NGƯỜI MẸ CỦA BIÊN GIỚI SỐNG VÀ
CHẾT.
(LM Nguyễn
Tầm Thường)
Đây là câu chuyện có
thật được cha Nguyễn Tầm Thường,
Ḍng Tên, thuật lại nhân kỷ niệm 5 năm ngày
Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời 1997 - 2002...
Năm 2000, tôi tới giúp tĩnh tâm cho cộng
đoàn Công Giáo Việt Nam ở Oakland, miền bắc
California. Hôm ấy, cuối nhà thờ có người
gọi tôi. Quay lại nh́n, ngờ ngợ, ai ngờ đâu
tôi gặp lại người đàn ông tôi đang muốn
t́m từ lâu...
Sáu năm làm việc tại trại tỵ nạn
Palawan, Philippines 1989 - 1995, tôi gặp ông ở đấy.
Một người đàn ông im lặng, ít nói. Ông lúc nào
cũng như có chuyện khổ tâm. Ngày ngày ngồi tráng
bánh ở một góc đường trong khu trại tỵ
nạn. Ngâm gạo đêm trước, dậy tráng bánh
từ hai giờ sáng bên vỉa đường. Mỗi ngày
vài chục pesos. Ngày ấy,1 US dollar được 25 pesos
tiền Philippines.
Hoàn cảnh tỵ nạn bấy giờ nhiều
người túng cực. Ông phải đùm bọc hai
người gốc Chàm không người quen với bốn
em bé không thân nhân. Mấy người sống chung với
nhau trong căn nhà tỵ nạn. Kẻ xách nước,
người kiếm củi, ông tráng bánh. Khoảng ba tháng
ông góp được hai chục đô la, lại nhờ cha
Crawford, một cha già người Mỹ trước ở
Việt Nam, sau qua trại tỵ nạn giúp đồng bào,
gởi qua trại tỵ nạn Hongkong cho vợ.
Ông rời cửa biển Cam Ranh ngày 2.9.1988 vào
đất Philippines. Một năm sau, tháng 9 năm 1989 ghe
của vợ ông rời Vạn Ninh, Nha Trang được
hai ngày bị bể máy. Ghe lênh đênh trên biển đông,
rồi lâm nạn. Vợ ông đem theo ba con nhỏ. Hết
lương thực, nhờ mưa gió có nước
uống mới sống sót. Sau nhiều ngày băo táp, một
chủ ghe đánh cá người Tầu ở đảo
Hải Nam bắt gặp chiếc ghe lâm nạn này. Ông ta
chỉ đồng ư tiếp tế gạo, cho nước
và kéo ghe ra khỏi vùng lâm nạn san hô với điều
kiện cho ông ta bé cháu trai trên ghe. Cháu bé chính là con của người
đàn ông này.
Kể từ ngày rời bờ biển Vạn Ninh
đến khi gặp chiếc ghe người Tầu
rồi cập được vào đất liền là 25
ngày. Nước Tầu hạn chế sinh sản. Ông
chủ ghe người Tầu mong một cháu trai mà không
được. Cuộc mặc cả là xé ruột gan
người mẹ. Trước biên giới sống và
chết, họ phải chọn sống. Vấn đề
ở đây là sự sống của toàn thể 44
người trên chiếc ghe. Nếu không mất đứa
bé, toàn ghe có thể chết.
Chiếc ghe đánh cá người Tầu mang theo cháu
bé rồ máy chạy vội vă biến mất hút về phía
Trung Quốc. Rồi tin ấy đưa đến cho
người đàn ông này ở Palawan. Mỗi ngày ông cứ
lặng lẽ tráng bánh, kiếm ăn gởi qua cho vợ
ở trại tỵ nạn Hongkong. Đau thương v́
mất con. Con tôi trôi giạt nơi đâu ? Vợ chồng
mỗi người một ngả. Đứa con mất tích
sẽ ra sao ? Dáng ông buồn lắm. Cháu bé lúc đó mới
hơn ba tuổi.
Cha Crawford kể cho tôi câu chuyện này. Không biết
người đàn ông đă nhờ cha già gởi tiền
cho vợ như thế bao lâu rồi. Theo ông kể lại,
v́ không là người Công Giáo, ông đâu có tới nhà
thờ. Một hôm có mấy người vào cha xin tiền
mua tem gởi thư. Ông cũng đi theo. Rồi một
linh cảm nào đó xui khiến ông gặp cha. Ông kể cho
cha già nghe chuyện ông mất con.
Một trong những ư định qua trại tỵ
nạn làm việc của tôi là thu lượm những
mẩu đời thương đau của người
tỵ nạn. Tôi t́m gặp ông ta để hỏi chuyện.
Câu chuyện bắt đầu.
Sau khi chiếc ghe được kéo vào đảo
Trung Quốc, một nửa số người quá sợ
hăi, đi đường bộ trở về Việt Nam.
Số c̣n lại kết hợp với ít người
đă trôi dạt vào đảo trước đó, sửa
ghe t́m đường qua Hongkong. Người đàn ông
tưởng chừng vợ đă chết trên biển v́
hơn ba tháng sau mới nhận được mấy
lời nhắn tin viết vội bằng bút ch́ từ
trại tỵ nạn Hongkong. Ông đưa miếng
giấy nhàu với nét bút ch́ mờ cho tôi. Sau khi ông rời
trại tỵ nạn, mất liên lạc, tôi chỉ c̣n
giữ tấm giấy như một kỷ niệm quư
hơn chục năm nay.
Đó là lá thư thứ nhất ông nhận
được. Những lần giảng trong Thánh Lễ
về t́nh nghĩa vợ chồng, tôi lại nghĩ
đến ông .. Một người đàn ông cặm
cụi tráng bánh để rồi ba tháng trời dành
được 20 đô la gởi tiếp tế cho vợ.
Ông tâm sự với tôi là ông dự tính một ngày nào
đó được đi định cư, dành dụm
tiền rồi đi Trung Quốc ḍ hỏi tin con. Nghe ông
nói vậy, tôi thấy ngao ngán cho ông. Bao giờ ông mới
được định cư ? Rồi định
cư xong, biết bao giờ ông mới thực hiện
được mơ ước ? T́nh trạng tỵ
nạn lúc này quá bi đát. Mười người vào
phỏng vấn may ra đậu được ba. Đất
Trung Quốc rộng mênh mông như thế biết đâu
t́m ? Bao nhiêu khó khăn như tuyệt vọng hiện ra
trước mặt. Tôi thấy ư nghĩ mơ ước
đi t́m con của ông như cây kim lặng lờ ch́m
xuống ḷng đại dương.
- Tại sao không nhờ Cao Ủy Tỵ Nạn,
nhờ Hội Chữ Thập Đỏ Hongkong ?
Người đàn ông này sợ lên tiếng như
thế gia đ́nh Tầu kia biết tin sẽ trốn
mất. Chi bằng cứ âm thầm t́m kiếm. Tôi thấy
dự tính của ông khó khăn quá. Những năm làm
việc bên cha già, tôi biết một đặc tính của
ngài là thương kẻ nghèo. Ngài thương họ vô
cùng, ngài sẽ làm bất cứ ǵ có thể. Tôi đề
nghị cha già cứ viết thư khắp nơi, kêu
cầu tứ chiếng.
Các thư được viết đi. Ngài cầu
cứu Cao Ủy Ti Nạn, Hội Hồng Thập Tự,
cơ quan từ thiện dịch vụ tỵ nạn Công
Giáo, từ Manila đến Bangkok, Thailand. Đợi chờ măi
mà năm tháng cứ bặt tin. Tôi vẫn thấy
người đàn ông cứ dáng điệu buồn bă
ngồi bên đường tráng bánh. Trời nhiệt
đới nắng và nóng, mỗi khi xe chạy qua, bụi
đường bay mờ người. Hàng ngày lên Nhà
Thờ, tôi lại h́nh dung bóng h́nh ông. Chỗ ông ngồi
không xa tháp chuông Nhà Thờ bạc vôi sơn và tiếng chuông
mỗi chiều là bao.
Mỗi chiều dâng lễ, tôi lại nh́n thấy cây
Thánh Giá trên nóc Nhà Thờ đă nghiêng v́ gỗ bị
mục. Cây thánh giá trải qua nhiều mùa mưa nắng quá
rồi. Bức h́nh Mẹ Maria bế Chúa Hài Nhi trên tấm
ván ép dưới cây Thánh Giá cũng bạc nước
sơn. Những người tỵ nạn đă bỏ
một vùng đất rất xa. Quê hương của
họ bên kia bờ biển mặn. Nhiều người
cứ chiều chiều ra biển ngồi. Đêm về sóng
vỗ ́ ầm. Biết bao người đă không tới
bến .. Họ đến đây t́m an ủi trong câu kinh.
Giữa tháng ngày cằn cỗi ấy, rồi một
chiều bất ngờ tin vui đến.. Hội Hồng
Thập Tự Hongkong báo tin về Manila. Manila điện
xuống báo cho cha Crawford biết người ta đă t́m
được cháu bé.
Lúc bắt cháu bé, người Tầu trên ghe đánh cá
kia đă lanh trí che tất cả số ghe. Không ngờ
trời xui khiến, trong lúc thương lượng
bắt cháu, trên chuyến ghe tỵ nạn Việt Nam có
kẻ lại ghi được mấy chữ Tầu
ở đầu ghe bên kia vào một chiếc áo. Không
ngờ chiếc áo này lại là chính chiếc áo của cháu
bé bỏ lại. Quả thật là chiếc áo định
mệnh. Nguồn gốc nhờ mấy số ghe đó mà
sau này người ta mới phanh phui ra được
gốc tích chiếc ghe. Đó là một thuyền đánh cá
ở đảo Hải Nam.
T́m được cháu rồi, bây giờ lại
đến phần gia đ́nh người Tầu đau
khổ. Cháu không c̣n nói được tiếng Việt, v́
hơn một năm liền mọi sinh hoạt trong gia
đ́nh kia là của cháu. Hồi bị bắt cháu c̣n bé quá,
mới hơn ba tuổi. Bà mẹ người Tầu
cũng khóc, biết ḿnh sẽ mất đứa con mà
họ đă nuôi. Họ nhất định không trả. Cao
Ủy phải can thiệp nhiều lắm. Gia đ́nh
ở đảo Hải Nam kia dựa lư do là cháu đang
được nuôi nấng tử tế, c̣n ở trại
tỵ nạn cháu thiếu thốn đủ thứ,
họ không chịu mất con. Nhưng Cao Ủy bắt
phải trả cháu về cho bố mẹ ruột.
Để thỏa măn điều kiện kia, Sở Di Trú
Mỹ liền cho bà mẹ bị bắt con quyền
định cư tại Mỹ, dù đă đến
trại sau ngày thanh lọc. Trong lúc đó người
đàn ông này đă bị Mỹ từ chối tại
Philippines. Ông buồn lắm. Cha Crawford bảo tôi rằng
vợ người đàn ông đă được vào
Mỹ, nên cơ quan Cao Ủy Tỵ Nạn tại
Philippines yêu cầu cho ông cũng được vào Mỹ
theo. V́ nhân đạo, sở di trú Hoa Kỳ đồng ư.
Tin vui như vậy mà ông cứ đứng như trời
trồng không tin chuyện có thể xảy ra như
thế.
Ngày trao trả cháu bé, báo chí Hongkong đăng h́nh cháu
khóc thảm thiết. Cháu đẩy mẹ ruột ra,
đ̣i về với mẹ nuôi. Người mẹ nuôi khóc
v́ thương nhớ cháu. Mẹ ruột cũng khóc v́
thấy lại con mà con không biết ḿnh. Tất cả ai
cũng khóc. Cao Ủy Tỵ Nạn bồi thường
lại phí tổn nuôi nấng cháu bé cho gia đ́nh
người Tầu kia. Chuyến bay rời Hongkong mang theo bao
t́nh cảm nhân loại của con người với con
người.
Thời điểm bấy giờ không biết bao
chuyện thương tâm xảy ra. Hàng trăm ngàn
người chết trên biển, ăn thịt nhau v́
chết đói. Hải tặc Thái Lan tung hoành bắt
người nhốt ngoài đảo, hăm hiếp, chặt
răng vàng, giết. Đối với thế giới
chuyện cháu bị bắt cóc chỉ là chuyện nhỏ.
Vậy v́ đâu họ ra sức đi t́m ?
Đây là lư do:
Câu chuyện thương tâm của người
mẹ mất con đến tai Mẹ Têrêsa Calcutta. Ấn
Độ là thuộc địa cũ của người Anh.
Mẹ Têrêsa viết cho chính phủ Anh xin can thiệp
chuyện này. Từ London, chính phủ Anh xin Bộ Ngoại
giao Bắc Kinh điều tra t́m chiếc ghe mang số
như thế ..
Bên ngôi mộ Mẹ Têrêsa ở Calcutta, ngày 14.5.2001 tôi
kể chuyện này cho Sơ Bề Trên Ḍng. Sơ yêu cầu
tôi viết lại cho sơ làm tài liệu. Trong những ngày
này, nhân viên Ṭa Thánh đang ở Calcutta điều tra
để xúc tiến hồ sơ phong thánh cho Mẹ Têrêsa.
Một Linh Mục ngồi nghe chuyện tôi kể, ngài nói:
- Tâm hồn Mẹ Têrêsa rất bao dung. Mẹ
thương người nghèo. Mẹ là người của
biên giới giữa sống và chết.
Nghe câu nói đó của cha. Tôi hiểu ư là Mẹ luôn
đứng bên lề sự sống kéo kẻ chết
về phía ḿnh. Chính v́ thế tôi đặt tên cho bài
viết này là: Người Mẹ của biên giới
sống và chết.
Nghe tiếng người đàn ông gọi. Quay
lại nh́n, không ngờ chính người đàn ông mất
con, ngồi tráng bánh ở trại Palawan ngày xưa, tôi
mừng lắm. Sau lễ chiều, tôi tới nhà ông dùng
cơm. Ông rời trại tỵ nạn Palawan tháng 6, lên
Bataan rồi vào Mỹ tháng 12 năm 1990. Không ngờ
mười năm sau tôi gặp lại.
Cháu bé bây giờ lớn rồi. Chuyện đă
hơn cả chục năm qua. Cháu chẳng nhớ ǵ. Riêng
cha mẹ th́ nhớ lắm, nhất là những ǵ đau
thương v́ con cái th́ trong trái tim cha mẹ không bao giờ
quên. C̣n tôi, đấy là một kỷ niệm đẹp
trong những ngày làm việc bên trại tỵ nạn.
Không ngờ có ngày tôi gặp lại người
đàn ông này. Không ngờ có ngày tôi ngồi bên mộ Mẹ
Têrêsa trên đất Ấn. Một vùng đất rất xa
với chỗ ngồi tráng bánh của người đàn
ông mất con. Không ngờ tôi lại là kẻ chứng
kiến những chuyện t́nh này, để rồi nối
kết khung trời này với khung trời kia. Không ngờ
vào ngày Lễ Phục Sinh năm 1999 ông đă nhận lănh Bí
Tích Rửa Tội, nếu ông không đi lễ ở Nhà
Thờ Oakland hôm đó, làm sao tôi gặp lại.
Tại vùng đất Vạn Ninh, chỉ có một
ngôi Nhà Thờ nhỏ miền quê độc nhất. Đêm Noel
năm 1985 sau khi đến Nhà Thờ về, em bé chào
đời đúng ngày 25 tháng 12 năm 1985. Người
đàn ông kể cho tôi ngày sinh nhật của em thật
đặc biệt. C̣n tôi, tôi thấy ngày em mới hơn
ba tuổi phải hy sinh để cứu chuyến ghe là
h́nh ảnh thế mạng sống chuộc thay cho
người khác.
Trong câu chuyện này cả ba người đàn bà
đều có những tấm ḷng rất đỗi đáng
yêu. Người mẹ sinh cháu bé, bao yêu thương và xót
xa. Mẹ Têrêsa với tấm ḷng hiểu nỗi
thương đau của những người mẹ. Bà
mẹ nuôi người Tầu đă săn sóc em khi ông
chồng đánh cá đem cháu về. Tất cả là
tấm ḷng bao dung của những bà mẹ.
Tôi viết ḍng này, cha già Crawford đă chết rồi.
Mẹ Têrêsa cũng chết rồi.
Ngày mai, giữa biên giới của sự sống và
chết ,c̣n những chuyện không ngờ nào sẽ xảy
đến nhỉ ?
Lm. NGUYỄN TẦM THƯỜNG, Ḍng Tên,
trích trong sách "Những Trang Nhật
Kư Của Một Linh Mục"
(Bùi Mạnh
Hùng sưu tầm và chuyển)