Gió lay hoa mận
(Vương Hà)
Buổi chiều định mệnh, lão Nhân
bắt gặp một cô gái nằm gục trong rừng,
mặt bệch như sáp. Thoạt đầu lão
hoảng, tưởng gặp người chết nên
định vùng bỏ chạy. Khi phát hiện
cô còn thở, lão mới dám định
thần nhìn kỹ. Cô gái rất trẻ, chỗ
vùng bụng vồng lên lùm lùm. Rõ
là người đang mang bầu. Lòng lão
Nhân rối bời, đời lão chưa gặp
phải trường hợp như vậy bao giờ. Tiếng
kêu líu ríu của lũ chim chiều gọi
nhau về tổ khiến lão tĩnh tâm hơn.
Lão tháo bầu đựng nước đeo
bên hông, đổ từng chút, từng
chút vào miệng cô gái. Mắt cô mở
ti hí, lờ đờ nhìn xung quanh, rồi lại
nhắm lại.
Cứu một mạng người bằng xây bảy
toà tháp. Lão không được học
chữ nhưng đạo lý này lão biết.
Lão xốc cô gái lên lưng. Cô
khá nặng, ngón chân lão toẽ ra,
bám vào đất đi cho vững. Vất vả
lắm, lão mới cõng cô gái đến
được chỗ buộc ngựa. Lão định
vắt cô gái úp sấp lên lưng ngựa.
Không được. Lão sợ ảnh hưởng
cái thai. Vậy là lão lại cõng.
Còn con ngựa, lão buộc dây vào cổ
tay, dắt theo.
Lão Nhân
không nhớ mình đã nghỉ bao lần dọc
đường trước khi về đến nhà.
Nhà lão chiều ngang sáu bước, chiều
dọc bốn bước, lão sống độc
thân nên cũng chỉ cần có thế.
Đặt cô gái nằm lên giường,
lão Nhân nấu vội nồi cháo loãng.
Cháo chín, lão thổi nguội rồi cạy
miệng cô gái bón từng thìa một.
Tay lão vụng, lóng ngóng khiến cháo chỉ
vào miệng được một phần ba, phần
còn lại chảy xuống cổ cô gái.
Lão vừa bón, vừa phải lấy khăn lau.
Lão bón cháo mà như đánh vật.
Xong bát cháo, cô gái vẫn thiêm thiếp,
không cử động. Lão ngồi bên cạnh,
khấn trời, khấn đất phù hộ cho
cô được sống. Đêm. Lão ngủ
dưới đất, chiếc giường duy nhất
dành cho cô gái. Thỉnh thoảng lão lại
sờ chân cô xem còn ấm không. Lão sợ
cô chết.
Sáng hôm sau. Cô gái tỉnh. Cô cố
ngồi dậy và lần ra khỏi giường. Mọi
thứ xung quanh lạ hoắc. ánh mắt cô dừng
chỗ lão Nhân.
Lão Nhân mừng rỡ:
- Trời đất còn biết thương
người ! Vậy là sống rồi.
Cô gái nhìn lão chằm chằm.
Lão hỏi:
- Cháu nhà ở đâu, sao lạc đến
đây ?
Cô gái im lặng.
- Đừng sợ ! Ta không phải người
xấu. Là người xấu thì ta đã
không cứu cháu - Lão tưởng cô sợ
nên trấn an.
Đột nhiên cô gái quỳ xuống,
nước mắt dàn dụa.
Lão Nhân bối rối, đỡ cô
gái.
- Cháu đứng lên đi, có chuyện
gì từ từ kể.
Cô gái nghẹn ngào, thốt kể từng
lời ngắt quãng:
- Cháu tên là Thương ...
Lão Nhân lặng người nghe. Câu chuyện
buồn quá. Hoá ra Thương đã bị lừa
và bán ra nước ngoài làm gái
bán dâm, ngày phải tiếp hàng chục
gã đàn ông. Sau đó chủ nhà chứa
bán Thương cho người thiểu số sống
giáp biên giới Việt Nam. Thương phải
làm vợ chung cho đám đàn ông trong
nhà, và cô đã trốn khi có cơ
hội. Thà chết nếu trốn mà lạc trong
rừng, còn hơn ở lại để bị
đoạ đầy thân xác. Trước khi trốn,
Thương đã mang thai.
- Ông ơi ! Đừng đuổi cháu
đi, xin cho cháu ở lại. Bây giờ cháu
chẳng còn mặt mũi nào về quê.
Cháu mà về, phải chịu cảnh khinh miệt,
chắc không sống nổi - Giọng Thương nghe
cứa xót như tiếng mọt nghiến gỗ.
Lão Nhân thở dài.
- Cháu muốn ở lại ta không cản, muốn
đi ta không giữ. Nhưng cháu nên biết
... sống nơi đây nhọc nhằn, cơ cực
lắm.
Thương nói với lão:
- Còn khổ nhục nào hơn nỗi khổ
nhục cháu đã trải qua ? - Cô hạ thấp
giọng, như để chỉ đủ mình nghe -
Nhà cháu ở quê cũng nghèo lắm.
Lão Nhân lại nói tiếp, nhưng theo
cách riêng của lão:
- Sống ở bản Tẹo khốn (khổ), khổ,
khổ đến nỗi không khổ. Cháu sống
được không ?
Khổ đến nỗi không khổ ?
Thương nghe, không buồn cười mà thấy
có lý. Ừ ! Có thể người ta
quá khổ rồi thì sẽ không thấy khổ,
sợ khổ nữa.
Thương nhất quyết:
- Cháu sẽ ở lại, dù khổ đến
mấy !
Lão Nhân làm thêm chiếc giường.
Gọi là giường nhưng lão chỉ việc
ra vườn chặt chạc cây mận chôn xuống
đất làm chân rồi trải giát tre
lên. Vườn nhà lão mận mọc vô ối,
cây nào cũng phủ rêu mốc thếch,
già cổ. Một thứ mận chua, chịu hạn dẻo
dai, đến mùa hoa phủ kín thân cành
bất chấp tiết trời khắc nghiệt. Mận mọc
chen với đá. Không thể khác, bởi
quanh khu vực bản Tẹo chỗ nào cũng
đá, tầng tầng, lớp lớp nhọn như
chông. Thương nhìn, ngậm ngùi:
"Dân ở đây chắc nghèo lắm,
quê mình cũng nghèo nhưng còn khá
hơn đây" ..
Thương nghĩ không sai. Bản Tẹo đất
rộng, người thưa, cuộc sống khắc nghiệt,
quanh năm thừa đá, thiếu nước. Nơi
đây không chỉ lắm muỗi, lắm bọ
chó mà còn rất nhiều ruồi vàng.
Ruồi vàng cắn còn sợ hơn ong đốt,
nốt ruồi cắn rỉ nước vàng cả
tháng. Sống ở đây là cả cuộc chiến
mưu sinh, không có những phút giây
nhàn nhã nghỉ ngơi. Nghỉ là
đói.
Mang thai, Thương lúc nào cũng thèm
ăn. Trái mận chua cô cắn cứ ngọt lịm
như đường. Vườn mận nhà lão
Nhân thừa để Thương ăn suốt đời,
suốt kiếp. Nhưng mận không thể thay cơm,
mà chỉ làm dịu cơn thèm trong chốc
lát. Thương luôn ước được
ăn bữa cơm có thịt, cá. Cơn
thèm chao đảo cả
trong giấc ngủ. Nhưng cô chỉ dám ước
thầm. Nói ra lại làm khổ lão Nhân.
Không người thân, nên lão Nhân
coi Thương như con ruột. Lão không cho
Thương động chân tay vào việc nặng.
Đàn bà bụng mang dạ chửa đụng
việc nặng dễ hỏng thai. Nhà thêm người,
lão phải làm việc cố hơn mọi
ngày để kiếm tiền. Mình lão ăn
rau rừng, cơm độn thế nào cũng
được. Nhưng còn Thương và
cái thai trong bụng. Cần phải có tiền
để mua các thứ. Lão đã rất cố
gắng, vậy mà tiền kiếm được chẳng
thấm vào đâu. Túng tiền. Lão vắt
óc, tính đến chuyện bán con ngựa ky
cóp cả đời mới mua được.
Bán ngựa, lão tiếc đứt ruột.
Nhưng lão nghĩ kỹ rồi, ngựa không quý trọng bằng
người. Vả lại, lão cũng
đã già, sống còn được bao
lâu. lão mà chết, ngựa thành ngựa
hoang.
Lão Nhân đem ngựa xuống chợ
bán. Không hiểu lái ngựa biết lão
cần tiền nên bắt chẹt hay tại lão
quá thật thà mà con ngựa chỉ bán
được hơn nửa giá trị. Có
được món tiền, lão mua đồ cho
Thương, cho cả đứa cháu chưa chào
đời. Không còn ngựa, lão thay ngựa
cõng đồ trên lưng. Đường xa,
đồ nặng, mồ hôi thấm cả vào những
bộ áo quần trẻ sơ sinh.
Tiết trời giục hoa nở. Thương trở
dạ. Lão Nhân cuống cuồng đi nhờ bà
đỡ. Chuyện đàn bà sinh nở, lão
chẳng có chút nào hiểu biết. Lão
không dám bước vào nhà, cứ như
người thừa, đứng quanh quẩn bên gốc
mận già, chờ đợi. Tiếng Thương
rên vì đau vọng ra bên ngoài đều
đều. Thế rồi trong căn nhà tồi
tàn của lão bất chợt im lặng, như
không có người. Lão Nhân lo lắng.
Nhưng đó là khoảng im lặng để
chuẩn bị bùng nổ. Đến lúc lão
Nhân sốt ruột gần như không chịu nổi
nữa sự im lặng tù túng, ngột ngạt
đó thì tất cả vỡ oà. Tiếng
con trẻ sơ sinh khóc oa oa, lao vút qua ngọn
cây mận già, bay theo mười hai bà mụ
để đến báo với đấng tạo
hoá rằng trần gian nay có thêm một
thiên thần nhỏ. Lão Nhân bấu chặt
ngón tay vào gốc cây, lòng lâng
lâng như được tặng quà quý.
Lão ho khan để che giấu điều gì
đó rất khó tả. Có thể gọi
cái khó tả ấy là niềm vui.
Nhưng lão chưa kịp vui thì bà
đỡ đã gọi thất thanh.
- Lão Nhân ơi ! Vào đây ngay !
Lão linh cảm chuyện không hay. Nguy rồi !
"Người chửa, cửa
mả".
Mặt Thương trắng bệch còn hơn lần
lão gặp trong rừng.
Lão gọi mà như gầm:
- Con gái ơi !
Bà đỡ kéo tay lão.
- Đừng thế nữa. Nó bị băng huyết.
Lão nhanh đi gọi người giúp đưa
ra bệnh viện. May còn cứu được.
Miệng lão đắng như ngậm củ
Hoàng Liên. Lão chạy lồng khắp bản.
Chạy như ngựa phi nước đại.
Người bản Tẹo bỏ dở mọi việc
để giúp lão. Mẹ con Thương
được đặt nằm trên chiếc
võng buộc gá bằng chăn chiên. Người
bản Tẹo thay nhau khiêng, đi như chạy,
đi không nghỉ. Đường đến bệnh
viện quá xa. Người bản Tẹo thở
phì phò, nước bọt bắn ra hai bên
mép.
Đến nơi, mẹ con Thương được
đưa ngay vào phòng cấp cứu. Người
bản Tẹo kẻ đứng người ngồi,
nhưng mắt đều nhìn về phía căn
phòng đó.
Không rõ thời gian trôi bao lâu. Cửa
phòng cấp cứu mở. Bác sĩ báo tin:
- Đứa trẻ không sao cả. Còn người
mẹ chúng tôi đã cầm được
máu. Nhưng cô ấy mất máu quá nhiều,
nếu không được tiếp kịp thời
thì rất khó đảm bảo tính mạng.
Bệnh viện chúng tôi lại hết máu dự
trữ.
Người bản Tẹo liền cùng níu
cánh tay bác sỹ, rồi đồng thanh:
- Mạng người quý giá. Lẽ nào
thấy chết không cứu. Bác sỹ hãy lấy
máu của chúng tôi !
Bác sỹ nhìn người bản Tẹo.
Người bản Tẹo da vàng, mặt gầy, mắt
lồi, gân xanh nổi, chân tay khẳng khiu như
cành khô. Bác sỹ ái ngại. Người
bản Tẹo biết bác sỹ đang nghĩ
gì.
Họ tiếp tục khẩn cầu.
- Đồng ý đi bác sỹ ! Người
bản Tẹo chúng tôi trông thế thôi
nhưng khoẻ lắm, đủ sức hiến máu.
Cứu người là quan trọng, bác sỹ
không phải ngại.
Bác sỹ xúc
động:
- Được ! Bệnh viện hứa sẽ hết
sức cứu chữa cho cô ấy. Bây giờ, ai
là thanh niên lập tức theo tôi đi thử
máu.
Thương được cứu sống. Huyết
mạch trong cô giờ chứa cả máu người
bản Tẹo. Đứa con bú sữa cô, là
được truyền cả máu của người
bản Tẹo.
Có con, Thương thấy thêm yêu cuộc
sống, yêu mọi thứ xung quanh. Đứa con,
báu vật đời người, đã trao cho
cô thứ tình cảm mới, tình mẫu tử.
Nhìn dáng đỏ hoàng hôn cô tưởng
tượng hoa hồng, nhìn màu xanh đồi
núi cô tưởng tượng gấm vóc. Thấy
Thương vui trở lại, lão Nhân mừng
nhưng buồn nghĩ xa xôi: Mẹ con nó chỉ
là con chim đến đậu tạm bản Tẹo,
rồi lúc nào đó lại sẽ theo
gió bay đi, tìm về nơi tổ cũ.
Mới chớm vào thu, sương dở
ương sớm có, sớm không, nhưng cũng
đủ ẩm để người bản Tẹo gieo
cải ngọt. Cải ngọt tựa như người
bản Tẹo, sống bám vào đá,
nhưng vẫn mơn mởn, hắt xanh lên cả nền
trời.
Đứa con của Thương được
ăn dặm bằng canh cải ngọt.
Rồi mùa cải ngọt cũng hết, con chim
đậu tạm muốn trở về chốn cũ.
Ngập ngừng mãi Thương mới đủ
can đảm thốt lời:
- Bố ơi ! Bố cho phép con đưa
cháu về quê.
Thương nói mà mặt cúi gằm xuống
đất, mắt chẳng dám nhìn thẳng
lão Nhân. Lão nén tiếng thở dài.
Lão biết, trước sau chuyện này cũng
đến, nhưng lão mong nó xảy ra càng
muộn càng tốt. Lão đã quen với tiếng
con trẻ khóc trong nhà, quen gót chân hồng
bé xíu đạp vào ngực, quen đôi
mắt đen láy, lanh lợi chăm chú theo
dõi tìm hiểu thế giới xung quanh của
nó. Thương đưa con đi, lão buồn hụt
hẫng. Nhưng lão không thể giữ
Thương lại được. Con chim đã đến
lúc trở về tổ của nó.
Lão Nhân
làm cơm chia tay. Thương ngăn vì không
muốn lão vất vả thêm. Lão giải
thích: "Cũng là làm lý để cảm
ơn nghĩa cứu mạng của người bản Tẹo".
Bản Tẹo chiều nay không nhà nào
khơi bếp củi, tất cả được mời
đến nhà lão Nhân ăn tối. Bữa
cơm được dọn dưới gốc cây mận,
dưới trăng. Đuốc nứa cắm xung quanh,
sáng như đêm hội. Bát ăn, chén
uống được tiện từ thân tre, thân
vầu. Thức ăn bày trên lá chuối. Nhiều
món ngon quá ! Tính ra, bữa ăn này
đủ cho lão Nhân sống cả năm. Cổ
họng Thương nghẹn, nuốt không nổi.
Lão Nhân đã vì mẹ con Thương
quá nhiều. Thương nợ lão Nhân, nợ
người bản Tẹo.
Tinh mơ hôm sau, khi sương còn đắp
chăn cho bầu trời, chim còn ngái ngủ
chưa cất tiếng, lão Nhân lếch thếch
đưa mẹ con Thương ra thị trấn. Lối
mòn quanh co ướt nhẹp sương. Thương
địu con đi trước. Lão Nhân làm
con ngựa thồ đồ trên lưng đi phía
sau. Suốt quãng đường, Thương và
lão Nhân đều lầm lũi, im lặng.
Trước khi xe chuyển bánh, Thương
nói gọn một câu:
- Con sẽ trở lại đón bố !
Lão Nhân cười, nụ cười
méo xệch.
- Không cần đâu con ạ ! Ta sinh ra tại
bản Tẹo, cũng sẽ chết tại bản Tẹo
thôi.
Mận chín nẫu rụng. Quạ về kêu
ngọn cây. Một thời gian ngắn sau, lão
Nhân qua đời. Lão nằm ngửa trên chiếc
giường có chân làm từ chạc cây
mận, tay bắt chéo trên ngực, thanh thản
như ngủ, môi héo phảng phất nụ
cười. Đám tang lão không hề có
tiếng khóc. Chỉ có người than: Nếu
lão Nhân không vắt kiệt sức nuôi
người dưng thì chắc còn sống
được lâu hơn nữa.
Vườn mận già cổ bỏ hoang.
* *
*
Mười mùa xuân, hạ, thu, đông
qua đi. Người bản Tẹo hầu như
đã quên toàn bộ chuyện về lão
Nhân và mẹ con cô gái. Mộ của
lão Nhân giờ mọc đầy lau lách,
như mộ vô chủ, quanh năm không một
nén hương. Trẻ chăn trâu thường
hay qua, vẫn ngỡ đó chỉ là mô đất
nhỏ.
Một ngày đẹp trời, hây hẩy
gió xuân, hoa mận nở trắng như tuyết
phủ đầy những mảnh vườn bản Tẹo,
có một chiếc xe hơi sang trọng men theo con
đường gập ghềnh đi vào bản. Xe dừng
lại trước nền ngôi nhà cũ của
lão Nhân. Từ trên xe bước xuống một
người phụ nữ và một đứa trẻ
chừng chục tuổi. Khi nhìn thấy cảnh nền
cũ cỏ hoang, không dấu hơi người,
gương mặt người phụ nữ thật sự
thất vọng, đôi bàn tay xoắn chặt
vào nhau. Trong phút chốc, không gian lặng im.
Cái lặng im đó như sợi dây,
trói siết vào tim người phụ nữ. Cô
đưa hai tay ấp lên ngực như cố cởi
chiếc nút buộc vô hình.
Người phụ nữ dắt con đứng giữa
cỏ hoang, giữa mận dại, ngắm nhìn từng
chỗ rất kỹ, mong tìm hình ảnh của
mười năm trước.
- Bố Nhân ơi ! Con Thương về tìm
Bố đây ! - Cô nói bằng lời
trái tim.
Mười năm chờ đợi. Con chim
đã bay trở lại. Vâng. Người phụ
nữ đó chính là Thương. Gió lay
hoa mận. Cành hoa trắng sà xuống, chạm
vào má Thương. Thương ngắt một
bông cho vào miệng. Cô khẽ nhấm. Vị
hoa mận không đắng, không ngọt, chỉ
hơi chát, theo nước bọt trôi xuống cổ
họng.
Thương nói với con:
- Tẹo ơi ! Nhà ông ngoại là chỗ
này đấy. Con vẫn thắc mắc sao mẹ hay
gọi con với cái tên Tẹo xấu xí. Giờ
chắc con đã hiểu, Tẹo là bản Tẹo
chứ không phải là tí tẹo đâu.
- Ơ mẹ ! - Bé Tẹo ngạc nhiên - Con vẫn
được nghe bà ngoại kể là ông
ngoại chưa từng một lần bước chân
ra khỏi làng cơ mà ?
Thương xoa đầu con.
- Đúng thế đấy ! Nhưng con là một
đứa bé may mắn vì có hai ông ngoại
! Một ông ngoại đã sinh ra mẹ, còn một
ông ngoại nuôi hai mẹ con ta.
Người bản Tẹo đưa mẹ con
Thương thăm mộ lão Nhân. Họ men theo lối
nhỏ chênh vênh dẫn lên đồi. Lòng
Thương cũng chơi vơi, chênh vênh như
con đường nhỏ.
Đến nơi rồi. Mộ lão Nhân
đây ư ? Thương quỳ trước mộ.
Cô thẫn thờ, đầu óc mông lung. Lòng
người buồn nên cảnh sắc cũng man
mác buồn. Nắng xuân dường như
không phải thứ nắng tươi tắn, rực
rỡ, mà nhuốm màu vàng sậm gợi nỗi
buồn bao chùm cảnh
vật. Gió đồi hun hút. Cỏ lau cong
mình uốn cần câu, đung đưa. Chúng
vừa trải qua mùa đông, chưa kịp hồi
sinh, khô khong úa, lại càng khơi dậy
màu vàng buồn đẫm.
Thương thắp hương, thầm thì:
- Bố ơi ! Mọi thứ đã quá muộn,
con không còn kịp đền ơn tái sinh. Nhưng
Bố hãy yên lòng nơi chín suối,
trên thế gian này vẫn có một người
con luôn nhớ về Bố.
Khói hương bay theo những lời thì thầm.
Bé Tẹo chợt reo:
- Mẹ ơi, nhìn kìa !
Thương nhìn theo hướng cánh tay
bé Tẹo. Một đàn bướm hàng ngàn con bay đến.
Muôn màu, muôn vẻ. Chúng bay đan
vào nhau tạo thành chiếc cầu vồng bướm
lung linh. Thương từng nghe nói: Cầu vồng
là chiếc cầu nối để người khuất
về thăm người sống. Thương nghĩ: Chắc
hồn Bố linh thiêng, nghe được lời con
nên mới xuất hiện chiếc cầu vồng
bướm kỳ lạ.
Tàn tuần hương, Thương dắt con về.
Đi được một đoạn, cô còn ngoảnh
lại nhìn ngôi mộ. Cô thấy hình ảnh
lão Nhân đứng đó, bàn tay vẫy
giữa muôn cánh bướm, môi mỉm cười.
Trông lão chẳng hề già đi chút
nào. Nắng xuân lúc này dường
như lại vàng tươi rực rỡ.
Thương cùng con gái ở lại bản
Tẹo thêm mấy ngày. Cô xót xa. Cái
nghèo bản Tẹo không khác mười
năm trước là mấy: Vẫn những cơn
khát nước kinh niên vào mùa khô; vẫn
lớp học mẫu giáo được dựng bằng
gianh, tre, nứa, xập xệ đến mức không
tin nổi; ... chỉ có hoa mận là nở trắng
xoá. Thương ra thị trấn mua rất nhiều
quần áo, đồ chơi và kẹo chia cho con
trẻ trong bản.
Những ngày ở lại, Thương thuê
người xây mộ cho lão Nhân. Chưa bao giờ
dân bản Tẹo nhìn thấy một ngôi mộ
được xây đẹp đến thế. Họ
lại có chuyện để kháo nhau:
"Không ngờ, đời lão Nhân sau
cùng thật có hậu".
Mẹ con Thương tạm biệt bản Tẹo. Hoa
mận vẫn trắng phau dù đã bắt đầu
lác đác kết trái non. Trên con
đường trở về, đất trời lồng
lộng gió xuân, cỏ cây mơ giấc mơ
màu xanh. Bản Tẹo khuất dần rồi xa hẳn.
Nhưng chỉ là tạm xa thôi. Thương biết,
mình còn nặng lòng với mảnh đất
nơi này lắm.
VƯƠNG
HÀ
(Phạm
Hồng-Trần nhặt được trên Net)