THẰNG
CHÁU NỘI ĐÍCH TÔN
(Nguyễn
Vĩnh Long Hồ)
Trước
năm 1975. Cha tôi là thầy giáo, dạy tại
một trường tiểu học ở quận Cái
Răng thuộc tỉnh Phong Dinh. Chú Ba, em ruột của
cha tôi, là phi công loại phi cơ quan sát
L19, căn cứ không quân đóng tại phi
trường Bình Thủy, cách thị xã Cần
Thơ khoảng 4 cây số.
Sáng ngày 30 tháng 4
năm 1975. Chú Ba lái xe jeep xuống chợ quận
Cái Răng gặp cha mẹ tôi tại nhà.
Trông chú có vẻ khẩn trương,
nhìn cha tôi, nói:
-
“Sớm hay muộn gì Cộng Sản Bắc Việt
sẽ nhuộm đỏ Miền Nam Việt Nam. Nếu
như, Miền Nam Việt Nam lọt vào tay quân Cộng
Sản Bắc Việt. Em sẽ bay sang Thái Lan rồi
qua Mỹ tỵ nạn. Em sẽ tìm cách liên
lạc với gia đình sau. Anh chị Hai hãy an
tâm !”
Thấy
tôi đang đứng xớ rớ bên cạnh cha,
chú hỏi:
-
“Nếu anh chị Hai đồng ý ! Em sẽ
đưa thằng Bỉnh sang Hoa Kỳ. Em hứa sẽ
lo cho nó ăn học đến thành tài. Anh
chị nghĩ sao ?”
Cha
quay sang mẹ tôi, hỏi:
-
“Ý kiến của chú Ba cũng tốt
đó ! Còn ý của bà thế nào
?”
Nhưng,
mẹ tôi có vẻ e ngại, nói:
-
“Tôi đồng ý với ông và
chú Ba. Nhưng mà,” mẹ tôi ngập ngừng,
nói. “Thằng Bỉnh chưa đầy 11 tuổi.
Tôi chỉ sợ, nó sẽ là gánh nặng
cho chú Ba thôi !”
Chú
Ba nói:
-
“Anh chị bằng lòng là được rồi!
Nhưng, việc nầy còn phải tùy cháu nữa
!” rồi chú Ba quay sang, hỏi tôi: “Sao,
cháu có muốn đi máy bay theo chú sang Mỹ
học hành không nào ?”
Tôi
nghe nói đi máy bay là khoái chí tử
rồi, gật đầu chịu liền; vì lúc
đó, tôi đâu có biết nước Mỹ
cách xa đất nước tôi gần nửa
vòng trái đất. Trong lúc mẹ lo thu xếp
đồ đạc của tôi cho vào cái
túi xách. Tôi thấy cha bảo chú đứng
trước bàn thờ tổ tiên, thắp một
nén nhang cắm lên lư hương, rồi trịnh
trọng nói với chú tôi:
-
“Anh chị Hai bằng lòng gởi thằng Bỉnh
cho chú. Nhưng, chú phải hứa với tổ
tiên nhà họ Huỳnh một chuyện.”
Chú
Ba hỏi:
-
“Thưa anh Hai, hứa chuyện gì mới
được chớ ?”
Cha
tôi nói:
-
“Chú phải phải nhắc nhở thằng Bỉnh
rằng, khi nó trưởng thành phải ghi
tâm, khắc cốt điều nầy: “Hấp thụ
một nền giáo dục và khoa học kỹ thuật
của Hoa Kỳ không
phải để trở thành người Mỹ
mà phải biết áp dụng sở học
đó để thăng hoa nền Văn hóa -
Giáo dục truyền thống của dân tộc Việt
Nam, sẵn sàng dấn thân giúp Quốc Gia -
Dân Tộc mình sau nầy,” cha tôi nói
tiếp. “Chú hãy nhớ rằng, không
có một chế độ chính trị nào tồn
tại vĩnh viễn, chỉ có Tổ Quốc
và Dân Tộc Việt Nam là trường tồn
mà thôi ! Gia đình anh Hai đặt hết
kỳ vọng nơi chú Ba đó !”
Chú
Ba trả lời một cách dứt khoát:
-
“Trước bàn thờ tổ tiên nhà họ
Huỳnh ! Em hứa sẽ làm tròn trách nhiệm
đối với gia tộc và anh chị.”
Thế rồi vài giờ
sau đó. Sau khi nghe Tổng thống Dương
văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều
kiện trước lực lượng vũ trang Cộng
Sản Bắc Việt. Chú Ba cùng một người
bạn đưa tôi lên chiếc phi cơ L19, cất
cánh rời phi đạo vào lúc 11 giờ
trưa, từ phi trường Bình Thủy bay thẳng
sang Thái Lan. Phi trường Utapao là trạm dừng
đầu tiên trên bước đường
lưu vong, trước khi được đưa sang Hoa
Kỳ định cư ...
Mười
tám năm sau, vào mùa xuân năm Quí Dậu
1993. Trong lúc tôi đang phục vụ trong Hải
Quân Hoa Kỳ với cấp bực Đại úy
trong ngành Quân Y. Vâng lệnh cha mẹ ở
quê nhà và chú, tôi thành hôn với
cô Lê Tú Quyên, con gái đầu
lòng của bạn chú Ba. Một năm sau
đó, chúng tôi đã có một
đứa con trai đầu lòng thì má
tôi cũng qua đời.
Mùa
Đông năm 2005. Cháu Huỳnh Quật Cường
vừa tròn 11 tuổi. Và cũng cuối năm
đó, tôi rời quân ngũ. Trong thời gian
nghỉ xả hơi, tôi dự định đưa
thằng cháu nội đích tôn của cha
tôi về Việt Nam cho ông nội thấy mặt,
ít nhứt cũng một lần. Tôi nghĩ cha
tôi cũng già yếu lắm rồi, không biết
cha đi sum họp với mẹ lúc nào.
Vừa hay tin tôi quyết
định đưa con về Việt Nam, ăn Tết
Nguyên Đán Bính Tuất 2006 với gia
đình bên nội. Nhạc mẫu tôi từ
Cali gọi sang Maryland chất vấn:
-
“Con đưa thằng Cường về Việt Nam
thăm ông nội của nó ! Tại sao con
không dẫn vợ con cùng đi chớ ?”
Tôi
trả lời:
-
“Thưa má, vợ con cũng muốn đi lắm!
Nhưng, Quyên về Việt Nam vào lúc
này chưa thuận tiện thôi, má à
!”
Bà
nói:
- “Sao
kỳ vậy cà ? Đâu, bảo vợ con
nói chuyện với má coi nà !”
-
“Dạ được, má chờ chút nghe
!”
Tôi
trao điện thoại cho vợ tôi đang đứng
bên cạnh. Quyên lên tiếng:
-
“Alô ! Con đây ! Má đó hả
?”
-
“Ừ, má đây ! Sao, con không đi Việt
Nam cùng với cha con thằng Bỉnh để
thăm cha chồng con một lần cho biết, để
nó đi một mình nguy hiểm lắm !”
-
“Con mới nhận được một cái
“Job” mới rất thơm, làm việc trong
cơ quan chánh phủ chưa đầy hai tháng,
làm sao con rời nhiệm sở được chớ
?” Vợ tôi làm ra vẻ ngây thơ, tiếp.
“Ảnh đi với con hay một mình cũng vậy
thôi ! Có gì nguy hiểm đâu hả,
má ?”
Bà lo lắng, nói:
-
“Tại con không muốn biết thôi! Có mấy
khứa lão ở Cali, tuổi gần đất xa trời
mà cũng sanh tật, bỏ vợ bỏ con, chạy
theo đào nhí ở Việt Nam, tuổi
đáng con đáng cháu của mình
đó, con gái à !”
Nàng
trấn an bà:
-
“Má an tâm đi ! Chồng con không phải
hạng người như vậy đâu; vả lại,
con đã sắp đặt kế hoạch hết rồi.
Vừa đến phi trường Tân Sơn Nhất, cậu
Năm sẽ đích thân "hộ tống"
hai cha con ảnh về nhà ngay lập tức. Sáng
hôm sau, cậu sẽ "dẫn độ" hai cha
con ảnh về Cái Vồn, giao cho cha chồng con ngay.
Má đừng có lo gì hết. OK?”
Bà
có vẻ an tâm, nói:
-
“Con nói vậy, má cũng an lòng ! Hôn
thằng cháu ngoại cưng của má một
cái. Bye, bye các con và thằng Cường nghe
!”
Chỉ còn một
ngày nữa là sáng mai bước lên
máy bay. Bà xã tôi dặn dò đủ
thứ thập cẩm, nào là: “Về
Sài Gòn tuyệt đối không ăn óc
khỉ sống, bò cạp, kỳ tôm, cá sấu,
rắn rết ... nghe chưa ?”, “Cấm vào
các quán bia ôm, ngủ ôm; tóm lại,
dịch vụ nào có gái ôm để phục
vụ là cấm triệt để !”, “Cho con
đi ngủ đúng giờ!”, “Đừng
cho nó tắm sông !”, “Nhắc cha phải uống
thuốc mỗi ngày đó nghen !”... làm
tôi cũng bực mình, phát cáu. Tôi trả
lời:
-
“Đã bảo nhớ rồi mà ! Nhắc
đi nhắc lại mãi hoài vậy má
nó !”
Cả
đêm tôi trằn trọc, thấp tha, thấp thỏm
.. Quá nửa đêm về sáng, vừa mới
thiu thỉu ngủ là cái đồng hồ
báo thức reo lên inh ỏi. Tôi bật
đèn ngồi dậy, ngáp dài. Mới
đó, mà đã 4 giờ sáng rồi .. Vậy
là mất toi một đêm, rồi tôi tự
an ủi: “Thôi, sáng mai lên máy bay ngủ
tiếp !”
Đúng
5 giờ sáng ngày thứ tư 25/1/2006. Đến
hẹn, thằng bạn thân lái xe đến
nhà, đưa hai cha con tôi ra phi trường quốc
tế Dulles ở Virginia. Tôi đáp máy bay
hãng All Nippon Airways. Máy bay cất cánh rời
phi đạo lúc 10 giờ sáng đi Tokyo. Và
từ đó bay đi Tân Gia Ba để đổi
máy bay về Sài Gòn. Chuyến máy bay mang
số 742 của hãng hàng không VietNam Airlines cất
cánh từ phi trường Tân Gia Ba đưa
chúng tôi vào không phận Việt Nam
vào lúc 11 sáng 27/1/2006 giờ VN. Sau khi
hoàn tất thủ tục nhập cảnh, tôi dẫn
thằng con ra ngoài sân phi trường Tân
Sơn Nhất. Gia đình cậu mợ Năm của
bà xã tôi đang sốt ruột chờ
tôi bên cạnh chiếc xe van. Tôi nhận diện
cậu Năm dễ dàng nhờ tấm ảnh mang
theo. Cậu bảo bác tài lái xe đưa
chúng tôi đi một vòng thành phố
Sài Gòn để xem chợ Tết. Ngồi
trên xe, tôi bấm máy lia lịa. Nhìn
dòng xe gắn máy đủ loại phân khối
phun khói mù mịt, bóp kèn inh ỏi
làm tôi choáng ngộp. Sau đó, tôi mời
tất cả mọi người dùng cơm trưa tại
nhà hàng Đồng Khánh, rồi đưa
tôi về nhà cậu ở Tân Định ngủ
qua đêm, mặc dù trái giờ giấc,
nhưng hai cha con tôi vẫn ngủ say như chết
vì đi đường xa mỏi mệt.
Vào
khoảng 8 giờ sáng ngày 28/1/2006. Cậu Năm
đánh thức chúng tôi dậy để chuẩn
bị lên đường về quê cho kịp
đón giao thừa với gia đình. Ăn điểm
tâm qua loa vừa xong, chiếc xe van do cậu mướn
cũng vừa dừng trước cửa. Tôi lấy
mấy cái bao “lì xì” màu đỏ
của Quyên đã chuẩn bị sẵn để
biếu mấy em, con của cậu mợ Năm, và cả
bác tài xế để lấy lộc đầu
năm.
Lúc
xe leo dốc cầu cầu Mỹ Thuận, bác
tài hỏi tôi:
-
“Ở bên Mỹ có cây cầu nào
"vĩ đại" bằng cây cầu Mỹ Thuận
nầy không hả cậu ?”
Tôi
chỉ cười không trả lời. Cậu Năm
nói:
-
“Nhưng, cũng nhờ cây cầu nầy mà
cuộc hành trình về Miền Tây
đã rút ngắn được ít nhất
cũng được vài ba tiếng đồng hồ.”
Thật
vậy, khoảng 11 giờ trưa. Chiếc xe van
đã đưa chúng tôi vào thị
xã Vĩnh Long, rồi theo quốc lộ 1A để
đi về Cái Vồn là quê nội của
tôi. Khi xe chạy qua thị trấn Ba Càng, rồi
đến cầu Rạch Mút và khi vừa vượt
qua cầu Cái Vồn Lớn thì cậu Năm bảo
tài xế ngừng lại ở dãy quán cóc
bên đường.
Cha
tôi và một người chú họ đang
nóng ruột ngồi trong quán chờ. Rời
quê hương gần 31 năm, đây là lần
đầu tiên tôi gặp lại cha. Tôi rất
ngạc nhiên, tuổi đời của cha ngoài thất
tuần, nhưng trông người vẫn còn
khá khỏe mạnh, đôi mắt vẫn còn
tinh anh. Hai cha con ôm nhau mà nước mắt chảy
ràn rụa.
Thằng
Cường nhìn ông nội, rồi ngơ
ngác hỏi tôi:
-
“Who is he, daddy ?”
Tôi
trả lời:
-
“He is your grandpa !”
Thằng
Cường chìa tay ra bắt tay ông nội, theo lối
xã giao phương Tây:
- “Hello, Grandpa ! How are you
doing !”
Cha
tôi nhìn thằng cháu đích tôn
trân trối, nét thất vọng hiện rõ
trên gương mặt già cỗi của người
.. Cha tôi nói, giọng bất mãn ra mặt:
-
“Bộ thằng con mầy không biết kêu
ông nội bằng tiếng Việt sao hả, Bỉnh
?”
Tôi
mỉm cười, nói:
-
“Con là công dân Mỹ, phải làm nghĩa
vụ đối với đất nước đã
cưu mang người tỵ nạn Việt Nam, còn vợ
con đi làm suốt ngày, đến tối
mò mới về nhà. Làm sao tụi con có
thì giờ dạy nó nói tiếng Việt. Cha
thông cảm cho tụi con đi !”
Sau khi
biết sự thật khá phũ phàng. Cha tôi
mất thiện cảm đối với thằng
cháu nội đích tôn và ngậm
ngùi nói:
-
“Cha cầm bằng kể như không có thằng
cháu nội đích tôn nầy đi ! Làm
người Việt Nam mà không biết nói tiếng
mẹ đẻ là người vong bản. Lớn
lên, nó lấy một con vợ Mỹ, rồi
đẻ ra một lô con lai Mỹ, thế là mất
gốc luôn !”
Cậu
Năm nói an ủi:
-
“Thôi, đừng buồn mà anh Giáo ! Thằng
cháu nội đích tôn của anh nó sanh ở
bên Mỹ, ăn đồ Mỹ, học trường
Mỹ thì nó phải nói tiếng Mỹ
là đúng rồi ! Có trách là
trách người lớn kìa, như con mẹ
Năm bán cá ở chợ Cầu Ông
Lãnh, mới bỏ nước ra đi theo diện ODP
được năm, sáu năm gì đó,
mà khi trở về nước đã quên hết
tiếng Việt, đi đâu cũng dẫn con em theo
tò tò để làm “thông dịch
viên”. Thế mới là dị hợm chớ
!”
Cha
nhìn tôi, hỏi:
-
“Con về thăm Việt Nam, định ở chơi
với cha bao lâu ?”
Tôi
thưa:
-
“Dạ, đúng một tuần lễ ! Mùng 8
con trở lên Sài Gòn, mua sắm một
ít quà tặng gia đình và bè bạn.
Mùng 10, con và thằng Cường lên máy
bay trở qua Mỹ. Con còn phải lo công ăn việc
làm. Sau khi việc làm ổn định, con hứa
năm sau sẽ về thăm cha và sẽ ở
lâu hơn.”
Cha hỏi
về chú tôi:
- “Còn chú
thím Ba mầy dạo nầy thế nàỏ Sao,
không cùng về Việt Nam cho cha gặp mặt
?”
Tôi
nói:
-
“Về Việt Nam đi bằng đầu gối,
còn phải nạp tiền hối lộ cho tụi
công an Hải quan ở phi trường. Chú Ba dứt
khoát không trở về Việt Nam đâu, cha
ơi !”
Cha
tôi hỏi:
-
“Còn con thì sao ? Có hối lộ cho tụi
nó không ?”
Tôi
trả lời bằng sự thật:
-
“Có chớ sao không, cha ! Ai sao mình vậy
mà; vả lại, con không muốn họ bắt chẹt,
làm khó dễ tháo tung hành lý, lục
lọi quà cáp của con đem về biếu cha
và bà con mình.”
Cậu
Năm nhìn đồng hồ, rồi đến bắt
tay cha và tôi, chào từ giã:
-
“Bây giờ tôi phải trở về Sài
Gòn để còn kịp cúng giao thừa.
Sáng mùng tám, khoảng giờ nầy, tôi
sẽ có mặt tại đây để
đón hai cháu về Sài Gòn.”
Chờ
khi chiếc van nổ máy, quay trở về hướng
Sài gòn. Cha dẫn tôi và thằng Cường
xuống bờ rạch Cái Vồn Lớn, một chiếc
ghe tam bản có gắn máy đuôi tôm
đang cắm sào dưới chân cây cầu dừa.
Chờ mọi người xuống ghe xong, người
chú họ cho nổ máy, chiếc ghe tam bản lồng
lên, cất mũi, chạy ngược về phía
trong rạch Cái Vồn. Hai bên bờ rạch với
những xóm nhà lá mọc san sát bên
nhau, nhà nào cũng đào mương,
lên liếp, lập vườn trồng cây ăn
trái; thỉnh thoảng, mới thấy vài căn
nhà ngói ba gian của các điền chủ
thời xa xưa. Thằng Cường nằm trong khoang
ghe, gối đầu lên cái xách tay ngủ
vùi. Còn cha tôi ngồi xếp bằng trước
mũi ghe yên lặng, ánh mắt đăm
chiêu nhìn dòng sông cuộn chảy; thỉnh
thoảng, người lại thở dài ... Tánh
cha tôi bảo thủ, người thất vọng
vì thằng cháu đích tôn vong bản,
không biết nói tiếng Việt. Còn tôi,
len lén nhìn cha rồi nhớ đến người
mẹ kính yêu đã quá vãng mà
nước mắt bỗng trào ra.
Từ
khi rời Việt Nam vào lứa tuổi thằng
Cường cho mãi đến bây giờ, tôi mới
có dịp ngồi trên chiếc ghe tam bản di chuyển
trên dòng sông. Con rạch Cái Vồn
làm tôi nhớ quá khúc sông Cần
Thơ, đoạn chảy qua cầu Cái Răng đến
vàm sông Ba Láng. Hồi đó, vào những
mùa trăng thơ mộng, cha mẹ tôi thường
dẫn tôi xuống chiếc ghe tam bản của
chú Khai - người lái đò dọc -
mướn chú ấy chèo ghe dọc theo sông Cần
Thơ để ngắm trăng. Cha mẹ tôi rất
tâm đầu ý hợp, cả hai người
đều có tâm hồn nghệ sĩ và rất
yêu thích Truyện Kiều của đại thi
hào Nguyễn Du. Bản thân tôi cũng
được dạy cho những kinh sống rút ra từ
Truyện Kiều. Cha thường khuyên bảo:
“Làm người phải giữ sao cho cái
“TÂM” của mình luôn trong sáng,
vì chữ “TÂM” kia mới đích thực
bằng ba chữ “TÀI” đó con !” hoặc
“Có tài mà cậy chi tài / Chữ
tài liền với chữ tai một vần.” Trong
lúc chiếc ghe hơi chòng chành, lướt
sóng theo nhịp chân của người lái
đò dọc, cha thường ngồi trước mũi
ghe thổi sáo để mẹ ngâm Truyện Kiều
cho cha tôi thưởng thức ...
Khoảng
một giờ sau, chiếc ghe tam bản đã
vào địa phận xã Thuận An, quận
Bình Minh. Cha tôi nói: “Đến nhà rồi
đó con ! Đánh thức thằng Cường dậy.”
Tôi
nhìn lên trên bờ, thấy các chú
bác, cô dì, bà con hai bên nội ngoại
trên mươi người, đứng dọc theo con
rạch Cái Vồn, trước căn nhà
hương hỏa lợp ngói đỏ, gồm
có ba gian để đón cha con tôi. Nhìn
cái thân xác đồ sộ của tôi:
cao gần 1 mét 80, nặng trên 190 pounds. Ai cũng lắc
đầu, cười, nói đùa với cha
tôi:
-“Chắc
thằng Bỉnh qua Mỹ, uống sữa ... voi, sao
mà nó bự con quá nè trời !”.
Một
bà cô nhìn thằng Cường, hỏi :
-
“Cháu tên gì ? Mấy tuổi rồi
?”
Thằng
Cường nghe hỏi, nó trố mắt nhìn rồi
lắc đầu, đáp:
-
“I’ m very sorry! I
don’t understand what you say !”
Cha
tôi ngó thằng Cường, rồi nhìn
tôi như thầm trách, nói :
-
“Thằng cháu nội đích tôn của
tôi mất gốc rồi chị Tám ơi ! Nó
có nói được tiếng Việt đâu
mà hỏi nó làm gì cho mệt chớ !
Mà thôi, tôi mời tất cả bà con
vô nhà, dùng với tôi một bữa tiệc
tất niên đạm bạc, để mừng gia
đình cha con chúng tôi đoàn tụ trong
dịp Tết Bính Tuất.”
Vừa
bước chân vào trong nhà, hai cha con tôi
thắp nén nhang thơm trên bàn thờ tổ
tiên và quỳ lạy trước di ảnh của
mẹ. Trên cái bàn tròn kê giữa
nhà, mọi người trong nhà lo sắp
chén đũa, một cái lẩu mắm kho
và rau sống đủ loại, một cái nồi
cơm còn đang bốc khói nghi ngút. Mắm
kho và rau là món ăn khoái khẩu nhất
của tôi từ thuở còn tắm truồng. Cha
mời mọi người ngồi vào bàn. Hai cha
con tôi ngồi bên phải và trái của
cha già. Thằng Cường ngửi thấy mùi mắm
kho là nó làm bộ nhăn mặt, lấy tay
bịt mũi làm cha tôi giận tái mặt. Bỗng
thấy con ruồi xanh từ đâu bay vào đậu
trên bàn, nó lật đật nhảy xuống
ghế, chạy đến ôm tôi cứng ngắc,
sợ hãi, hét lớn:
-
“Daddy ! Blue bee scares me !”
Mọi
người trên bàn tiệc cười ầm
lên. Đến nước nầy, cha tôi dằn cũng
hết nổi, quát:
-
“Thằng nhóc con ! Con ruồi xanh chớ không
phải con ong đâu mà mầy sợ !”
Thấy
ông nội nổi giận, nó lấm lét
nhìn tôi như ngầm hỏi ý. Tôi
bèn mỉm cười, nháy mắt, thầm nhắc
tuồng cho nó. Thằng Cường hiểu ý, trở
về chỗ ngồi. Bất ngờ, nó cầm chai
rượu đế “Song Phú” rót
vào cái ly xây chừng, hai tay kính cẩn
dâng lên ông nội, rồi xổ một
câu tiếng Việt rành rọt, đúng giọng,
làm cha tôi chưng hửng:
-
“Con kính dâng ông nội một ly ! Con cũng
nhậu với ông nội xả láng, sáng về
sớm ! Nhậu không say không trở về Mỹ
!”
Cha
tôi sửng sốt, nghe thằng Cường bật
nói được tiếng Việt, cha mừng đến
chảy nước mắt. Người ngửa mặt
lên trần nhà, cười ha hả một
cách sảng khoái, rồi nói:
-
“Cháu nội đích tôn của nhà họ
Huỳnh ta, ít ra phải như vậy mới
được chớ !”
Thằng
Cường nó mang một kho pháo từ Mỹ về
nước, chờ dịp nổ với ông nội.
Nó nói:
-
“Ông học giả Phạm Quỳnh có
nói rằng: “Truyện Kiều còn, tiếng
Việt còn. Tiếng Việt còn, nước Việt
Nam mình còn”. Bây giờ, con đọc một
đoạn Kiều gồm 4 câu, có đủ ba thứ
tiếng: Việt, Hoa và Mỹ cho ông nội
thưởng thức.
Cha
tôi không tin, nói:
-
“Đâu, con đọc thử cho mọi người
nghe coi ! Con mà đọc được, muốn
đòi cái gì ông nội cũng thưởng
hết !”
Thằng
Cường nắm tay nội, nói:
-
“Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy,
à nghen ông nội !”
Cha
tôi khoái chí, xoay người lại, nhìn
lên bàn thờ như khoe với mẹ tôi:
-
“Bà nó ơi ! Thằng cháu nội
đích tôn của mình nó biết đọc
thơ Kiều, còn xài cả chữ Nho với tui
nữa nè bà !”
Tôi
nói với thằng con:
-
“Thôi, đọc Kiều cho ông nội thưởng
thức coi.”
Nó
tằng hắng lấy giọng, lên gân cổ,
đọc:
-
“Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua
thắm, liễu hờn kém xanh/ Một, hai nghiêng
nước nghiêng thành/ Sắc đành
đòi “dách”, tài đành họa
“two”....”
Nó
sợ ông nội không hiểu, liền giải
thích:
-
“Tiếng Hoa “dách” là “một”;
còn tiếng Mỹ “two” là “hai”.
Ông nội thua con rồi !”
Cha
tôi chỉ chờ có vậy, người ôm thằng
cháu nội lạc loài vào lòng mà
hai hàng nước mắt chan hòa vì vui mừng.
Cha mắng yêu:
-
“Tổ cha mầy ! Chơi chữ với ông Nội
đó hả ? Ừ, nội chịu thua rồi
đó ! Con muốn nội thưởng cái
gì đây ?”
Thằng
Cường bá cổ, hôn lên má của
ông nội một cái chụt, nói:
-
“Hồi sáng đến giờ, ông nội
xài xể con te tua. Bây giờ, phải "bù
lỗ" cho con. Hôn con 10 cái đi, ông nội
!”.
Trong
lòng tràn đây hân hoan và sung sướng,
cha tôi hôn chùn chụt lên hai má
nó như hôn tôi lúc còn bé, rồi
mời mọi người cầm đũa. Thằng
Cường nó ăn mắm và rau như
điên. Nó lua luôn một hơi 3 chén
cơm còn khen mắm kho ngon hết xẩy, trước
con mắt ngạc nhiên của mọi người.
Sau bữa
cơm đạm bạc, cha tôi vuốt tóc thằng
Cường, hỏi:
-“Ai
dạy con mấy câu thơ Kiều vậy, Cường
?”
-“Dạ,
Ba má dạy con mấy câu thơ Kiều để
về Việt Nam đọc cho nội nghe chơi. Ba
má còn dạy con đọc, viết tiếng Việt
và cả lịch sử nước Việt Nam. Sau khi
trở qua Mỹ, con sẽ viết thơ thăm ông bằng
tiếng Quốc Ngữ để cho ông vui,” thằng
Cường còn khoe. “Ông chú còn dạy
con võ Vovinam Việt Võ Đạo nữa
đó !”
Sáng
mùng 1 Tết Nguyên Đán Bính Tuất. Tất
cả con cháu tụ họp nơi căn nhà
hương hỏa, trước để làm lễ
cúng gia tiên và sau đó chúc Tết
cha tôi. Thằng Cường vận võ phục
Vovinam Việt Võ Đạo, lưng thắt đai trắng.
Mừng tuổi ông nội xong, nó nói:
-
“Tết không có lân múa. Con xin biểu
diễn võ thuật cho ông nội, các ông
bà, cô dì, chú bác thưởng thức.”
Nói
xong, thằng Cường bước ra giữa nhà,
cúi đầu chào mọi người theo nghi thức
con nhà võ, rồi bắt đầu thi triển
quyền pháp, cước pháp . Cha tôi say
sưa nhìn thằng Cường ra đòn tấn
công địch nhanh lẹ, thế thủ gọn chắc
và đôi lúc nhào lộn để
tránh đòn và phản đòn vô
cùng linh hoạt. Cuộc biểu diễn chấm dứt,
mọi người vỗ tay tán thưởng nhiệt
liệt. Cha tôi ôm thằng Cường vào
lòng, hỏi:
-
“Con học võ để đánh lộn với
tụi Mỹ con, phải không Cường ?”
Thằng
Cường lắc đầu, đáp:
-
“Con luyện võ Vovinam vì lòng kiêu
hãnh và lòng tự hào về tinh thần
bất khuất của dân tộc Việt Nam mình,
chớ không phải để đánh lộn
đâu !”
Lời
nói đó, làm cha tôi sung sướng
đến nhỏ lệ. Tôi lấy bàn tay lau những
giọt nước mắt yêu thương, trân
quý đó như để nó thấm
vào máu thịt, cuộn chảy mãi trong
dòng máu Việt Nam của tôi ...
Nguyễn Vĩnh
Long Hồ
(Đỗ
Thị Minh Giang sưu tầm và chuyển)