Miền đất trầm hương
(TRẦM HƯƠNG)
Tác
giả Trầm Hương, tên thật Vũ Thị
Thanh Mai, người gốc bắc, gia đình di
cư vào Nam năm 1954. Tác giả là cựu
nữ sinh Saint Exupéry và Chu Văn An, vượt
biên năm 1979, tạm trú tại tỵ nạn
Paulau Bidong trước khi định cư tại Hoa Kỳ.
Trầm Hương hiện là kỹ sư điện
toán và đang làm việc tại California. Dựa
theo bút hiệu và cách đặt tựa,
tùy bút Miền Đất Trầm Hương
có lẽ là một trong những tùy bút
đầu tiên của tác giả, được
viết xong vào tháng 4 - 2009, phổ biến trong
vòng thân hữu, bạn học trước khi
đăng trên nhiều tạp chí, và sau
đó, đã được đài VOA gởi
đến thính giả qua giọng đọc nhẹ
nhàng của Hồng Vân. Tùy bút kể lại
những ngày tháng đầu tiên ngỡ
ngàng, khó khăn mà tác giả
đã đối diện ở xứ người. Ngọn
núi khó khăn của cuộc đời tỵ nạn
lại càng cao hơn khi người anh, chỗ dựa
duy nhất của tác giả lúc bấy giờ cũng
bị tai nạn. Nhưng trong thời điểm tưởng
chừng như tuyệt vọng đó tác giả
đã ý thức rằng, khi sau lưng không
có lối quay về, chọn lựa duy nhất của
chị là phải vượt qua những chông gai trước
mặt. Và tác giả đã vượt qua,
để rồi nhiều năm sau có được
một cuộc sống ổn định và tìm
được sự an vui, thanh thản không chỉ
trong đời sống tinh thần trên vùng đất
mới mà còn được sống lại những
kỷ niệm đẹp của tuổi học trò
trên quê hương yêu dấu ngày
nào.
***
Ngày bốn chị
em tôi đến phi trường Houston, Texas, anh Bằng
ra đón chúng tôi. Tôi đã ngỡ
ngàng khi trông thấy anh. Người anh cả của
tôi đã mất dáng vẻ của một cậu
công tử được bố mẹ nuông chiều,
tóc anh để dài hơn trước nhiều,
gương mặt gầy guộc hẳn đi, ánh mắt
hòa nhã, không còn một chút khó
khăn và bướng bỉnh của ngày xưa.
Anh tiến về chúng tôi, tươi cười
gọi tên. Anh tôi mừng rỡ được gặp
lại người thân sau hai năm xa cách,
còn tôi mừng rỡ hơn vì có thể
trả chức vụ con chim đầu đàn lại
cho anh. Khi anh lại gần, tôi mới để
ý có vài người thanh niên theo sau
lưng anh. Thì ra, anh Bằng ở nhờ gia
đình người bạn không tiện cho
chúng tôi về, nên đã nhờ hội
nhà thờ giúp đỡ. Hội có một
căn nhà cho những người lỡ đường
tạm trú gọi là Half-way House, một trong mấy
anh đi theo là con của người phụ
trách.
Half-way House rất
có tổ chức. Dì Huỳnh là người
phụ trách, mỗi ngày sáng đến tối
về. Ở đó tạm trú ngụ hai gia
đình và một số thanh niên, công việc
đi chợ nấu nướng vệ sinh được
phân ra rõ ràng, còn có một người
đàn bà Mỹ đến dạy Anh Văn ba lần
một tuần. Tôi và hai đứa em gái
được một phòng, còn đứa em trai ở
chung phòng với một người thanh niên. Mọi
người ở đó đều thân thiện
và tốt bụng. Thỉnh thoảng, các anh chị
đã từng tạm trú ở đây trở
về xem có gì cần giúp. Chỉ trong thời
gian ngắn chúng tôi đã quen và
được tự nhiên, nhưng tạm trú
được bao lâu và sau này sẽ về
đâu, chúng tôi tính không ra. Anh Bằng
làm lương rất thấp, chỉ có một
chút tiền dành dụm, còn mấy đứa
chúng tôi thì chỉ biết có vài chục
chữ Anh không biết làm gì để kiếm
tiền.
Anh Bằng rất
bận rộn nên ít có thì giờ đến
thăm chúng tôi. Mỗi sáng, anh dậy
lúc 4 giờ sáng để giúp gia
đình người bạn đi bán tôm rồi
mới đi làm cho đến tối ở một tiệm
tạp hóa. Bán hàng ở các tiệm tạp
hóa rất nguy hiểm, thường xuyên bị
cướp vì mỗi phiên chỉ có một
người bán hàng mà lại nhận tiền
mặt. Anh Bằng chở chúng tôi ra tiệm một
lần cho biết, đến nơi anh làm cho mỗi
đứa một cái hamburger to ơi là to,
và trong lúc chúng tôi ăn thì anh
đi chùi sàn nhà. Tôi còn nhớ
cái cảm giác đau lòng lần đầu
thấy anh làm công việc này, lại chạnh
lòng nghĩ đến sự vất vả của anh
trong mấy năm qua mà anh không hề kể trong
thư từ. Có lẽ tôi vẫn chưa quen
được con người "mới" của anh.
Tôi còn nghĩ nếu mẹ tôi có mặt,
chắc bà sẽ khóc.
May mắn thay, ở
Half-way House được hơn ba tháng thì
chúng tôi nhận được thư của
bác Hải là bạn của bố mẹ tôi
hỏi có muốn về Cali ở với gia
đình hai bác. Không suy nghĩ nhiều, anh Bằng
xin thôi việc, còn chúng tôi báo tin với
dì Huỳnh. Mọi người gíúp
chúng tôi nắm cơm, luộc lạp xưởng
để mang theo trong mấy ngày đường.
Dù chỉ là vài tháng chung đụng, sự
từ giã cũng mang nhiều xúc động.
Ân tình của những người quen biết
sơ giao này tôi không bao giờ trả nổi.
Cali là nơi
chúng tôi thực sự bắt đầu cuộc
sống mới. Gia đình hai bác Hải còn
có chị Hằng, chị Thủy, anh Sơn và Dũng.
Còn anh Giang ở Washington chỉ mùa hè mới
về. Mọi người đều rất tốt bụng,
giúp chúng tôi xin trợ cấp, tìm trường
dạy Anh văn cho những người thành niên
trong khi chờ niên khoá học mới. Anh Bằng
thì tìm được việc làm ở một
tiệm tạp hóa khác. Ở được
vài tháng thì một chung cư gần căn của
bác Hải bỏ trống. Hai bác điều
đình với chủ nhà cho chúng tôi
thuê với giá phải chăng. Chủ nhà
là một giáo viên, thấy có một
đám con nít nên cũng dễ dãi.
Và chúng
tôi dọn vào căn nhà đầu tiên của
riêng anh em tôi. Nơi phải đến là
đây. Gần hai năm trôi nổi qua ba đại
dương, sóng to gió lớn, đã nhờ
không biết bao nhiêu người hảo tâm
quăng phao cho chúng tôi bám víu để
đến được nơi định mệnh
đã an bài cho chúng tôi. Căn nhà rộng
rãi có hai phòng ngủ dự trù vừa
đủ dùng cho tám anh em vì còn vài
tháng nữa thì thêm bốn đứa em nhỏ
của chúng tôi sẽ đến. Anh Bằng chỉ
mua một ít đồ dùng cần thiết,
còn thì mượn đỡ của bác Hải,
hoặc là đợi có ai vứt bỏ thì
nhặt về. Mỗi lần anh tôi chở một
món đồ nhặt về, là chúng tôi
hân hoan xúm lại xem xét. Tôi còn nhớ
sự mừng rỡ khi nhìn thấy có một tấm
nệm cũ kỹ loang lỗ đặt trong phòng,
anh Bằng cho biết là vừa nhặt được
và nhường cho mấy đứa con gái
dùng. Món quý giá nhất là tượng
Phật Thích Ca bị bể ở cổ, anh dùng
keo dán đầu tượng Phật vào thân
và chúng tôi hân hoan đặt một
bàn thờ nhỏ. Bàn thờ là nơi
nương tựa tâm thần của tôi. Cuộc
sống hằng ngày có những trắc trở
không biết đương đầu, không biết
hỏi ai, tôi thường quỳ trước bàn
thờ xin bình yên, xin ngài che chở cho anh em
chúng tôi.
Cuộc sống
như đã tạm ổn định. Dù tôi
hiểu là chúng tôi đã rất may mắn
được an toàn đến nơi đây,
được có phương tiện căn bản
để bắt đầu gầy dựng cuộc sống
mới, nhưng trong lòng tôi vẫn chưa chấp
nhận được hiện thưc, vẫn còn muốn
trở về chui rúc trong sự đùm bọc của
bố mẹ tôi. Có lẽ khi tôi xa nhà
lúc mới lớn chưa hề va chạm với cuộc
đời, lại không có chuẩn bị tâm
lý gì, mà con đường vượt
biên là triền miên thử thách, đi
chưa ra khỏi hải phận Việt Nam thì
tôi đã muốn quay về, nhưng rồi
tôi càng bị đẩy đi xa hơn. Nơi
đến như là chỗ tận cùng của
xã hội, ở đây thân thế tôi
như thua sút hết mọi người chung quanh, từ
những người quen biết cho đến những
người gặp gỡ qua đường. Tôi
còn nhớ được một chị bạn mời
đi dự đám cưới, nghe các chị
khác khoe mua áo đầm đắt tiền để
đi dự, tôi đã ái ngại từ chối,
chị bạn không hiểu được sự
khó khăn của tôi nên giận tôi
đã không nể mặt. Rồi có hôm
tôi đang đi bộ đến trường
thì một thanh niên Mỹ đi xe gắn máy
chạy ngang đã cố ý nhổ vào người
tôi, tôi đã nhỏ nhoi đến không
còn phản ứng, chỉ lặng lẽ chùi
đi vết bẩn rồi tiếp tục bước
chân. Tôi không nhớ được hết những
gì đã xảy ra để khiến tôi biến
thành tự ti, chỉ nhớ rằng mình
đã tránh quen người mới, tránh gặp
lại người cũ, không muốn trải qua
và không muốn ai thấy tôi trải qua những
cảm giác ái ngại gì. Cái tôi
thường ước ao là được trở lại
quá khứ, được thức dậy trong căn
phòng thưở nhỏ của tôi, và những
chuyện xảy ra trong gần hai năm qua chỉ là
một ác mộng.
Yên ổn
chưa được được bao lâu thì
anh tôi gặp tai nạn lúc đang làm việc
trong tiệm tạp hóa. Thì ra lúc tuyệt vọng
nhất trong cuộc đời của tôi không phải
là lúc tôi đói khát ở trên tầu
nhìn xuống mặt nước, bâng khuâng
không biết là bao sâu, bao xa. Tai nạn
quá to lớn, mỗi việc có thể làm
đều ngoài sức của tôi, không biết
xin ai cứu giúp anh tôi, tôi quỳ mãi
trước bàn thờ, rơi không biết bao
nhiêu nước mắt. Tôi biết Đức Phật
sẽ không cho tôi câu trả lời gì,
tôi chỉ là không hiểu tại sao những
việc không may lại xảy đến cho chúng
tôi và muốn kể ra những ấm ức ở
trong lòng. Cái cảm giác tuyệt vọng
đó khiến tôi mệt mỏi làm một
người với không chút khả năng
kháng cự, nhưng có lẽ cũng là động
lực thúc đẩy bản năng sinh tồn của
mình. Rồi tôi hiểu ra được dù
có thể gặp lại, bố mẹ sẽ già
đi, sẽ không thể đùm bọc chúng
tôi nữa. Đã đến lúc tôi phải
buông bỏ cái quá khứ mà tôi
không thể trở lại, cái Tôi mà bố
mẹ đã cho và gây dựng cái Tôi
thực sự của chính mình.
Trong tiềm thức
tôi tất cả những lưu trữ của
quá khứ dần dần trở nên phai nhạt.
Thỉnh thoảng một số hình ảnh hiện
rõ trong thoáng chốc rồi lại mờ đi,
không còn đủ sức sống động
để gây xôn xao lòng mình. Khi mặc cảm
xảy ra, tôi không còn so sánh với
quá khứ để buồn, tôi tự nhủ
đây chỉ là những cảm giác tạm
thời, sẽ không xảy ra trong tương lai
mà tôi đang đi đến. Một chút
tâm lý đó đã đem đến cho
tôi đủ hy vọng khiến lòng tôi
bình yên hơn khi gặp phải khó khăn.
Rồi tôi miệt
mài đi về hướng tương lai, cứ
đi như vậy đã được mấy
mươi năm. Tôi đã thích nghi
được với cuộc sống ở đây
và đã biết cảm kích những thử
thách đã giúp tôi trưởng
thành. Thỉnh thoảng tôi nghĩ về thuở
nhỏ, nhưng vẫn như vậy, những kỷ niệm
cũ như không còn tác dụng lên cảm
xúc của tôi. Mãi cho đến mùa
hè năm ngoái, tôi đã nhận
được email của Trúc cho biết có một
người tên Trần Trí Hoàng đang
tìm tôi. Hoàng là một người bạn
cùng lớp 10 ở Chu Văn An, cách đó
không lâu đã cùng những bạn
khác lập một web site cho nhóm Pháp Văn
Chu Văn An, và muốn tìm lại những bạn
cũ để tham gia. Những phút đầu
nói chuyện với Hoàng, cũng như lúc
được các bạn cũ và mới trong
nhóm chào đón, tôi đã có
chút bỡ ngỡ, nhưng chẳng mấy chốc, sự
nhiệt tình của họ đã khiến
lòng tôi được cởi mở và ấm
áp. Họ nhắc lại cho tôi nghe những chuyện
vui cũ, khơi lại một số ký ức
đã dấu rất sâu trong tiềm thức của
tôi, và cái khoảng cách mấy
mươi năm đã biến mất rất mau giữa
chúng tôi. Mỗi buổi sáng mở mailbox,
đọc những email của nhóm Chu Văn An gửi
ra, lòng tôi rộn ràng như cô bé 16
tuổi trong sân trường, nghe bạn bè
đùa nghịch cãi cọ chung quanh. Một phần
quá khứ mà có lúc tôi khờ dại
cố quên đi đã trở lại và mang
đến nhiều niềm vui nhỏ trong lòng
tôi. Tôi mộng mơ thấy mình chạy xe
trên những con đường Sài gòn
cùng với những bạn bè khác nhau,
chúng tôi rượt đuổi nhau qua nhiều con
phố, trên đường có hai hàng cây
to và rất nhiều lá cây bị gió thổi
nhẹ rơi trên người chúng tôi, trời
đang nắng gắt chuyển sang mưa to đem lại
rất nhiều mầu sắc cho những trái tim non
không biết sợ trời đất, chúng
tôi đã ướt lạnh nhưng vẫn tiếp
tục đi. Đi một lúc thì về lại một
ngôi trường cũ, chúng tôi vào lớp
học, yên lặng ngồi xuống cạnh nhau
trên chiếc ghế dài đã hư hao,
trên bàn là những hoa bướm thoảng
hương, những bài thơ đầy cảm
xúc của tuổi mới lớn. Tôi đã
ngồi như vậy rất lâu cảm nhận lại
tình bạn nhẹ nhàng trong sáng giữa
chúng tôi, cảm nhận lại những khoảnh
khắc vui buồn, bối rối chúng tôi
đã cùng trải qua. Cơn mơ đi qua
nhưng những cảm giác đó vẫn
còn ở lại, tôi đã tìm lại
được tôi trong tuổi hoa niên.
Mùa xuân
năm nay như rất đẹp và trọn vẹn.
Tôi đã có được tương lai
mà mình đi tìm và có lại
được một phần quá khứ thân mến
mà tôi tưởng đã vĩnh viễn biến
tan. Sáng nay trước khi ra khỏi nhà, tôi
đã dừng lại trước tượng Phật
và cám ơn Ngài đã trông chừng
chúng tôi trong những năm tháng qua. Tôi
khấn vái bằng những nén nhang tỏa trầm
hương ngạt ngào.
Trầm Hương
tháng
4-2009
(Bai Chuyen)