NGƯỜI
SUỐT ĐỜI LẮC CHUÔNG GIỮA CHỢ
(TRẦN
BANG THẠCH)
Gần cuối
tháng 12 dương lịch năm nay có một thiệp
chúc Xuân đến với tôi thật sớm,
trước Tết Nguyên Đán cả tháng .
Đó là một điều lạ. Tôi
chưa hề nhận một thiệp xuân nào sớm
như vậy, từ trước đến nay. Điều
lạ thứ hai là cùng một bao thư với
thiệp chúc xuân này, tôi có cả một
thiệp chúc mừng Giáng Sinh đến trễ cả
tuần. Hai điều lạ này được giải
thích trong một mảnh giấy nhỏ viết tay
kèm theo. Qua mảnh giấy nhỏ này, thắc mắc
của tôi được giải tỏa: anh con thấy
trong các giấy tờ để lại của người
cha mới chết một thiệp Giáng Sinh và một
thiệp chúc mừng Năm Mới Ất Dậu. Mỗi
tấm thiệp được để trong một bao
thơ có đề sẵn địa chỉ của
tôi. Anh con bỏ cả hai tấm thiệp vào một
bao thơ rồi gởi cho tôi. Coi như thay người
chết gởi lời chúc tới ông bạn
còn sống. Lá thư bất ngờ cũng
báo cho tôi biết một cái chết bất
ngờ. Cùng một lúc với những lời
chúc tốt đẹp là một nỗi buồn
thật lớn đến với tôi. Tôi biết từ
nay tôi vĩnh viễn mất một ông bạn
hàng xóm tốt bụng của tôi từ
hơn hai mươi lăm năm qua. Tội nghiệp
ông già, biết mình tuổi đã cao, sống
nay chết mai, nên ông đã chuẩn bị sẵn
những gì cần phải làm. 24 lần
Giáng Sinh và 24 lần Tết Nguyên Đán
đã qua chưa lần nào gia đình
tôi thiếu các tấm thiệp chúc mừng của
ông. Năm nay, năm thứ 25, ở giờ phút
thứ 25, giờ phút cuối của cuộc đời,
ông vẫn không quên chúng tôi.
Thật sự
thì chúng tôi là bạn hàng xóm chỉ
trong hai năm đầu khi chúng tôi đến Mỹ.
Mới chân ướt chân ráo nhập vào
một dòng sống hoàn toàn mới lạ, không
có một người thân quen, chúng tôi thấy
tạm yên lòng cư ngụ trong một căn
nhà nhỏ tại một khu khá tạp nhạp,
toàn là dân da đen và dân Nam Mỹ
có lợi tức thấp; hiếm thấy một
người da trắng lạc lỏng đi ngang qua
xóm. Sau hai năm gia đình chúng tôi
làm ăn có khấm khá hơn và
các con cũng cần có những trường tốt
hơn nên chúng tôi dời đến một
nơi khác, cách chỗ cũ hơn một giờ
lái xe.. Hai năm ở cạnh nhau đã đủ
cho một tình hàng xóm nẩy nở. Những
năm còn lại chúng tôi vẫn hay gặp gỡ,
nhứt là vào những dịp lễ lạc hay
ăn mừng năm mới, mừng sinh nhật....hoặc
thăm hỏi tin tức nhau qua thư từ và điện
thoại.
Thuở
đó là vào khoảng cuối năm 80,
chúng tôi đến Mỹ trong cái lạnh
cóng da của một nhiệt độ đông
đá. Căn nhà chúng tôi mướn thuộc
căn nhà đã quá cũ, cả trăm
năm tuổi, vách ván, sàn gỗ kê
trên những cục gạch xi măng khiến gió
lạnh chui vào nhà một cách dễ
dàng từ bốn bên và từ dưới
sàn nhà. Ba đứa con tôi tuổi từ một
rưỡi đến 12 tuổi, chúng mặc vào
nhiều lớp áo quần mà răng vẫn
đánh lập cập. Đó là những giờ
đầu tiên khi chúng tôi mới dọn
vào nhà. Tôi thấy một cái máy
sưởi đặt âm trong vách nơi phòng
khách, tôi vặn hết nút nầy đến
nút nọ mà vẫn không thấy hơi
nóng phát ra. Túng cùng, vợ tôi
đưa ý kiến là nên nhờ người
ở nhà kế bên sang chỉ dẫn .. Tôi rất
ngại ngùng khi phải gõ cửa nhà người
hàng xóm không quen vì lúc đó
đã hơn mười giờ đêm. Chỉ cần
không đầy một phút, ông hàng
xóm đã làm chiếc máy sưởi tỏa
hơi nóng. Rồi vợ con ông mang cả đống
quần áo ấm cho chúng tôi, có cả mấy
bao potato chips họ nói là ăn cho ấm bụng.
Cả nhà chúng tôi cảm ơn. Ông
hàng xóm nắm chặt tay tôi, ông nói
rõ và chậm từng lời, sợ rằng
tôi chưa quen tiếng Mỹ. Tôi vẫn còn
nhớ như in hình dáng cao gầy, gương mặt
đen mun làm rõ hàm răng trắng và
đôi tròng mắt trắng nhìn thẳng vào
mắt tôi. Ông nói là ông luôn
luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng
tôi, đừng ngại ngùng gì hết.
Ông cho tôi số điện thoại, bảo cứ
gọi ông hay vợ con ông bất cứ khi
nào chúng tôi cần. Ông nói ông
tên là Otis Clark, nhưng ông thích được
gọi là The Bell Ringer, hãy gọi ông là
Ringer cho gọn. Thuở đó cả nhà
chúng tôi gọi ông là Ringer, coi như
là một cái tên riêng; sau nầy mới
biết ý nghĩa của nó và biết vì sao ông Otis
thích được gọi như vậy. Sau cái
đêm đầu tiên đó thì chúng
tôi cần họ nhiều trăm lần nữa trong suốt
hai năm ở gần nhau và cả khi ở xa nhau.
Ông bà là cố vấn của gia đình
chúng tôi về đủ mọi chuyện. Từ
chuyện ông Ringer dạy tôi cách sử dụng
máy cắt cỏ, máy xén cỏ đến việc
thay nhớt cái xe. Bà Ringer thì từ việc
đưa vợ tôi và các con đi ghi danh ở
trường, đến việc dạy vợ tôi tiết
kiệm bằng cách mua hàng sale và cách
dùng coupons khi đi chợ. Khi chuyện trò với
chúng tôi, họ nói chậm rãi, rõ
ràng từng tiếng. Đặc biệt là họ
hay gợi chuyện để chúng tôi nói. Tiếng
Mỹ chúng tôi khá hơn nhờ gia
đình này. Cách sinh hoạt chúng tôi
được xuôi chèo mát mái hơn
trong cái xã hội lạ lẫm nầy phần lớn
là nhờ họ. Cũng qua gia đình nầy
chúng tôi có cái cảm tưởng đầu
tiên là người Mỹ tử tế.Về sau
chúng tôi biết ông bà Otis không những
chỉ tử tế với riêng gia đình
chúng tôi hay vài gia đình trong khu
xóm, mà ông bà nầy tử tế với
tất cả mọi người. Điều nầy
thì tôi xin được nói sau. Cái ấm
áp của đêm đầu tiên đó
đã bắt đầu cho một nghĩa tình
lân lý kéo dài suốt hai mươi
lăm năm nay. Suốt thời gian đó chúng
tôi thương mến và hiểu nhau hơn.
Bà Otis mất 12 năm trước, sau đó cậu
con trai duy nhứt đi làm xa, ông già Otis
đã nghỉ hưu từ hơn hai mươi
năm trước. Ông sống một mình trong
căn nhà cũ, nhưng ông không cô
đơn vì chừng như công việc chiếm
hết thì giờ của ông. Muốn đến
thăm ông, chúng tôi phải thông báo
vài ngày trước. Hoặc đôi khi tự
dưng ông ghé nhà tôi ngủ một
đêm để kể cho chúng tôi nghe chuyện
đời. Các con tôi rất thích nghe Uncle
Ringer kể chuyện. Càng hiểu tâm tình của
ông và càng biết nhiều những sinh hoạt
của ông, chúng tôi càng quí trọng
ông. Bây giờ thì ông đã đi rồi.
Tấm thiệp Xuân Ất Dậu tôi chưa kịp
gởi cho ông. Những dòng tưởng nhớ
này như lời cuối cùng chúng tôi tiễn
đưa ông, người hàng xóm tốt bụng.
Nhớ
tới ông Otis là tôi nhớ tới điều
mà ông đã nói với tôi khi hai
người ngồi uống bia ở sau nhà ông
hơn hai mươi năm trước. Ông chỉ
nói có một lần mà tôi mãi nhớ
hoài. Ông Otis nói ông nợ cuộc đời
quá nhiều, sợ rằng cả đời của
ông, ông cũng không trả nổi. Ông mất
ở tuổi tám mươi lăm. Một đời
người như thế cũng gọi là dài.
Nhưng cái nợ với cuộc đời mà
ông tự nguyện gánh trên vai đã hết
chưa hay ông vẫn còn khệnh khạng vác
xuống tuyền đài ? Nghĩ tới điều nầy
khiến tôi càng thương ông, vì
tôi biết một khi thế giới nầy còn hỏa
hoạn, thiên tai, chiến tranh, bịnh tật và
xã hội này còn những kẻ nghèo
đói, tật nguyền, không nhà, không miếng
ăn, không cái mặc... thì The Bell Ringer thỏi
đồng đen của tôi vẫn ngày ngày
muốn làm người lắc chuông nơi cửa
chợ. Tôi biết ông muốn mãi mãi
là người lắc chuông, dù cho trăm
năm, dù cho ngàn năm nữa. Người
đàn ông da đen cao, gầy, xương xẩu,
ít học mà có trái tim to như trái
núi, một tấm lòng dào dạt mênh
mông như nước đại dương. Gần cả
đời lắc chuông giữa chợ kêu gọi
tình thương, chắc chỉ có một
ông Otis Clark nầy. Ông nói từ khi nhận diện
được những đau khổ của cuộc đời
đến với riêng ông, ông muốn
được góp phần nhỏ mọn của
mình làm vơi đi ít nhiều những
đau khổ cho càng nhiều người càng tốt.
Ông Otis kể với mọi người về cuộc
đời của ông. Cậu bé Otis lúc mới
5 tuổi đã là một bé mồ côi cả
cha lẫn mẹ. Người ta nói cha mẹ cậu một
hôm từ thị trấn Cheyenne của tiểu bang
Wyoming mang đứa con trai Otis 5 tuổi xuôi nam lập
nghiệp, mong thoát khỏi kiếp tôi
đòi. Lúc tới gần dãy Rocky Mountains
thì ông bà Clark mất tích trong một trận
bão tuyết. May mắn được cứu, cậu
bé Otis sống lang thang không nhà với người
cha nuôi nghiện rượu và với một con
chó đói. Cha con ngày ngày kiếm miếng
ăn nơi khu Lincoln Park của tiểu bang Colorado . Khi cha
nuôi chết, cậu Otis 10 tuổi đã biết
phải tìm cái sống bằng chính sức lực
và ý chí của mình.. Tiếp tục
ước muốn của cha mẹ, Otis xuôi nam, sống
vất vưởng trên các đường phố
với đủ ngành nghề, từ bán báo
đến quét dọn nhà hàng, lau chùi cầu
tiêu công cộng.... Lớn hơn một chút,
Otis về vùng đồng cỏ Texas làm các
công việc nơi trang trại, chăn bò, vắt
sữa, lái máy cày. Cuộc đời Otis thật
sự thay đổi ở tuổi 18 khi một ân
nhân đem Otis về thành phố lớn, dạy
cho ít chữ nghĩa và dạy nghề thợ tiện.
Từ đó Otis đứng vững vàng trên
hai chân mình. Cũng từ đó chàng
thanh niên Otis bắt đầu nghĩ tới một sự
trả ơn cho người đã cứu mình ra
khỏi vùng u tối. Otis cũng không thể
quên những cảnh khổ chung quanh, cảnh khổ
mà suốt quãng đời niên thiếu
mình đã chịu. Những ngày cuối tuần
người ta thấy chàng thanh niên Otis la cà
nơi các công viên, hay các góc
đường dưới cầu xa lộ mang những bịch
đồ ăn thức uống cho những người
không nhà. Nhiều người trong số nầy
đã được Otis giới thiệu việc
làm, tạo dựng lại cuộc đời và
tiếp tục trả ơn đời như anh Otis. Một
thanh niên da trắng thất tình thất chí, bỏ
học, bỏ nhà cửa đi làm homeless, Otis tới
lui, chuyện trò, khuyên nhủ, rồi đem về
nhà nuôi ăn học. Ngày anh thanh niên nhận
bằng kỹ sư điện, anh đã ôm Otis
giữa hội trường mà khóc như một
đứa con nít. Nhiều lần Otis đến
các nhà tạm trú cùng với các
người thiện nguyện phục vụ những bữa
ăn cho người vô gia cư. Sau khi tham dự thế chiến thứ Hai,
người lính giải ngũ Otis biết được
các hoạt động cứu trợ rất hữu
hiệu của hơn 3000 đơn vị phục vụ
thuộc tổ chức thiện nguyện The Salvation Army.
Otis bắt đầu tham gia hoạt động cho The
Salvation Army kể từ đó. Cũng kể từ
đó Otis chỉ thích được gọi
là Người Lắc Chuông- The Bell Ringer. Từ
mùa đông năm 1945 The Bell Ringer tên Otis bắt
đầu mặc bộ đồng phục của The
Salvation Army, cầm cái chuông đồng đứng
tại các cửa chợ vào những ngày lễ
để kêu gọi lòng hảo tâm của con
người đối với con người.
Những
ngày đầu ở Mỹ, không ai trong gia
đình tôi biết The Salvation Army là gì.
Chúng tôi chỉ biết tổ chức thiện
nguyện Đạo Binh Cứu Khổ này qua người
hàng xóm mà chúng tôi gọi là
Ringer. Vào những ngày cuối tuần hay những
ngày lễ như Thanksgiving hay Christmas chúng tôi
thấy Ringer cùng các bạn của ông mặc
vào tấm áo
choàng màu đỏ, choàng phủ phía
trước ngực và phía lưng, trên
có in dấu hiệu của The Salvation Army và
có dòng chữ: I Am A Bell Ringer. Người bell ringer tay cầm cái
chuông đồng nhỏ đứng lắc chuông
bên cạnh cửa ra vào tại các khu chợ.
Người hảo tâm bỏ tiền vào cái
thùng đỏ có nắp khóa kín, treo trên
cái giá 3 chân. Hai năm ở bên cạnh
ông tôi biết thêm rất nhiều điều
về The Salvation Army, một tổ chức quốc tế được hình
thành từ năm 1865 tại Luân Đôn để
giúp đỡ về mặt tinh thần và vật
chất cho cho những người kém may mắn
trên toàn thế giới, không phân biệt
chủng tộc hay tôn giáo. Bằng vào cố
gắng tích cực của cô bé 16 tuổi
tên Eliza Shirley, một di dân gốc Anh, Tổ chức
được du nhập vào Mỹ từ năm 1880 với
chi nhánh đầu tiên ở New York City . Các
con tôi thì có bên cạnh một nhân vật
sống để nghe, để biết và để
học những bài học quí giá về
tình người. Thằng con lớn của tôi
đã gia nhập The Salvation Army ngay sau khi tốt nghiệp
đại học hồi năm 1992. Ông Ringer trông
thật hào hứng mỗi lần nói chuyện với
chúng tôi về công việc lắc chuông của
ông. Công việc nào thì cũng có niềm
vui, nỗi buồn. Nhưng với ông Ringer thì suốt
mấy mươi năm lắc chuông, ông chỉ
có niềm vui, ông quả quyết nói với
chúng tôi như vậy. Ông không có nỗi
buồn. Ông lắc chuông xin tiền, có người
cau có với ông, ông cười tươi
đáp lễ. Có người ngước mặt
làm ngơ, ông thương cho họ và cầu
nguyện cho họ.Thỉnh thoảng có người
mua cho ông bữa ăn trưa hay một chai nước
uống, ông vui vẻ cảm ơn. Trên chục
năm trước, có em nhỏ tự nhiên rời
tay mẹ, chạy tới kéo ông ngồi xuống,
hun một cái chụt vào má ông, rồi
bé kề tai nói với ông rằng bé
thương ông quá, khi lớn bé sẽ
làm như ông. Chuyện đã xảy ra thật.
Cô bé 5 tuổi lúc ấy đã không
đợi khi lớn mới thực hiện được
lời hứa với người Bell Ringer nơi cửa
chợ. Lúc 7 tuổi, cô bé biết bày ra
một cái bàn đặt bên lối ra
vào công viên gần nhà để bán
nước giải khát vào mỗi cuối tuần.
Cô bé đã kiếm được vài chục
đồng mỗi tháng. Người ta mua nước
lemonade của em như là một cách giúp em
thực hiện ước muốn của mình. Mỗi
năm, đúng vào buổi chiều trước
ngày Lễ Giáng Sinh,
Christmas Eve, như một hẹn ước bất
thành lời, cô bé đến gặp người
Bell Ringer của cô, thân mật nói những lời
chúc lành với ông rồi nhét vội
món tiền góp nhặt cả năm vào
cái thùng 3 chân màu đỏ. Năm
nào cô cũng làm như vậy, hơn chục
năm rồi. Cô bé gọi ông là Ringer.
Ông gọi cô là Little Santa. Như vậy
là đã đủ cho một sự quen biết
nhau. Có lẽ cả hai không thấy cần phải
biết tên thật của nhau. Họ biết họ
đang làm gì. Có một lần vào đầu
năm 82, ông Ringer hăm hở nói với tôi
về một đồng tiền vàng, một loại gold coin, trị
giá hơn 200 đô la, lần đầu tiên
được một người bí mật nào
đó bỏ vào thùng tiền tại Chicago. Rồi
sau đó cứ mỗi lần một nơi nào
đó nhận những đồng gold coins thì
ông Ringer đều cho tôi hay để cùng vui
với ông. Nhiều khi ông chỉ ghé nhà
tôi một vài phút đồng hồ chỉ
để thông báo những tin vui như vậy. Chẳng
hạn như hồi năm 85, một người nào
đã bỏ vào thùng ở thành phố
Kirsville, bang Missouri, một
đồng gold coin sản xuất 20 năm trước cuộc
Nội Chiến, có giá trị cả ngàn
đô la; đủ cho một nhóm hơn trăm
người nghèo có một bữa ăn
Giáng Sinh thịnh soạn. Hàng năm, như
là một trò chơi nhân hậu tốt đẹp
từ một hay nhiều nhà hảo tâm bí mật,
những đồng gold coins cứ rơi vào nơi nầy,
nơi nọ; đến nay tổ chức The Salvation Army nhận
được hơn 300 đồng gold coins. Năm năm
trước, ông Ringer của tôi muốn có một
đồng gold coin rớt vào cái thùng của
ông coi như quà sinh nhật thứ 80 của
ông. Mùa Giáng Sinh năm đó rồi cũng
qua, lễ mừng sinh nhật của ông cũng
đã qua mà đồng gold coin cũng chưa chịu
đến với ông. Ông than với tôi
là các đồng gold coins vẫn chưa chịu
xuôi Nam . Tôi an ủi ông rằng ông
đã nhận và đã cho biết bao
nhiêu là những đồng gold coins từ cả
sáu mươi năm nay rồi. Một tuần trước
lễ Giáng Sinh năm nay, từ một nơi
cách xa tỉnh nhà hàng ngàn dặm, xem
báo tôi thấy loan tin nhân viên Salvation Army
tìm thấy một đồng vàng tên là
South African Krugerrand bọc trong một đồng bạc giấy,
có lẽ người bí mật muốn tránh
tiếng kêu khi bỏ vào thùng ở trước
cửa một tiệm Walgreens trên đường West
University của Houston. Đây là lần đầu
tiên một đồng gold coin trị giá 400
đô la đã xuôi Nam , đã đến
Houston . Tự nhiên tôi thấy vui và nghĩ
ngay tới ông bạn già Ringer của tôi.
Tôi bỏ lửng cột báo tại đây,
không muốn đọc tiếp tên người
bell ringer để được hồi hộp mà
nghĩ rằng chính cái thùng tiền của
người Ringer thân mến của tôi đã
nhận được đồng tiền quí hiếm
ấy. Có thể lắm chứ. Ở cái tuổi
85, người Bell Ringer của tôi không còn bao
nhiêu ngày tháng nữa. Chẳng lẽ niềm
mơ ước của ông không thành sự thật
sao ?
Bây
giờ nhận được tin ông mất, tôi thấy
dù cho đồng tiền ấy có rơi vào
thùng của ông hay không thì ông cũng
là người đón nhận và phân
phát nó, cũng như ông đã
đón nhận hàng vạn tấm lòng
vàng và phân phát hàng ngàn đồng
tiền vàng trong suốt hơn sáu mươi
năm làm người lắc chuông giữa chợ.
Cả cuộc
đời ông, ông cũng đã cho thiên hạ
rồi !
Ông Otis
Clark, người Bell Ringer của tình thương,
chúc ông ngàn đời yên ngủ trong niềm
mến yêu của những người khốn
khó. Ông ngủ nhưng tiếng chuông đồng
của ông vẫn còn rung trên tay của cả
ngàn người khác tiếp nối ông. Khi những
trái tim còn biết thổn thức thì tiếng
chuông đồng còn ngân vang. Bằng cách
nầy hay bằng cách khác, tình thương
luôn có mặt trên thế gian nầy. Cô
bé 7 tuổi đã biết đem những đồng
tiền nhân nghĩa đến gởi gấm ông.
Cô bé ấy bây giờ là một thiếu
nữ và vẫn là người Santa Nhỏ
Bé của ông, vẫn hàng năm làm nhiệm
vụ của một Ông-Già-Nô-En-Có-Thật.
Ngủ
đi ông, The Bell Ringer , người hàng xóm
tuyệt vời của tôi.
Trần Bang
Thạch
tranbt21@yahoo.com
(A TRINH sưu tầm và chuyển)