Cần
giáo dục về sự
xấu hổ
(Nguyễn
Hưng Quốc)
Từ
năm 1945, đặc biệt từ năm 1954, người Việt
Nam, nhất là ở miền Bắc và sau
đó, từ năm 1975, trong cả nước,
không ngớt được/bị giáo dục về
lòng tự hào.. Tự
hào về bốn hay năm ngàn năm văn hiến.
Tự hào về tài đánh giặc, hết
giặc Tống đến giặc Minh, giặc Thanh, giặc
Chiêm, rồi cuối cùng, giặc Pháp và
giặc Mỹ.
Ngoài ra, người
Việt Nam còn tự hào về tài trí của
mình, bao gồm cả tài văn chương, với
những tên tuổi có thể làm lu mờ
truyền thống lừng lẫy của thời Tiền
Hán và Thịnh Đường bên Trung Quốc.
Tự hào. Lúc
nào cũng tự hào. Sách viết về
đất nước và con người Việt Nam
lúc nào cũng ánh lên vẻ sự tự
hào. Có những điều tự hào có
thực và cũng có không ít những
điều chỉ do tưởng tượng.
Câu
nói “ra ngõ gặp anh hùng” hay “nhiều
người ngoại quốc mơ ước sáng ngủ
dậy thấy mình là người Việt
Nam” được lặp lại lặp lại từ
học đường đến các phương tiện
truyền thông đại chúng.
Tuy
nhiên, theo tôi, đã
đến lúc nên có chính sách
giáo dục người Việt Nam về lòng xấu
hổ.
Thật
ra, nói “theo tôi” là một cách
nói hơi cường điệu. Rõ ràng,
tôi không phải là người đầu
tiên và càng không phải là người
duy nhất nói lên điều đó.
Trước, từ giữa
thập niên 1980, đạo diễn Trần Văn Thủy
đã nhấn mạnh vào nhu cầu giáo dục
lòng xấu hổ. Trong cuốn phim tài liệu Chuyện tử tế nổi
tiếng, Trần Văn Thủy
đã so sánh việc giáo dục tại Nhật
và tại Việt Nam:
“Trong
khi ở Nhật, một quốc gia tiến bộ và
giàu mạnh nhất châu Á, trẻ em luôn
được giáo dục là đất nước
của họ rất nghèo tài nguyên và bị
thua trận một cách nhục nhã, thì tại
Việt Nam, một quốc gia thuộc loại lạc hậu
và nghèo đói nhất trên thế giới,
trẻ em lại luôn được giáo dục một
cách đầy tự hào: tài nguyên
thì giàu có, lịch sử thì trực rỡ,
con người thì anh hùng, tài trí
thì vô song, v.v…
Cũng
trong thập niên 1980, sau Chuyện tử tế một
tí, trong bài “Nhìn từ xa… Tổ quốc”,
nhà thơ Nguyễn Duy
cũng nói đến hiện tượng “bội
thực tự hào”, hơn nữa, “ngộ
độc tự hào” của người Việt
Nam.
Ông
chỉ ra những điều nghịch lý:
“xứ
sở thông minh / sao thật lắm trẻ con thất học”,
“xứ sở thật thà sao thật lắm thứ
điếm”, “xứ sở cần cù / sao thật
lắm Lãn Ông (lười biếng)”, “xứ
sở bao dung / sao thật lắm thần dân lìa xứ”,
“xứ sở kỷ cương / sao thật lắm
vua / vua mánh - vua lừa - vua chôm - vua chỉa / vua
không ngai - vua choai choai - vua nhỏ”.
Nhưng
trên tất cả là
nghịch lý trong tuyên truyền, lúc
nào cũng “hát đồng ca”: “Ta
là ta mà ta vẫn mê ta”, trong khi
đó, trên thực tế, ai cũng biết:
"Thần tượng giả xèo
xèo phi hành mỡ
Ợ lên thum thủm cả tim
gan"
Tuy
nhiên, xin lưu ý: Trần Văn Thuỷ và
Nguyễn Duy không phải là những người
đầu tiên phê phán bệnh tự hào
và đặt vấn đề về nhu cầu
giáo dục lòng xấu hổ.
Ngay từ
đầu thế kỷ 20, các nhà nho cấp tiến
đã nhận ra được điều
đó. Trong các tác phẩm của mình, cả
Phan Chu Trinh lẫn Phan Bội Châu đều
nhiều lần nhấn mạnh đến cái ngu
và cái hèn của người Việt Nam.
Hãy thử đọc lại đoạn văn
này của Phan Chu Trinh:
“Nhân
dân nước Nam bây giờ, ngu xuẩn như
trâu như ngựa, tha hồ cho người ràng
trói, cho người đánh đập, có miệng
mà không dám kêu, gần chết mà
không dám than thở.” (Trích theo Đặng
Thai Mai, Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu
thế kỷ 20, nxb Văn Học, Hà Nội, 1974, tr.
85).
Việt
Nam hiện nay là một quốc gia độc lập.
Tuy nhiên, trên rất nhiều phương diện,
so với mặt bằng chung của thế giới cũng
như so với chính tiềm năng và tiềm lực
mà chúng ta có, có rất nhiều điều
khiến chúng ta phải xấu hổ.
Cần
xấu hổ về trình độ phát triển
của Việt Nam hiện nay vốn rất thấp
không những so với thế giới mà còn
so với cả các quốc gia láng giềng của
chúng ta ở châu Á.
Cần
xấu hổ về khoảng cách giàu nghèo
phi lý và bất nhẫn giữa thành thị
và nông thôn, giữa cán bộ và
người lao động bình thường không
có quyền thế và thân thế.
Cần
xấu hổ về tinh thần vô kỷ luật, thậm
chí, rất kém văn hoá nhan nhản khắp
nơi, từ công tư sở đến ngoài
đường phố, từ cách làm việc
đến cách đi lại.
Cần
xấu hổ về sự hoành hành của nạn
tham nhũng ở mọi cấp..
Cần
xấu hổ về những cách hành xử của
nhà cầm quyền: nhu nhược đối với
nước ngoài, đặc biệt với Trung Quốc,
nhưng lại độc tài và tàn bạo
ngay với những người tha thiết nhất đối
với chủ quyền và sự toàn vẹn của
Việt Nam.
Theo
tôi, không chừng xấu hổ nên được
xem là một đức hạnh cần thiết nhất
hiện nay.
Trong
chừng mực nào đó, có thể
nói, người Việt Nam hiện nay nên
được chia thành hai loại: Loại biết xấu
hổ và loại không biết xấu hổ.
Giận
thay, chính những kẻ không biết xấu hổ
ấy lại đang không ngừng rao giảng chân
lý, công lý và đạo lý.
NGUYỄN
HƯNG QUỐC
(HANH-HUYNH108
sưu tầm, LiH COCO chuyển)