Đón Xuân - Nhớ Bánh
Chưng Xanh !
(Tường Vi)
Những ngày
gần Tết, bánh chưng được bầy
bán mọi nơi, những chiếc bánh gắn liền
với những phong tục, cổ truyền trong Tết
Nguyên Đán của người Việt Nam.
Nếu mứt kẹo
để mời khách ăn với một tách
trà thơm, làm quà câu chuyện, thì
bánh chưng không thể thiếu trên bàn
thờ tổ tiên hay trên bàn ăn ngày Tết.
Có người thích ăn với dưa món,
củ kiệu, có người thích ăn với
cá thu kho giềng, có người thích ăn
với đường, có người thích
ăn bánh chưng chiên.
Và, cứ mỗi
dịp Tết về, lòng tôi lại bồi hồi
nhớ đến dì tôi, nhớ đến những
chiếc bánh chưng mùi vị thơm ngon đặc
biệt của dì.
Sau năm 1975.
Dì tôi bắt
đầu nghĩ cách làm ăn. Bà gói
bánh chưng nhỏ, bỏ mối hàng ngày.
Bánh của bà nổi tiếng ở đường
Yên Đổ - Hai Bà Trưng. Nên vào những
dịp Tết, khách đặt bánh rất
đông, nhiều khi không dám nhận thêm
vì làm không xuể. Phòng khách
nhà dì tôi là nơi gói bánh. Thật rộn rịp.
Người ta
thường gói bánh chưng với đậu
xanh và thịt sống, cho đỡ mất công.
Nhưng bánh chưng của dì tôi, làm thật
công phu, mất nhiều thì giờ hơn người
khác vì đậu xanh được nấu
chín đánh tơi, bỏ nhiều tiêu
vào trộn đều. Thịt được ram
sơ với mắm muối hành tiêu cho đậm
đà nhưng không được kỹ quá,
sau đó vớt hành bỏ đi. Lá rong
được mẹ tôi rửa sạch sẽ với
nước, rồi lau khô từng lá và cắt
gọn gàng, to nhỏ để riêng, nên
bánh không mau thiu. Tính mẹ tôi tỉ mỉ
nên làm cái gì cũng phải đâu
ra đó. Bà thường chỉ huy nấu nướng
khi có tiệc tùng. Rồi bà nắm đậu
xanh thành từng viên và cẩn thận
cân cho đều nhau.
Khi mọi thứ
đã sẵn sàng, bốn cô con gái của
dì tôi bắt đầu ngồi gói. Cô
nào cũng khéo, gói tay nhanh, mà vẫn
vuông vắn đều đặn như gói tay
khuôn, nhưng lại không độn nhiều
lá. Bánh của
dì tôi khi cắt ra thơm phức, nhân rất
mướt, thịt không khô, bánh dền
không bao giờ bị sống.
Suốt cả
hơn tuần lễ trước Tết, ngày nào
cũng bận rộn từ sáng sớm tới
đêm. Thật là cực, nhưng rất vui. Một
ngày nấu liên tục mấy nồi. Nồi
này vớt ra lại đặt nồi khác
lên. Có năm đang nấu, nồi bị bục
phải mang đi hàn, thật là khổ. Mãi
cho tới sáng 30 mươi, sau khi giao hết bánh
cho khách, dọn dẹp lau chùi nhà cửa,
dì tôi mới quay ra nấu nướng, hóa
vàng đón ông bà.
Trước
đó cả tháng, bà đã phơi củ
cải để làm dưa món. Món củ cải
muối của bà đậm đà, vàng
ánh, nhìn cũng thấy muốn ăn rồi.
Và mồng một tết năm nào, cũng
có một bữa ăn xum họp, đông vui, con
cháu chật nhà.
Nhà dì
tôi ở giữa xóm, từ trong cho tới đầu
hẻm, ai cũng biết bà. Bà đi chợ
hàng ngày, nên các ông xích lô
và các bà bán hàng đều quen mặt.
Hết tiền cứ mua thiếu chẳng sao. Các chị
bán vé số nếu bán không hết đều
kiếm bà nhờ mua hộ. Có một lần
bà từ chối nhưng chị bán vé số
cứ nài nỉ vì đến giờ xổ số.
Chiều dò số, bà trúng độc đắc,
không biết là cá cặp mấy. Người ta đồn ầm
cả xóm. “Là thần tài tới kiếm
bà.” Chắc
đó là ơn trên phù hộ vì
bà khổ cực, một mình nuôi 11 đứa
con.
Dì tôi
thích xem cải lương. Bà là khán giả
ái mộ cô đào Thanh Nga và kép
Thanh Sang, bà thường dắt con gái thứ
nhì của tôi đi xem. Nhưng mỗi khi cầm
sách đọc là bà ngủ khò,
trái với mẹ tôi có thể đọc
sách cả đêm. Suốt cuộc đời
bà chỉ lo cho con cháu. Cứ như thế nhiều
năm trôi qua ..
Tôi được
định cư qua Mỹ năm 86. Dì tôi thường
viết thư thăm hỏi, báo tin, “Tôi sắp
sửa qua gặp chị và các cháu”.
Nhưng ngày đó chưa đến, thì tin
dì tôi đột ngột qua đời đã
tới trước.
Dì tôi
đã vĩnh viễn ra đi mãi mãi,
không đợi tới ngày hội ngộ. Tôi
không bao giờ quên được tiếng cười
khanh khách, vô tư, cùng khuôn mặt đẹp
phúc hậu giống các bà mệnh phụ
ngày xưa của dì. Mắt to, mũi cao,
lông mày vòng nguyệt.
Đám tang của
dì tôi đông không thể tưởng
tượng, mọi người đi bộ theo sau quan
tài chật cả một đoạn đường
dài từ Yên Đổ ra tới Tân Định,
Hai Bà Trưng. Mọi người đi qua đều
dừng lại để xem đám tang của ai
mà đông thế.
Một bài
hát có câu:
“Vạn
người quen có mấy người thân,
Đến
khi lìa trần có mấy người
đưa.”
Nhưng dì
tôi đã không cô đơn, có mấy
trăm người thân sơ, đưa tiễn
dì tôi tới nơi an nghỉ cuối cùng, giống
như câu nói. “Khi sống không bằng ai,
nhưng khi chết không ai bằng.” Nhà thờ chật
ních người, chưa kể một số
đông đứng đầy ngoài sân.
Cha chủ tế
đã nói: “Tôi không biết bà cụ
này lúc sống như thế nào. Nhưng chỉ
nhìn số người hiện diện trong thánh
lễ hôm nay, cũng đủ nói lên sự
thương mến của mọi người, đối
với bà".
Cha phó tế
là một cha ở một họ đạo xóm
khác, nhưng nghe nhiều người đồn, có
một bà rất là tử tế, phúc đức
qua đời, cha tới làm lễ cho. Một người
quen cho biết, ông cha này ít khi làm
thánh lễ cho ai, dù rất nhiều người
mời. Đây cũng là một ơn phước
cho dì tôi. Một người đàn bà
Việt Nam, một người mẹ suốt đời tận
tụy hy sinh cho con cháu.
Có nhiều
người nghèo trong xóm tới nói cho biết,
có thiếu tiền của dì tôi lúc sống.
Cậu em của tôi bảo: “Thôi, bây giờ
các bác cứ khấn xin mẹ tôi đi, chứ
chúng tôi cũng không đòi nữa.”
. Lúc đó mới biết bà giúp đỡ
rất nhiều người nghèo.
Sau khi dì
tôi chết chừng 1-2 tháng, gia đình
được gọi phỏng vấn. Không biết
có phải dì tôi phù hộ hay không ?
mà gặp được ông trưởng
phái đoàn Mỹ, khi thấy mấy người
ở lại, vì đã lập gia đình,
có con. Ông ta bảo “Lái xe về chở
những người ấy lên đây, tôi sẽ
làm hồ sơ cho đi hết.” Thật chưa
từng có trường hợp nào như vậy.
Và gia đình các con cháu của dì
tôi gồm 17 người, đã tới Mỹ thật
nhanh.
Mùa xuân, Tết
đến “Nhìn bánh chưng xanh , chạnh nhớ
người xưa.” Chúng tôi đã ăn
thử, đặt bánh nhiều chỗ, nhưng cuối
cùng vẫn thấy, không đâu ngon bằng
bánh của dì tôi. Những chiếc bánh
chưng với mùi vị thơm ngon độc
đáo, cộng thêm món củ cải muối
độc nhất vô nhị của bà, không
ai sánh bằng. Nay bánh chưng của dì
tôi đã thất truyền, không người
kế nghiệp, tiếc thay.
Các con của
dì tôi, người ở Houston, người ở
Cali. Mỗi lần xuân về, vẫn ngậm
ngùi, nhớ về những cái Tết xum vầy,
đầm ấm bên mẹ ngày xưa.
Có tiếng
hát đâu đây: “Chiều nay, buồn
đứng nhìn về nơi tận cuối trời,
chạnh lòng nhớ quê xưa. Buồn ơi, sao
tiếc nuối một thời tôi dấu yêu
!”
Ôi sao nghe buồn
thấm thía !
Tường Vi
(Viet Truong sưu tầm và
chuyển)