưa phùn mùa đông rét mướt.
Buồn, cảm
giác buồn thay cho bao háo hức thường ẩn hiện
trong những giấc mơ khi c̣n ở Việt Nam, hiện
tại một nước Mỹ buốt lạnh và buồn
rầu khi chiếc xe chạy qua những đoạn
đường ướt át. Lúc ấy đă gần nửa
đêm, người bảo trợ dẫn cả nhà vào
căn chung cư 1 pḥng ngủ, ngổn ngang vài món cần
thiết xin được của hội từ thiện.
Nhà hàng xóm người Kampuchia đêm khuya vẫn c̣n thức,
nghe có tiếng xê dịch ngoài hành lang vội mở cửa
nh́n ra, rồi biết có người mới qua cũng tíu
tít chạy ra hỏi thăm, bưng cho ngay thùng ḿ gói và hộp
sữa.
Đối với
chúng tôi lúc ấy t́nh người quư biết bao, nỗi nhớ
quê c̣n đầy nhưng sự chia xẻ ấy khiến
ḷng tôi ấm lại. Phải đến năm sau, một
năm dài làm quen với khí hậu và phong tục cuả nuớc
Mỹ, tôi mới hưởng được không khí ấm
áp cuả mùa lễ Tạ Ơn vào tháng 11 năm sau.
Đẩy
lùi vào quá khứ những ngày vất vả khó khăn ở
quê nhà, cơ hội đă mở toang cánh cửa đón gia
đ́nh tôi hoà nhập vào đất nước tự do.
H́nh như quanh tôi có một điều khó diễn tả
được khi cảm nhận được hai chữ tự do, những ngày
đầu tôi vẫn tưởng ḿnh đang nằm mơ,
nhưng giấc mơ ấy đă thành sự thật,
bước ban đầu c̣n lạc lơng, chúng tôi đă nhận
được sự giúp đỡ của nước Mỹ,
mặc dù chưa đóng góp được ǵ cho xứ sở
này.
Mỗi ngày,
điều thích thú nhất với tôi là được
đi học, ở cái tuổi ngoại tứ tuần mà
c̣n cắp sách đến trường, tung tăng như một
nữ sinh trung học làm tôi sống lại cảm giác thời
thanh xuân mà tôi đánh mất từ lâu. Dù đấy chỉ
là lớp học dạy ESL, dành cho những người
chân ướt chân ráo mới được định
cư tại Hoa Kỳ, nhưng không khí của một lớp
học th́ dường như ở đâu cũng vậy. Một,
hai bác cao niên dở dang sự nghiệp, vài người
trung niên, cùng những bạn trẻ từ nhiều quốc
gia học chung một lớp. Chúng tôi đă thật sự
đến gần với nhau qua những tâm sự bằng
thứ tiếng Anh bập bẹ, kể cho nhau nghe về xứ
sở của ḿnh và lư do đến được xứ sở
này, cảm thông với nhau về hoàn cảnh hiện tại,
và niềm hy vọng tốt đẹp ở tương
lai
Khi chuẩn
bị mùa lễ Tạ Ơn, ông thầy trẻ đă dạy
cho chúng tôi học bài học mùa Tạ Ơn, để hiểu
tại sao xứ sở này người ta duy tŕ ngày Lễ Tạ
Ơn hằng năm. Bài học "The First Thanksgiving"
ngày hôm ấy là một đề
tài hấp dẫn cho cả lớp, và trước đó tôi
đă cố học thuộc ḷng như cháo vài câu cảm
ơn cho bữa tiệc trước ngày lễ Tạ
Ơn năm đó.
"Theo câu
chuyện kể lại. Một ngày, những người
Pilgrims đầu tiên sống ở nước Anh, họ
là những người bị bắt buộc theo giáo phái của
nhà Vua, gọi là King's Church, nhưng họ lại chỉ muốn
được tự do cầu nguyện theo truyền thống
thờ phượng riêng của họ mà thôi.
Những người
Pilgrims này đă t́m cách rời nước Anh, và họ t́m
đến một quốc gia nhỏ có tên là Holland, họ
đă ḥa nhập vào sinh hoạt tôn giáo của người
địa phương, sự tư do của tôn giáo chỉ
đúng nghĩa nhất khi mỗi người được
thực sự cầu nguyện theo con đường mà họ
thích. Người Holland được gọi là người
Dutch, ngôn ngữ riêng cuả họ là tiếng Dutch. Không thể
hoà nhập được nên thêm một lần nữa, những
người Pilgrims lại lên đường t́m về miền đất mới, đó
là Châu Mỹ xa xôi.
Tại xứ
sở này, họ có được sự tự do tôn giáo, con
cháu họ được nói
tiếng Anh. Năm 1620, năm đánh dấu 102 người
Pilgrims, những người đầu tiên đi t́m đất
mới rời Holland và tàu của họ đă cặp bến
Mayflower tại Massachussets, thời tiết khắc nghiệt
với những cơn mưa và khí hậu lạnh lẽo,
nhiều người đă nhiễm bệnh nên con tàu không
thể tiếp tục lênh đênh trên biển.
MayFlowers là một
hải cảng nhỏ của tiểu bang Massachussets,
nơi dừng chân của những người Pilgrims kiệt
lực v́ sóng gió và khí hậu khắc nghiệt, họ bắt
đầu cuộc đời mới tại một thành phố
nhỏ mang tên là Plymouth. Nhưng mùa đông năm đó, khí
hậu nơi này cũng vô cùng khắc nghiệt, nhiều
người đă chết, họ sống lây lất bằng
ít lương thực thật nhỏ nhoi, cầm cự măi
nếu không có sự giúp đỡ của những người
địa phương, đó là những người da
đỏ được gọi là người Indians.
Những
người dân địa phương tốt bụng này
đă hướng dẫn cho họ ḥa nhập vào đời
sống mới, dạy cho họ cách trồng trọt và bắt
cá để làm thức ăn, chỉ cho họ cách trồng
bắp, một loại ngũ cốc dễ ăn và dễ
cất giữ để làm lương thực trong đời
sống hằng ngày. Bắt đầu từ đấy,
người di dân xây được nhà thờ của họ,
bắt đầu xây dựng nhà cửa, và họ đă rất
hạnh phúc khi có một đời sống no ấm trong một
xứ sở tự do.
Tháng 11
năm 1620, ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên được
h́nh thành cho cộng đồng người da đỏ bản
xứ và người di dân đến từ nước
Anh. Họ tổ chức một
buổi tiệc Tạ Ơn để người
Pilgrims có dịp bày tỏ ḷng tri ơn của họ, cảm
ơn Thượng Đế đă cho họ được
gặp những người địa phương đầy
ḷng từ tâm, đă giúp họ một cuộc sống mới
nơi mà họ đă phải đánh đổi bao nhiêu gian
nan để t́m kiếm."
Bài học về
ngày Lễ Tạ Ơn cũng chấm dứt, tiếp theo
đó mỗi người trong lớp đă bày tỏ ḷng biết
ơn của ḿnh với những người xung quanh, mở
đầu cho một party mang nhiều sắc thái dân tộc.
Trước mấy ngày, giờ ra chơi những học
sinh đă hỏi nhau về những món ăn mà mọi
người mang đến lớp
học mừng lễ Tạ Ơn, đây cũng là lần
đầu tiên chúng tôi được làm quen với những
món ăn truyền thống của từng dân tộc.
Martha người
Mễ Tây Cơ c̣n trẻ và rất vui tính, trên tay cô là một
khay thức ăn đậm đà hương vị Mễ
Tây Cơ, bánh bột bắp cuộn món ḅ hầm với rau
đậu ăn lạ miệng và khá ngon. Cô đến lớp đỏm dáng với chiếc váy hoa sặc sỡ,
đôi chân như nhảy nhót theo điệu nhạc. Martha
là người đă dạy tôi hát bản "Besame
Mucho" bằng tiếng Spanish, mỗi dân tộc đều
thể hiện dân tộc tính cuả ḿnh qua các món ăn hay
cách sinh hoạt, người Mễ Tây Cơ thích âm nhạc,
thích hưởng thụ, khác với tính chuyên cần,
chăm chỉ và kín đáo cuả người Việt. Vốn
tính trung thực, Martha giản dị chỉ cho những
người mắt kém đi chọn một cái kính đeo mắt
tương đối trong cửa hàng Walgreen, cô hóm hỉnh
nói:
"Ḿnh
chưa đủ tiền đến bác sĩ đo mắt
và mua một cái kính đắt tiền, đến đó (ư
cô nói là cửa hàng Walgreen) có vô khối các loại kính
đeo mắt cho ḿnh chọn lựa. Tạm thời thôi,
mai mốt khi nói giỏi tiếng Anh, có việc làm tốt,
các bạn tha hồ đi khám mắt và mua một cái kính
hoàn hảo".
À th́ ra trong
câu chuyện nhỏ, Martha đă đem đến cho mọi
người ư nghĩa của
sự tương đối, trong khi tôi biết một vài
người quen diện tỵ
nạn, sau khi thoát khỏi cảnh nghèo ở quê
hương, sang đây vẫn hay ta thán bất măn cho rằng
cuộc sống cuả họ
vẫn chưa được những điều vừa
ư. Đó là sự đ̣i hỏi một cách quá đáng, khi
chính bản thân họ vẫn đang sống nhờ vào cộng
đồng xă hội. Đáng lẽ thế này, đáng lẽ
thế nọ, toàn những đáng lẽ để phàn nàn
mà không nghĩ ḿnh đang chịu ơn những người
chả hề mắc nợ ḿnh, họ cũng phải một
nắng hai sương đi làm đóng thuế, và nhờ sự
đóng góp cuả họ mà ḿnh được san xẻ.
Trong bữa
tiệc, bác Bích Huệ người Việt cao niên nhất
cuả lớp học, đă làm nguyên một ổ bánh kem thật
lớn, với hàng chữ Tạ Ơn viết thật nắn
nót. Bác tiêu biểu cho một cụ già VN mà c̣n hiếu học,
tinh thần Tạ Ơn và luôn nghĩ đến người
khác đă được thể hiện dài dài trong đời
bác. Gần 80 tuổi, bác vẫn mở lớp dạy làm bánh tại
nhà, không hề nhận một
đồng thù lao để dạy cho các người Việt
trẻ tuổi thích trổ tài nội trợ khi có dịp họp
mặt trong gia đ́nh, hoặc cho những người cần học một nghề
để làm cần câu cơm. Ai cũng ái ngại cho việc
tuổi già vác ngà voi của bác, nhưng bác nói:
"Tôi già rồi,
không đóng góp được ǵ với đời. Bao nhiêu
năm kể từ năm 75, dẫn cả nhà sang đây tỵ
nạn, gia đ́nh tôi đă làm lại từ đầu nhờ
xứ sở này rộng răi mở cửa cho chúng tôi vào. Nay
con cháu đă thành đạt , tôi chịu ơn xứ sở
này và của cuộc đời cũng nhiều, không biết
cách ǵ để trả ơn, thôi th́ đây cũng là một
cách giúp chị em phụ nữ như tôi biết thêm nghề
ǵ hay nghề nấy. Người nội trợ làm các loại bánh ngon cho gia đ́nh thưởng
thức, người đang cần việc làm cũng có thể
làm một nghề mới, tăng thêm ngân quỹ gia đ́nh,
đấy là điều làm cho tôi cảm thấy hạnh
phúc."
Bác có một
tuổi già thật hạnh phúc, tôi luôn nhớ đến những
ǵ bác làm cho mọi người và từ đó tôi nghiệm
ra hai chữ tri ơn cuộc đời của bác. Tháng
chín năm nay, bác đă thênh thang đi về bên kia thế
giới, hành trang mang theo là những ǵ bác đă làm cho mọi
người khi c̣n sống, ngày tang lễ của bác thật
đông người đến đưa tiễn. Trong tấm
ảnh, khuôn mặt hiền từ,
đôn hậu của một cụ già suốt đời
chỉ thích làm việc thiện vẫn nở nụ cười
nhân từ với những bông hồng trắng muốt.
Những
người Mỹ tôi quen c̣n dạy cho tôi một bài học
về sự tự tin và lạc quan trong cuộc sống của
họ. Khi về già, họ không ngồi ta thán sự hẩm
hiu của ḿnh trong bốn bức tường, không bi quan sầu
lụy quá về bệnh tật. Viết đến đây
tôi lại nhớ đến bà Naomi, một phụ nữ
da trắng khuôn mặt tṛn, da nhăn nheo xếp lớp với
thời gian, tuổi già đă làm cho bà nhỏ bé lại
nhưng toàn khuôn mặt toát lên một vẻ yêu đời
tha thiết. Thế mà bà đang bị ung thư thời kỳ
cuối cùng đấy, nhưng tôi không thể nào biết
được người đàn bà cao niên ấy đang
phải chống chỏi với căn bệnh trầm kha
này như thế nào.
Bữa
ăn cuối cùng với bà NaoMi cũng vào dịp lễ Tạ
Ơn, bác Huệ và tôi được mời khi cùng đi với nhóm bạn già của bà NaoMi đến
thăm một nhà dưỡng lăo. Viện Dưỡng Lăo
vào một ngày mùa đông ảm đạm, một cụ
già ú ớ gọi tên hết người này đến
người khác, bà đang lẫn lộn dĩ văng với
hiện tại. Một cụ ông đẩy chiếc xe
lăn cho bà vợ tóc xoă rũ rượi, ông nói:
"Mỗi
ngày, tôi đi bộ 3 miles từ nhà đến đây để
gần gũi vợ tôi, dù bà không nhớ tôi là ai, nhưng
tôi th́ nhớ bà là vợ ḿnh".
Một câu
nói thật hay mà đâu cần phải t́m trong những lời
hay ư đẹp cuả các vĩ nhân trên thế giới.
Chưa hết, tôi gặp một cô giáo già hơn 80 tuổi,
có lẽ bà là ngưởi tỉnh táo nhất trong những
người già ở nursing-home này. Bà luôn miệng ca hát, toàn
những bản nhạc quen thuộc trong muà Giáng Sinh. Tôi hỏi
bà có buồn không khi sống ở đây, bà bảo bà không
thấy buồn, v́ ít ra bà cũng c̣n thấy ḿnh đang hạnh
phúc, tỉnh táo hơn nhiều người khác. Trong phần
văn nghệ giúp vui, bà Nao Mi đóng vai một đứa
trẻ con, bà giả giọng eo éo nên ai cũng phải bật
cười. Bà thích ăn những món ăn VN và hỏi cách
nấu, rồi hỏi tôi về một bài hát Việt Nam bà
nghe được trong nhà thờ, khi tôi hát, bà ư ử
hát theo và khen đây là một bài thánh ca mang đậm đà
tính cách dân tộc.
Vật lộn
với thần chết đến giây phút cuối cùng, lạc
quan yêu đời để lướt qua những cơn
đau là tính lạc quan của bà NaoMi. Một ngày thứ bảy
cùng năm đó, tôi lại
đến dự tang lễ tiễn bà NaoMi trong ngôi thánh
đường êm ả, bà đi về Cơi Vô Cùng với
khuôn mặt có nụ cười thật rạng rỡ.
Những
người bạn cao niên này c̣n dạy cho tôi tinh thần tự nguyện làm công tác xă hội,
không rụt rè v́ khác biệt ngôn ngữ và văn hóa. Bà Linda
gầy g̣ ngày ngày lái xe đến trường tiểu học
để sắp xếp những cuốn sách của các em
học sinh bừa băi trên bàn vào các kệ sách của thư
viện, dạy cho các em học tính ngăn nắp và biết
cách giữ ǵn những cuốn sách. Một hôm đang
lơn tơn t́m gặp cô giáo của con tôi th́ bất ngờ
bị chận lại bởi một giọng trẻ con thật
dễ thương:
"Bà có cần
giúp ǵ không?"
Ôi chao! Chắc
chỉ có xứ sở này trường học mới dạy
cho trẻ con câu hỏi ấy, nó đơn sơ và đầy
t́nh người, được thốt ra từ đôi môi
hồng cuả một cô bé 7,8 tuổi trong ngôi trường
tiểu học, khiến tôi phải suy nghĩ và cảm
động rồi tự hỏi, đến khi nào tôi mới
biết hỏi một ai đó câu này mà giúp đỡ họ.
Đă 20
năm rồi, những kỷ niệm về muà Tạ
Ơn đầu tiên trên nước Mỹ vẫn c̣n nằm
nguyên trong trí nhớ của tôi. Tôi yêu đất nước
này biết bao, một lần trở về chốn cũ ,
khi đi qua công viên có những tàng cây cổ thụ, loanh
quanh trên dốc cỏ xanh, thấp thoáng trong tôi là h́nh ảnh
những người một thời quen biết. Xin cảm
ơn cuộc đời, cảm ơn những tấm ḷng
tử tế mà tôi đă gặp ..
Nguyên
Nhung
(Diễm Trinh sưu tầm và
chuyển)