SU'U TÂ`M 19

Home | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | VA(N | VA(N [tt] | VA(N 1 | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | TA.P GHI 35 | TA.P GHI 36 | TA.P GHI 37 | TA.P GHI 38 | TA.P GHI 39 | LINKS | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | CU'̉'I CHÚT CHO'I | THÚ VI. | CHÚ Ư | CHÚ Ư [tt] | CHUYÊ.N CO^? | CHUYÊ.N CÔ? [tt] | CHUYÊ.N CÔ? 1 | CHUYÊ.N CÔ? 2 | TÀI T̀NH | TÊ'U

TA.P GHI 23

 

 

BƯỚC ĐẦU TỴ NẠN

(Phan Đăng Trúc)

 

 

Vừa nghe ông xă đếm "một", tôi vội đếm "hai", và tiếp theo tôi nghe "ba", "bốn", "năm", và "sáu" lần lượt là tiếng bốn đứa con xướng lên.  Tôi an tâm là mọi người trong gia đ́nh đầy đủ, và sẵn sàng để rời máy bay, xuống phi trường San Francisco.  Cách đếm trên là quy ước chồng tôi đặt ra kể từ chuyến vượt biên đầu tiên, chúng tôi vẫn áp dụng cho đến hôm nay.

 

Lỉnh kỉnh đủ mọi thứ, mặc dầu không có cái nào đáng giá.  Nhưng theo kinh nghiệm bản thân, đó là những thứ rất cần thiết cho cuộc sống hằng ngày.  Với quan niệm, khi nào có cái mới th́ vứt bỏ cũng không muộn.  Vừa lôi giỏ xách, vừa dắt tay cô con gái út, sợ nó lơ đểnh lạc mất, tôi bước theo ông xă rời máy bay.  Ra khỏi hành lang máy bay là mắt tôi đảo nhiều ṿng qua hai dăy người đang đứng chờ đón thân nhân:

- Quái, sao cậu  này biến đi đâu mà giờ này chưa thấy xuất hiện.

Bỗng tôi nghe:

-  Anh Niệm!

Tôi vội vàng nh́n sang, th́ cậu em đang vẫy tay chào.   Tôi cũng đưa tay vẫy, và hô to:

-  Cậu!

Mọi người trong gia đ́nh vây quanh cậu em mừng mừng tủi tủi, và hỏi thăm tin tức mọi người trong gia đ́nh ở Việt Nam, và gia đ́nh cậu em ở Mỹ.  Thằng con trai nhỏ thấy mọi người vui vẻ nên hỏi gạ cậu nó:

-  Cậu mua Coca cola lon uống được không?

Tôi gạt ngang:

-  Mày chỉ có được ăn với uống.

Nhưng cậu em đă đỡ lời:

-  Cái đó ở Mỹ này nhiều lắm, mà rẻ nữa.  Đến đây, cậu mua cho vài lon.

 

Kéo nhau đến mấy dăy ghế dài, cậu em bảo vợ chồng tôi chờ một tí, rồi kéo bốn đứa nhỏ đến máy bán nước ngọt.  Tôi nh́n theo, th́ thấy cậu em móc túi và trao cho mỗi đứa tiền cắc, và chỉ vào máy nước ngọt, để cho mỗi đứa bỏ tiền vào máy, và chọn nút bấm.  Tuy mỗi đứa tự chọn cho ḿnh một lon, nhưng tựu trung, đứa nào cũng cầm một lon Coca cola trở về.  Cậu em cũng không quên lấy thêm hai lon cho tôi và ông xă tôi.

 

Thấy chưa ai muốn uống, hay nói đúng hơn, chưa ai dám uống, v́ nếu như mở lon ra th́ coi như đă mất lon Coca cola,  nên chồng tôi mở lon trước, và ông không quên hối thúc tôi và mấy đứa nhỏ:

-  Uống đi rồi c̣n đi!

Tôi cằn nhằn:

-  Đến nơi rồi, c̣n vội vàng đi đâu nữa?

-  Th́ đi về nhà.  C̣n bao nhiêu việc phải làm, chứ đă hết đâu!

Cậu em tôi đỡ lời:

- Từ từ cũng được,  em có nhiều th́ giờ mà!  Em xin nghỉ một tuần để thu xếp mọi việc cho anh chị.

 

Thấy tôi mở lon, mấy đứa nhỏ cũng móc móc, nạy nạy, rồi kéo kéo.  Một đứa sơ ư, khi kéo cái khoen lon nước ngọt bật ra, đă làm đổ nước ngọt trên sàn.  Tôi tỏ vẻ lo âu, cậu em nói:

-  Không sao, để em nhờ họ lau sạch là xong.

Thấy một người đẩy xe làm vệ sinh đi ngang, cậu em tôi ra chỉ tay nói ǵ đó, người kia xách cây chổi lại, đẩy hai đường, không c̣n vết nước ngọt nào sót trên sàn nhà.  Uống xong, chúng tôi kéo nhau ra nơi đậu xe.  Cậu em, lúc vào phi trường hơi trễ,  vội vă, không để ư nơi đậu xe, nên mất chừng năm phút sau mới t́m ra được nơi xe đậu.  Vừa lên xe xong, một đứa bé đă hỏi:

-  Sao xe nào cũng bảng số bằng kẽm, mà xe cậu bảng số bằng giấy, mà lại viết chữ đỏ?

Cậu em được dịp nói đùa:

-  Xe đặc biệt để chở mấy đứa cháu đó mà!

 

Nh́n qua phi trường, nh́n nơi đậu xe, nh́n quang cảnh người người qua lại tấp nập, náo nhiệt và đồ sộ quá, tôi tự hỏi, làm sao ḿnh có thể có được cuộc sống như họ?  Chừng nào ḿnh có thể ḥa đồng vào nhịp sống mới này, với gia tài chúng tôi lúc bấy giờ chỉ có mười hai đô la trong túi?  Trước khi đến Mỹ, chúng tôi cũng đă có thời gian gần một tuần dạo phố Singapore, để mua sắm mỗi người một bộ quần áo cần thiết, nhưng nh́n lại cách ăn mặc của ḿnh, vẫn khác hẳn thiên hạ.

 

Khi mới xuống phi trường, người Mỹ nói ǵ tôi không nghe được, mặc dù ở đảo khi test Anh văn để xếp lớp học, tôi và đứa bé gái đầu ḷng, được xếp lớp E, có nghĩa là chỉ thua lớp cao nhất một bậc, lớp F hay lớp Teacher Aid.  Hồi đó trông những người làm Teacher Aid gồ ghề quá.  Thấy mấy ổng đứng bên cạnh các thầy giáo Anh văn của Indo, dịch và giải nghĩa lưu loát quá.  Tôi cũng rất ngạc nhiên khi tôi được xếp lớp E.  Tôi chỉ cầu cho được lớp C, là lớp chỉ phải học Anh văn ba tháng trước khi đi Mỹ.  C̣n những ai học lớp B và lớp A phải học đến sáu tháng.  Chà! Thêm ba tháng ở đảo nhiều trục trặc,  ai đâu biết được.  Đi định cư sớm vẫn chắc ăn hơn.

Thằng con trai lớn th́ cũng may, nó được xếp lớp C.  Trong lớp nó, toàn là người lớn tuổi, chỉ có một ḿnh nó là trẻ con được học lớp người lớn.

 

Số là, trước khi đi thi xếp lớp, ông xă tôi đi ḍ la xem các thầy dạy Anh văn thường hỏi những câu ǵ.  Khi biết được họ chỉ hỏi những câu thông thường như:  Tên họ, mấy tuổi, có gia đ́nh chưa?  Bao nhiêu con?  Trước kia ở Việt Nam làm ǵ?  v. v ..  Rồi ông xă tôi soạn một số câu sẵn, bắt tôi và mấy đứa nhỏ học thuộc ḷng.  Thế là tôi và mấy đứa bé vô trúng tủ.

 

C̣n thằng con trai nhỏ, khi đến lớp học Anh văn bằng máy băng nhựa, nó mượn cuốn Stream Line.  Nghe một hồi chán, nó xách sách chạy tới chạy lui.  Mấy người lớn tuổi trợn mắt kinh ngạc hỏi:

-   Con nhà ai, c̣n nhỏ mà sao học giỏi thế?

V́ ở đảo mà nghe được tape cho sách Stream Line, phải là thứ chiến số một.

Một hôm, nó đi học về.  Tôi hỏi nó:

-  Hôm nay con học được ǵ?

Nó trả lời ngay:

-  Sú gơ,  Nô thẹnk.

Tôi hỏi ông xă tôi, nó nói ǵ vậy?  Ông xă tôi cũng lắc đầu.

 

Kêu nó lại hỏi kỹ, th́ mới biết ra là: Trong bài học, một người hỏi người kia, uống cà phê có cần đường không? (sugar ?), và người kia trả lời là:  Không, cảm ơn  (No, thank).  Một bữa khác, nó đi học về, và hỏi liền em nó, cô con gái út mới hơn mười tuổi:

-  Coffee shop là ǵ?

Cô bé trả lời ngay không ngần ngại:

-   Coffee shop là Cà phê có đường.

 

Ở barrack tôi, barrack 87, phần lớn là những người trong nhóm vượt biên cùng tàu, chiếc tàu mang số Minh Hải MH-0332, đều là người lớn tuổi.  Họ phải học Anh văn trong thế chẳng đặng đừng, nên họ cố gắng t́m cách nào dễ nhớ, để cố nhét những thứ khó nuốt ấy vào cổ họng, vào óc.  Họ cố t́m những cách không phải vận động trí óc nhiều.  Những phát minh tài t́nh mà ít ai ngờ được như:  Những ngày trong tuần lễ từ Thứ hai đến chúa Nhật th́ họ đọc vanh vách không cần suy nghĩ:

- Mâm đây     :  Monday

- Xá xíu đây   :  Tuesday

- Nem đây      :  Wednesday

- Thớt đây      :  Thursday

- Phai đây       :  Friday

- Xáp lại đây  :  Saturday

- Xơi đi           :  Sunday

Cách học  này quá dễ nhớ, nên được phổ biến lan rộng trong trại kể từ đó.

 

Chúng tôi được chuyển vào Galang 2 để học Anh văn được vài tuần, th́ đùng một cái, ông xă tôi bị thủng bao tử.  Người ta phải chuyển ông đến một đảo lớn hơn, có bịnh viện hải quân, đảo Tanjung Pinang, để mổ.  Tôi phải theo nuôi chồng, bỏ mặc bốn đứa con ở lại đảo Galang.  Sau khi mổ xong được hơn một tuần lễ, họ cho chồng tôi về lại bịnh xá Galang 1 để tiếp tục điều trị.  Trong bản tường tŕnh kết  quả giải phẩu, bác sĩ Nam Dương nói chồng tôi cần phải được mổ lại tại quốc gia định cư, nên bác sĩ Mỹ chấp thuận cho đi định cư sớm hơn thường lệ để chữa bịnh, nghĩa là chúng tôi rời đảo trước khi măn khóa học Anh văn.

 

Chúng tôi được nghỉ xả hơi vài ngày th́ cậu em đưa đến cơ quan bảo trợ làm giấy tờ.  Khi nghe loáng thoáng người phỏng vấn nói big family, tôi lại lo sợ không biết chuyện ǵ đây.  Khi ra về, tôi hỏi ông xă, có ǵ trở ngại không mà ông ta nói big family.  Ông xă tôi nói:

-  Gia đ́nh ḿnh có sáu người, đối với người Mỹ là đông con.  Không có ǵ trở ngại đâu.

Về nhà tôi hỏi lại cậu em:

-  Ông Đa-Nen khi năy ổng nói ǵ vậy?

Cậu em hỏi lại:

-  Ông Đa-Nen nào?

- Th́ cái ông phỏng vấn đó chứ c̣n ông nào nữa!

- À, ông Đe-Nhồ đó phải không?

- Tôi nh́n thấy bảng tên trên bàn ông ta là D-A-N-I-E-L, đó mà.

-  Ổng dặn anh chị là, hội cấp cho gia đ́nh anh chị đủ tiền ăn 45 ngày.  Sau 45 ngày th́ đi xin welfare ở sở xă hội.  C̣n sức khỏe anh Niệm, đang đau bao tử, có thể đi xin medi-cal ngay bây giờ.

 

Ngày hôm sau, vợ chồng con cái kéo đến sở xă hội thành phố San Bruno, San Francisco, xin đơn, điền và ngồi chờ.

Đến lượt chúng tôi, bà Mỹ đen ra tiếp.  Bà ta hỏi:

-  Ông bà có yêu cầu ǵ?

Ông xă tôi tŕnh đơn và trả lời:  Muốn xin thẻ khám bịnh.

Bà ta hỏi:

-  Hồi trước ông bà làm ở đâu?

Chồng tôi trả lời là ở Việt Nam.

Bà ta hỏi:

-  Ông bà hiện làm ǵ để sinh sống?

Chồng tôi trả lời, chưa làm ǵ cả, v́ mới ở trại tị nạn sang.

- Vậy gia đ́nh ông bà lấy ǵ sinh sống?

-  Cơ quan từ thiện cho chúng tôi tiền ăn 45 ngày, và dặn sau 45 ngày th́ đến đây xin trợ cấp.  Chồng tôi trả lời.

-   Giấy tờ xin trợ cấp phải mất 45 ngày mới có kết quả.  Nếu đợi đến ngày đó th́ trễ, ông bà nên xin ngay bây giờ.

Nói xong, bà ta đi lấy thêm giấy tờ, và hướng dẫn cho chúng tôi điền đơn.

 

Điền xong, chúng tôi ra phía ngoài ngồi chờ để lấy biên nhận.  Chúng tôi mừng thầm là gặp người tốt, chỉ dẫn đến nơi đến chốn.  Nếu đợi đến 45 ngày sau mới đi xin, thế nào cũng trục trặc.  Nghĩ ra ḿnh cũng hên.

 

Niềm vui chưa vơi th́ nhà cửa th́nh ĺnh rung động.  Tôi thấy một số người chui xuống bàn.  Tôi không biết ǵ, mới hỏi ông chồng.  Cái ǵ vậy?

Ông xă trả lời:

-  Động đất.

Thật hú hồn!  May mà ḿnh không biết trước.

 

Ông xă tôi kể lại trận động đất lớn ở Phi Luật Tân.  Ông ta và người bạn đang ngồi xem xi nê ở trên lầu, thấy cả từng lầu chao đảo.  Một lần khác, ông ta đang ở trên tàu thủy, thấy như có tàu nào đụng, rồi tàu lắc như gặp sóng.

 

Nghe động đất là tôi lo sợ.  Sao đời ḿnh lúc nào cũng bị đe dọa.  Tưởng đến đây là được an toàn, nhưng lại bị cái nạn động đất.  Hồi c̣n trên máy bay từ Nhật sang Hawaii, nửa đêm,  đang bay giữa Thái B́nh Dương, tàu bị trở ngại máy sao đó, phải báo động mang áo phao.  Bốn đứa con tôi ngủ như chết, không hay biết ǵ.  Tôi th́ lo quá!  V́ nghĩ, không xong rồi.  Giữa đại dương th́ chỉ làm mồi cho cá mập.  Các cô chiêu đăi viên th́ đứng chực hai bên các cửa "cứu cấp".  Vợ chồng tôi lấy phao mặc cho bốn đứa bé, rồi đặt chúng chung vào một chỗ, để có ǵ, dễ lôi đi.  Nh́n chung quanh, vẻ mặt người nào cũng lo âu.  Người th́ lần chuỗi, miệng lâm râm cầu nguyện, người th́ chắp hai tay trước ngực,  mắt tuy nhắm, nhưng không dấu được nét mặt căng thẳng.

 

Máy bay nhồi lên nhồi xuống chừng ba mươi phút mới giữ lại được thăng bằng.  Các cô chiêu đăi viên rời các cửa khẩn cấp, đi pha cà phê nóng, mời khách để trấn an tinh thần.  Hỏi th́ không ai biết lư do.

 

Trên đời này,  đâu có ǵ là an toàn.  Chồng tôi và mấy ông bạn hải quân và không quân ngồi đấu láo nhau, và cho rằng đi tàu thủy an toàn hơn.  Nhưng khi tôi xem phim tàu Titanic ch́m th́ kinh khủng quá.  Và nghe nói vụ Hộ tống Hạm Nhật Tảo HQ10, nhân viên thoát hiểm, ở trên bè nổi hàng bốn năm ngày.  Có người cả tuần lễ lênh đênh trên biển cả, làm sao họ sống nổi?  Rồi mấy ông lại tự an ủi cho ḿnh rằng:  Ḿnh đi đánh giặc bằng tàu bay,  tàu thủy, mấy anh em bộ binh phải lội śnh thật tội nghiệp.

 

Một ông khác th́ cho rằng, mỗi người  có một cái số:  số đẻ trên giường, số đẻ trên tàu, số đẻ lọt (chưa kịp đến nhà thương đă chui ra), số đẻ non, số đẻ trâu (dư tháng),  số đẻ bọc điều ..  Nói tới đẻ bọc điều, th́ những người đẻ bọc điều mà tôi biết, đều có số sướng hơn người khác.  Một ông trung úy hải quân, trước 30 tháng 4, 1975, đă có lệnh thuyên chuyển đi giang đoàn, nhưng bị chiến hạm câu thêm một chuyến công tác Phú Quốc, v́ thế nên 30/4/75, tàu ra khơi đi Phi Luật Tân, ông ta ở trên tàu đi xuất ngoại luôn, khỏi phải chạy giặc như những người khác.

Mấy người bạn tôi nói:  Như vậy, những người đi Mỹ trước 30/4/75 đều là những người đẻ bọc điều ?  Ai mà biết được.  Nhưng họ có số may như vậy, ta cứ coi như họ đẻ bọc điều đi.

 

Riêng tôi, không biết đẻ bọc ǵ, mà số phận hầu như gắn liền số phận của ông chồng.  Chồng đi cải tạo th́ ḿnh khổ chẳng thua ǵ cải tạo.  Nhiều khi không có cháo cho con ăn.  Khi đi vượt biên thất bại, th́ bị nhốt tù ở An Biên cả tháng trường mới được thả ra, nhờ có con nhỏ.

 

Những ngày đầu tiên ở Mỹ khá chật vật, v́ chẳng lẽ mỗi chút là hỏi mượn tiền cậu em.  Một hôm cậu em chở chúng tôi ra công viên chơi, thấy người ta vứt lon nước ngọt nhôm nhiều quá, chồng tôi nảy ra ư kiến đi nhặt lon nhôm để bán, nhưng không biết nơi nào người ta mua.  Nhờ cậu em t́m hỏi, th́ tiệm Safeway mua giá một xu một lon.  Trưa chủ nhật, tôi bảo cậu em chở hai thằng bé thả xuống công viên với một số bao nylon lớn để nhặt lon nước ngọt vứt bỏ trong công viên.  Sau hai giờ, cậu em trở lại chở chúng về, rồi chở ra Safeway, chồng tôi bán được 16 đô la.  Hai thằng bé chia tiền nhau ra mua kem, mua nước ngọt, chia cho chị và em gái.  Ngày trước ngày sau đă tiêu mất toi 16 đô la.

 

Theo thời gian, rồi đâu cũng vào đấy, cậu em t́m mướn cho được căn nhà hai pḥng ngủ, giá 450 đồng, trong khi tiền xă hội cho sáu người trong gia đ́nh được hơn 700 đồng.  Hai trăm rưỡi c̣n dư lại là mua thực phẩm.  Cậu em tôi nói, 250 đồng cho sáu người th́ dè xẻn lắm mới đủ, v́ thế mỗi khi cậu ấy lănh lương là dúi cho tôi một ít tiền.  Riêng tôi, 250 đồng là đủ rồi.  Ḿnh chịu khó tiện tặn là được.  Mỗi lần đi chợ Lucky, cả nhà cùng rủ nhau đi cho vui.  Cùng nhau đi bộ, mặc dù có tuyến đường xe bus trên đường El Camino Real, giá 35 xu cho mỗi người một lượt đi.  Chúng tôi chịu khó đi bộ nửa giờ là tiết kiệm được $2.10,  v́ 35 xu một người, sáu người vị chi là $2.10.  Nếu tính cả đi và về, chúng tôi tiết kiệm được $4.20.  Đi chợ thời ấy, với hai mươi đồng, chúng tôi được ba bốn bị thức ăn, chia nhau ôm đi bộ về nhà.

Tiết kiệm thức ăn th́ được, nhưng không tiết kiệm được hơi đốt.  Tuy đến Mỹ đă vào cuối tháng ba, nhưng vùng San Francisco luôn luôn có gió, người Miền nhiệt đới mới đến luôn luôn thấy lạnh.  Máy sưởi ở nhà, được ông xă tôi đẩy lên tối đa.  V́ máy sưởi ở đây chỉ sưởi ấm pḥng khách, nên ban đêm chúng tôi trải drap ở pḥng khách ngủ cho ấm.  Cậu em đến nhà thấy nóng, lại hạ nhiệt độ xuống 60 độ, và bảo:

-  Anh chị để nhiệt độ cao tốn tiền hơi đốt nhiều lắm.  Hơn nữa, nóng quá, làm mũi chảy máu.

Tuy thế, khi cậu em ra về, tôi lại khẽ  bảo ông xă vặn lại nhiệt độ cao hơn.

 

Rồi bốn đứa nhỏ xin được vào trường học.  Hai đứa lớn vào trường trung học Capuchino.  Hai đứa nhỏ vào trường cấp trung Lomita.

 

Đứa bé gái lớn học giờ PE, bị giáo sư PE kỳ thị, ép buộc con bé xuống hồ bơi vào buổi sáng như những học sinh khác.  Con bé không chịu lạnh được, nhưng ông giáo sư vẫn bắt buộc con bé xuống hồ.  V́ lạnh quá, con bé về nhà đau mấy hôm, và cứ thấy hồ nước là sợ.  Chồng tôi bực quá, đến t́m ông thầy PE, căi lộn với ông ta.  Ông ta nói rằng, tất cả học sinh làm được, th́ con ông cũng phải làm được.  Chồng tôi lư luận rằng, chúng tôi là dân xứ nhiệt đới, không chịu lạnh như dân xứ ôn đới các ông.  Ông thầy nói rằng, nếu con ông không chịu khó, th́ làm sao có thể quen được.  Chồng tôi tức quá mới hỏi ông ta rằng, ông có dám ra bất cứ mặt trận nào để đánh giặc như  những người lính không.  Ông giáo không trả lời, nhưng vẫn giữ nguyên quyết định là bắt con tôi phải xuống hồ bơi mỗi sáng vào giờ PE.

 

Chồng tôi vào gặp ông hiệu trưởng tŕnh bày sự việc.  Ông hiệu trưởng nói trời đă vào xuân, không c̣n lạnh nữa.  Chồng tôi phải cương quyết trả lời rằng, nếu ông hiệu trưởng vẫn bắt buộc, chúng tôi sẽ đi xin trường khác học, với lư do các ông ép con chúng tôi xuống hồ nước lạnh vào buổi sáng.  Cuối cùng ông hiệu trưởng chấp thuận cho miễn giờ bơi trong giờ PE cho đứa bé gái chúng tôi.  Tuy là họ phải chiều theo yêu cầu của chúng tôi, nhưng trong tâm tư họ vẫn có mặc cảm với các con của chúng tôi.  Nhưng dù sao th́ bài toán cũng đă giải quyết được, khi chúng tôi quyết định dời nhà sang miền đông, vùng Virginia, nơi mà những người Mỹ đă hiểu biết nhiều về phong tục tập quán, và những suy nghĩ của người Việt Nam.

 

 

Tuy kim đồng hồ nhảy chậm, nhưng mới đây mà mười tám năm đă thoáng qua.  Trong ngày lễ Tạ ơn năm ngoái, con cháu đă tụ họp về mái nhà nhỏ của chúng tôi ở vùng Annandale thăm bố mẹ, cô con gái út, theo chân các anh chị, cũng đă hoàn tất đại học gần ba năm nay, hiện làm cho bịnh viện NorthRidge Hospital Medical Center , ở nam California, cháu nói:

"Năm rồi, con trở lại thăm trường cũ Lomita ở San Bruno.  Hồi trước con thấy nó to lớn làm sao, mà bây giờ trông nó nhỏ quá".

Tôi trầm ngâm, "quả thực các con chúng tôi đă trưởng thành, c̣n vợ chồng chúng tôi th́ đă già rồi".  Tôi nói:

"Các con nhận ra điều đó là tốt.  Các con nay đă nên người, và có một cuộc sống không kém ǵ người dân địa phương ở đây là cũng nhờ vùng đất hứa này, nhờ dân tộc này, đă mở rộng ṿng tay chào đón chúng ta.  Mười hai đô la ngày hôm nay chỉ đủ để các con vào ăn ở tiệm fast food, nhưng mười tám năm về trước, nó là gia tài của bố mẹ đùm bọc các con trên đường đi định cư.  Các con dù bôn ba công việc đến đâu, vào ngày này mỗi năm, nên cố gắng về đây, để tưởng nhớ, để tạ ơn vùng đất hứa này, tạ ơn dân tộc này, đă dành cho các con một chỗ đứng để xây dựng cuộc đời".

 

Giờ đây, ngồi nghĩ lại quá khứ, tôi không khỏi tự hỏi,  làm sao mà chúng tôi vượt qua được những khó khăn lúc ban đầu.  "Vạn sự khởi đầu nan" kia mà!  Nào học Anh văn, học cách hội nhập đời sống, học lái xe, học việc, học xin việc, ngôn ngữ bất đồng, kỳ thị,  v. v ..  Nghĩ cho cùng, những khó khăn đó, nguyên nhân cũng chỉ tại bọn đang cầm quyền ở Việt Nam hiện nay.  Cái khó khăn ở xứ người, chúng tôi  có thể giải quyết được,  c̣n cái khó khăn ở xứ ta, ḿnh phải tránh né bỏ chạy. 

 

Vậy chừng nào chúng ta mới quay trở về quê hương được?  Lạy trời cho chúng sớm tiêu tan.

 

 

Phan Đăng Trúc -Virginia

 

(T.C.H. sưu tầm và chuyển)

 

website counter