Ngủ với
xác chết
(Nguyễn
Thanh Ty)
1.- Chuyện ở
bên Tàu
Bệnh Giang Mai.
Theo truyền thuyết tên bệnh
Dương Mai (Giang Mai) là do hai họ của tên Dương Quí Phi và Mai Uyển
ghép lại với nhau mà thành.
Dương Quí Phi là một
tuyệt sắc giai nhân, tục danh là Dương
Ngọc Hoàn, sinh ra ở tỉnh Tứ Xuyên
vào khoảng năm 719. Nàng được tiến
cung hầu Hoàng Thọ vương Lý Dục.
Lý Dục là con thứ 18 của vua Đường
Minh Hoàng tức Huyền Tông, lúc ấy
hãy còn nhỏ nên đã ba năm vẫn
chưa có chăn gối với Ngọc Hoàn.
Các cung phi được Huyền
Tông sủng ái sinh cả thảy 59 người
con. Trong số các cung phi, có một nàng
được sủng ái đặc biệt hơn cả
tên là Vũ Huệ Phi. Huê Phi mất Huyền
Tông ngày đêm thương nhớ. Nội
giám muốn cho nhà vua nguôi buồn đã
chọn nhiều cung tần mỹ nữ đưa đến
hầu hạ, nhưng không một ai làm cho
ngài khuây khỏa nỗi lòng nhớ
thương người cũ.
Một hôm Cao Lực sĩ
đi qua phủ Thọ vương trông thấy Ngọc
Hoàn là một tuyệt sắc giai nhân
bèn mật tâu với Huyền Tông rồi truyền
đưa Dương Ngọc Hoàn vào Tập Linh
đài nói thác ra là để trông
coi nhang đèn cầu nguyện cho Vũ Huệ Phi. Cao
Lực sĩ lại chọn con gái của Vị
Chiêu để thay Ngọc Hoàn làm vợ Thọ
Vương Lý Dục.
Vua Huyền Tông trông thấy
vẻ đẹp chim sa cá lặn của Ngọc
Hoàn đem lòng
say mê ngay. Bèn cướp lấy, làm vợ
mình. Hình ảnh Huệ Phi phai mờ dần, nỗi
buồn rầu tiêu tan. Từ đó, ngày
đêm Huyền Tông cứ quấn quít với
Ngọc Hoàn, đắm say còn hơn Huệ Phi nữa,
nên lập Ngọc Hoàn làm quí phi. Ba
người chị của Ngọc Hoàn cũng
được phong làm phu nhân. Anh họ của
Quí Phi là Dương Xuyên được phong
làm tể tướng và được đổi
tên là Dương Quốc Trung.
Huyền Tông gặp Dương
Quí Phi bấy giờ đã ngoài 50 tuổi,
cơ thể suy nhược vì trải qua những
thú vui sắc dục ngày đêm thái
quá.
An Lộc Sơn còn có
tên là Mai Uyển, là một võ tướng,
người nước Phiên, cao lớn, trắng trẻo,
đẹp trai, đem dâng cho vua một thứ linh
đan gọi là “Trợ tình hoa” để
vua có nhiều sức khoẻ vui say cùng mỹ
nhân. Nhờ có công như vậy nên
được Huyền Tông tin dùng, giao cho phần
chỉ huy nửa lực lượng quân sự triều
đình.
An Lộc Sơn lại được
Dương Quí Phi nhận làm con nuôi, mặc
dù lớn hơn nàng 4 tuổi, được tự
do ra vào cung cấm để thông dâm với
nàng. Vì quá tin dùng An Lộc Sơn
nên Huyền Tông không nghi ngờ chi cả.
Anh họ của Dương
Quí Phi là Dương Quốc Trung nắm giữ
toàn quyền binh lực cùng hai con trai là Dốt
và Huyên có ý định phản nghịch.
Thấy An Lộc Sơn như cái gai trước mắt
nên muốn mưu hại trước. An Lộc Sơn
biết được, bỏ trốn.
Năm 755, Sơn cử binh từ quận
Ngư Dương đánh thẳng vào kinh
đô Trường An. Binh triều đại bại.
Đường Huyền Tông lúc bây giờ
đã 70 tuổi cùng Dương Quí Phi
và một số quần thần bỏ chạy
vào đất Thục. Dọc đường hết
lương thực, quân sĩ khổ nhọc,
đói khát mà cha con Dương Quốc Trung
và gia quyến lại luôn được no đủ
nên họ oán hận và nổi lên
làm loạn giết chết cả nhà. Vẫn
chưa hết phẫn uất đối với họ
Dương, loạn quân bắt ép vua đem thắt
cổ Dương Quí Phi vì họ cho đó
là cái mầm sinh đại loạn, thì họ
mới chịu theo phò. Huyền Tông đành
phải nhắm mắt hy sinh nàng Quí Phi, một
quốc sắc thiên hương, giữa xuân xanh
38.
Khi An Lộc Sơn chiếm
được Tràng An, nghe tin người yêu
đã chết, tức giận sinh cuồng, ra lịnh
cho quân lính đốt phá kinh đô,
tàn sát nhân dân. Lính Phiên tha hồ
chém giết. Sử chép: “Có 36 vạn
sinh linh chết trong cơn loạn ấy. Rợ Phiên gặp
ai cũng giết, thực là một cuộc đổ
máu vô tiền khoáng hậu trong lịch sử
Trung Hoa, mà nguyên
nhân sâu xa là do cái sắc của một
người đàn bà dâm loạn”.
Tương truyền rằng, khi
tìm được xác Dương Quí Phi, sắc
diện nàng vẫn hồng hào giống như
còn sống, đang nằm ngủ vậy. An Lộc
Sơn quá yêu đắm cái sắc đẹp
ấy nên đêm đêm ôm xác
Dương Quí Phi để ngủ và làm
tình. Thời gian sau, khắp thân thể của An
Lộc Sơn bỗng phát sinh ra nhiều vết lở
loét trông rất khủng khiếp. Nhất là
ở bộ phận sinh dục, hậu môn và miệng.
Từ đó bệnh lây
truyền trong dân gian. Ai ai cũng khiếp sợ, đặt
tên nó là bệnh Dương Mai, một trong bốn
bệnh nan y không thuốc chữa.
2.- Chuyện ở
bên ta
Truyện người ôm
xác vợ 7 năm liền.
Ông Lê Vân, 55 tuổi, ở
thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình, Quảng
Nam, 7 năm liền ôm xác vợ để ngủ.
Theo báo trong nước,
VietNamNet, ngày 26/11/2009, kể lại:
Ông Vân hiện đang sống
cùng 3 đứa con nhỏ và xác người
vợ được đặt trong một bức tượng
nặn bằng đất sét và thạch cao. Kế
bên nhà ông là nhà của 2 người
con đã trưởng thành, có gia
đình riêng.
Bài báo viết: “Khi bức
màn treo nơi cửa buồng được vén
lên, trong ánh sáng nhập nhoạng của buổi
chiều đầu đông, hình một người
đàn bà bận quần áo nằm ngay
đơ trên chiếc giường kê sát bức
tường. Ông Vân bảo với tôi rằng:
“Đó, vợ tui đó. Gần 7 năm ni,
đêm mô tui cũng ôm bả để ngủ
…”
Ông Vân kể: “Ngày
3 tháng 2 năm 2003, khi đang làm ăn ở
Tây Nguyên, tui nhận được tin vợ mất,
tui tức tốc về để lo chôn cất vợ.
Hồi mới chôn vợ xong, đêm mô tui cũng
lên mộ của bả để ngủ. Gần 20
tháng sau ngày bả mất, ngủ trên mộ
sợ gió, mưa lạnh nên tui quyết định
đào một đường hầm vào sâu
trong huyệt mộ để ngủ cùng bả.
Nhưng mấy đứa con phát hiện không cho
tui lên mộ bả nữa.
Dù mấy đứa con tui cấm,
nhưng giữa khuya là tui lên mộ bả để
ngủ, sáng ra tui về sớm. Thấy sống với
bả như vậy khổ quá, vào khuya ngày
16/01/2004, một mình tui lên mộ và quyết
định đào mộ để đưa xác
bả về nhà cho tiện, cho ấm cúng.
Khi được hỏi:
“Xác người chỉ mới chôn có 20
tháng, đào lên ông không sợ sao
?” Ông thản
nhiên kể: “ Vợ mình thì có
gì mà sợ ?… Tôi bị mấy đứa
con phát hiện, chúng phản đối không
cho tui đưa bả về nhà và báo
công an, chính quyền địa phương đến
ngăn cản, bảo tui vi phạm pháp luật”.
Hơn 4 tháng sau, ông mua thạch
cao và đất sét về nắn tượng vợ
cất trong nhà. Ông bảo: “Tui nặn kỳ
công lắm, hơn một tháng mới hoàn
thành. Bức tượng có chiều cao bằng vợ
tui lúc còn sống. Khi làm xong tượng, một
mình tui nửa khuya, âm thầm đào mộ vợ
lên, bốc toàn bộ hài cốt đem về
bỏ vô bức tượng. Sau đó tui bận
quần áo và để nằm trên giường.
Từ đó đến nay, tôi ôm tượng
vợ ngủ ngon lành … Đã gần 7 năm
trôi qua rồi.”
Ông Chủ tịch UBND thị trấn
Hà Lam, Trần trọng Sanh, khi được hỏi chuyện
người đàn ông ôm xác vợ ngủ
trong nhà gần 7 năm, tỏ ra bất ngờ:
“Hồi năm 2004, khi phát hiện ông Vân
đào xác vợ lên, chính quyền
đã đến nhà vận động và cấm
ông không được đào mộ gây
ô nhiễm môi trường và ông ấy
đã chấp hành. Từ đó đến
nay không có thông tin nào về vụ việc
này. Chính quyền địa phương
không biết việc ông đưa hài cốt
vợ về để trong nhà.
Ông Vân còn bảo:
“Tui là người có những việc
làm khác người. Tui không giống như
người bình thường…” Và
ông vẫn tự hào là người
đàn ông chung tình.
Tác giả bài báo, Vũ
Trung, kết luận: “ Vâng ! Có thể ông
là người đàn ông chung tình nhất
thế gian, là người đàn ông
khác người, kỳ dị.
Bất cứ ai có chút
ít kiến thức về y học đều biết
đó là một bệnh lý, một biến
thái tâm lý, không thể là một chuyện
bình thường. Bệnh đó, khoa học
có tên là Necrophilia, bệnh “Tình dục
tử thi”, hay bệnh
“Ái tử thi” (Yêu xác chết),
là một chứng bệnh lệch lạc về
tình dục. Những người nhiễm chứng
này thường có khuynh hướng đam
mê và có hứng thú nhục dục với
xác chết. Nhà nghiên cứu tâm thần học
Krafft-Ebing tìm ra bệnh này và đặt
tên như trên trong cuốn sách nghiên cứu
các chứng bệnh về tình dục Psychopathia
Sexualis của ông năm 1886. (Theo GS Nguyễn văn Tuấn,
Australia)
Tuy nhiên, trường hợp của
ông Vân, theo nhà văn Nguyễn quang Lập:
“Dưới góc độ tình cảm, đạo
nghĩa vợ chồng, ông quả là người
“chung tình” tuyệt đối hiếm thấy,
mà có lẽ trong thời đại này, nhiều
bậc nam nhi nên suy ngẫm”.
Điều tức cười ở
đây, ông Vân mắc bệnh “kỳ lạ”
này đến nỗi khiến cho hàng xóm sợ
hãi không ai dám đến nhà, cũng
không ai muốn cho ông đến nhà họ…
đã 7 năm, cho đến khi phóng viên
phát hiện ra thì các quan chức quản
lý các cấp đều phân trần là
“bất ngờ” khi nghe một câu chuyện
kinh hoàng đến vậy, ở ngay địa
bàn họ quản lý.
Một tờ báo khác, sau
khi loan tin này đã đưa ra câu hỏi:
“Vì sao, rất nhiều vụ việc, chỉ
khi báo chí
thông tin, các vị quan chức quản lý
các cấp mới “ngã ngửa” ra,
và câu trả lời quen thuộc vẫn thường
là 3 không: “Không biết, không nghe,
không thấy.”
Ông Lê Vân có thể
mắc tâm bệnh mà không biết, nhưng
các vị quan chức các cấp mắc các
chứng bệnh “quan liêu”, “vô cảm”,
“vô trách nhiệm” trong chính bổn phận
mình, có khi cũng không biết nốt ?
Dĩ nhiên câu hỏi
nhà báo đặt ra chỉ “đố vui
để chọc” thôi, chứ làm gì
có câu trả lời. Bao giờ sự im lặng cũng
là vàng cả.
Tuy nhiên, nỗi băn khoăn
và sự lúng túng của ông Trần Trọng
Sanh, Chủ tịch thị trấn Hà Lam, khi cho rằng
“không có văn bản pháp lý
nào làm cơ sở để xử lý”
rất đáng chú ý để bàn.
“Các văn bản quy phạm
về pháp luật văn hóa, môi trường
sinh thái ở nước ta không rõ có chế
tài xử phạt những hành vi như vậy
không ? Nếu như không có, rõ ràng
các nhà làm luật, làm chính
sách về văn hóa, môi trường … cần
sớm có sự bổ sung, hoặc hướng dẫn
cán bộ quản lý cơ sở linh hoạt về
mặt tâm linh, tập quán văn hóa, cần
làm cho ông Lê Vân và nhiều người
thấy rõ không có chuyện “âm -
dương” chung sống trong cộng đồng”.
Bài báo nêu vấn đề.
Đúng ! Phải đặt vấn
đề này thành một “chính sách
lớn của đảng và Nhà nước”.
Phải “khẩn
trương mau
chóng” đưa nguy cơ này ra Quốc Hội
để đảng và nhân dân cả nước
cùng bàn cho thấu triệt, tìm ra giải
pháp “tối ưu” nhất để giải
quyết gấp và rốt ráo vấn đề tồn
đọng gần nửa thế kỷ nay, và
còn có thể dây dưa thêm nhiều
năm nữa.
Bởi hơn 40 năm nay,
đám người trong Bộ Chính trị
đêm đêm cứ thích ngủ với
xác chết thối rữa, đã gây nên
sự ghê tởm về tâm lý và bệnh
lý cho xã hội.
Hơn thế nữa, những
người mắc bệnh “Yêu xác chết”
này không chỉ thể hiện ở nỗi
đam mê tình dục, khoái lạc với
xác chết mà còn có thú giết
người hàng loạt, xem đó là
thú vui. Đó là một tai họa lớn của
nhân loại.
Thú giết người
hàng loạt của ông Hồ Chí Minh trong
“Cải cách ruộng đất” là một
bằng chứng hiển nhiên. Và máu háo
sát của hậu duệ ông sau này càng
khủng khiếp hơn nhiều.
Từ ngày ông Hồ
chí Minh vì uất ức bị thua trận Mậu
Thân năm 1968 ở miền Nam, toàn bộ thanh
niên miền Bắc hơn 1 triệu, bị ông
lùa qua sông Bến Hải, quyết Sinh Bắc tử
Nam, đã được quân dân miền Nam
đáp ứng theo yêu cầu của ông một
cách rất ư là chu đáo, nên ông
không chịu vui sống nữa. Ông khăn gói
quyết đi theo các bác Mao, Bác Xít,
bác Lê. Trước khi đi, ông viết di
chúc yêu cầu các đồng chí hỏa
thiêu cái xác ô trọc của ông
và đem tro rải khắp ba miền. Có lẽ
ông sợ nhân dân sau này sẽ đào
mả ông lên, lấy sọ làm bình đựng
nước tiểu, xương cốt thì lấy roi
đánh cho đã nư, rồi bỏ vào
súng đại bác bắn tan ra tro, không cho
linh hồn tội lỗi của ông được
siêu thoát để rửa hận, giống như
vua Gia Long trả thù vua Quang Trung chăng ?
Nhưng những đồng
chí chí cốt cũng là kẻ thù ngấm
ngầm từ lâu của ông đâu có chịu
nghe lời ông, (có lẽ câu nói
“trên bảo dưới không nghe” bắt
nguồn từ đây) không chịu đem đi
thiêu mà cứ giấu xác ông trong lăng
để đêm đêm chui vào hòm
kính “yêu” ông và “hành hạ”
ông cho thỏa mãn cái khoái lạc của
trò dâm ô thú tính của mình.
Bắt đầu là Tổng
bí Lê Duẫn rồi tiếp theo các Tổng
bí khác như Nguyễn văn Linh, Đỗ
Mười, Lê Khả Phiêu … giờ đến
Nông đức Mạnh, lần lượt thay nhau nối
ngôi thiên tử, ông vua nào cũng có
thú “Yêu xác chết”, đêm
đêm đều ôm xác ông Hồ để
ngủ ..
Ông Lê Vân vì
quá thương vợ, không nỡ để vợ
nằm lạnh lẽo nơi hoang dã, nên bỏ tiền
túi mua thạch cao, đất sét, ra công nặn
tượng để chứa hài cốt vợ
mình rồi đem về nhà để ngủ
chung. Xét ra vô hại cho xã hội và rất
đáng thương tâm.
Trong khi đó, những ông
Tổng bí của đảng cộng sản Việt
Nam, để thỏa mãn cái khoái lạc bệnh
hoạn của cá nhân mình lại bắt
dân chúng nai lưng, è cổ đóng
góp hàng trăm thứ thuế để lấy
tiền xây lăng, xây mộ cho ông Hồ một
cách nguy nga, hoành tráng cốt phô
trương thanh thế và chứng tỏ sự
sùng bái của mình với lãnh tụ.
Theo Wikipedia Bách khoa từ điển
mở Việt Nam mô tả thì sự xa xỉ
lãng phí tiền bạc và công sức của
nhân dân cả nước để xây lăng
cho ông Hồ như sau:
“Trên đỉnh lăng
là hàng chữ “Chủ tịch Hồ Chí
Minh” ghép bằng đá ngọc màu đỏ
thẫm của Cao Bằng. Cửa lăng làm từ
các cây gỗ quý từ Tây Nguyên. Tiền
sảnh ốp đá hoa cương vân đỏ
hồng, làm nền cho dòng chữ “Không
có gì quý hơn Độc lập Tự
do” và chữ ký của Hồ Chí Minh
được dát bằng vàng. 200 bộ cửa
trong Lăng được làm từ các loại
gỗ quí do nhân dân Nam Bộ, Tây
Nguyên, Quảng Nam - Đà Nẵng, và bộ
đội Trường Sơn gửi ra, và do các
nghệ nhân nghề mộc của Nam Hà, Hà Bắc,
và Nghệ An thực hiện. Cánh cửa vào
phòng đặt thi hài do hai cha con nghệ nhân
ở làng Gia Hòa đóng. Hai bên cửa
chính là hai cây hoa đại. Phía trước
và phía sau lăng trồng 79 cây vạn tuế
tượng trưng cho 79 năm trong cuộc đời của
Hồ. Hai bên phía nam và bắc của lăng
là hai rặng tre, loại cây biểu tượng
cho nước Việt Nam. Trước cửa lăng
luôn có hai người lính đứng
gác, 1 giờ đổi gác một lần.
Chính giữa lăng là
phòng đặt thi hài ốp đá cẩm thạch
Hà Tây. Trên tường có 2 lá quốc
kỳ và đảng kỳ lớn, ghép từ
4.000 miếng đá hồng ngọc Thanh Hóa,
hình búa liềm và sao vàng được
ghép bằng đá cẩm vân màu
vàng sáng. Thi hài Hồ đặt trong
hòm kính. Qua lớp kính trong suốt, thi
hài Hồ nằm trong bộ quần áo ka ki bạc
màu, dưới chân có đặt một
đôi dép cao su. Trong những dịp có
người viếng lăng, sẽ có bốn người
lính đứng gác. Chiếc hòm kính
đặt thi hài là một công trình kỹ
thuật và nghệ thuật do những người thợ
bậc thầy của hai nước Việt - Xô chế
tác. Giường được chế tác bằng
đồng, có dải hoa văn bông sen được
cách điệu, ba mặt giường lắp
kính có độ chịu xung lực cao. Nóc
giường bằng kim loại, có hệ thống chiếu
sáng và hệ thống điều hòa tự
động. Giường được đặt
trên bệ đá, có hệ thống thang
máy tự động.”
Đã 40 năm qua, mỗi
năm công quĩ bị mất đi hàng ngàn
tỉ đồng một
cách phí phạm xương máu của
nhân dân để phục vụ cho việc bảo
quản và canh giữ cái xác thối rữa ấy.
Ngoài tiền bạc xem như
đổ sông đổ biển ra, khi ngủ chung với
xác chết, âm dương cọ xát
đã sinh là nhiều thứ bệnh kỳ lạ,
quái ác tác hại đến xã hội rất
khủng khiếp.
Bệnh giang mai ngày xưa theo
truyền thuyết Mai Uyển An Lộc Sơn ngủ với
xác chết Dương Quí Phi gây ra, chuyện
bên Tàu, được các nhà khoa học
tìm ra là do một loại vi trùng hình xoắn
trôn ốc, có tên là Treponema Pallidum,
xâm nhập cơ thể qua các vết trầy trụa
ở bộ phận sinh dục, hậu môn hay miệng
lúc làm tình rồi sinh ra lở loét. Nếu
không kịp chạy chữa vi trùng sẽ ăn
lan tới tim, gan, bao tử, hệ thần kinh và
gây nên tử vong.
Sử chép rằng An Lộc
Sơn bị con là Khánh Tự giết chết,
nhưng truyền thuyết bảo rằng An Lộc Sơn do bị lở
loét hết châu thân, đau đớn quá
mà chết.
Ngày nay, bệnh giang mai, một
trong bốn chứng nan y xa xưa, đã được
đẩy lui bằng thuốc trụ sinh Penicillin hay
Erythromycin cho những ai dị ứng Penicillin.
Đối với bệnh
“Ái tử thi” hiện nay đang lan truyền
trong Bắc Bộ phủ, toàn bộ Ủy viên
BCH Trung Ương đảng Cộng sản Việt Nam
đều mắc phải, còn ghê gớm và
di hại hơn bệnh giang mai nhiều lần hơn, bởi
y khoa chưa tìm ra được thuốc chữa. Vi
trùng bệnh này không hoành hành lở
loét thân thể như vi trùng xoắn của
bệnh giang mai dễ nhận biết mà nó nằm
yên trong óc, làm rối loạn hệ thần
kinh, làm người bệnh nghĩ ra những điều
ghê gớm mà người bình thường
không thể có được.
Theo nhà nghiên cứu tâm
thần học Krafft-Ebing thì những kẻ nhiễm
chứng “Ái tử thi”, Necrophelia, thường
có những biểu hiện hết sức bất
thường như:
- Rất sợ và tôn thờ
xác chết, nhưng cũng bởi chính nỗi sợ
này mà sinh ra trạng thái “phản nghịch”
và hướng nỗi sợ hãi này
thành sự thèm muốn nhục dục với
xác chết.
- Có khoái lạc ngắm
nhìn những người đã chết và
thân thể bị cắt rời từng phần
nhưng chưa đứt hoàn toàn.
- Những người nhiễm chứng
“Ái tử thi” phần lớn là những
người mang vẻ ngoài rất xinh đẹp
và hiền lành, hay là một nhà trí
thức, một vị giáo sư, tiến sĩ
tính cách nhã nhặn, rất khó phát
hiện.
- Có thú đam mê giết
người hàng loạt. Lấy việc giết
người hàng loạt làm thú vui. Dấu hiệu
này được hiểu như “tình
yêu với chết chóc” đơn thuần
nhưng cũng hết sức nguy hiểm.
- Người nhiễm chứng
“Yêu xác chết” còn biết đổ
lỗi cho bệnh tâm thần để nhằm
thoát khỏi tội lỗi của bản thân.
Đáng sợ nhất là những kẻ trí
thức, thành công trong công việc lại
là những Necrophilia. Họ gây ra tội ác
ghê tởm mà chỉ có quỉ dữ mới
ham thích. Có thể nói đó là
căn bệnh đáng sợ nhất của nhân
loại cho đến nay.
Vân vân…
Tại nước Cộng Hòa
Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam, từ khi ông
Hồ chết đi, xác chết của ông bị
các đồng chí đêm đêm ôm ấp,
vi trùng bệnh “Ái tử thi” đã
xuất hiện và lan tràn một cách nhanh
chóng, tác hại ghê gớm trong nhân
dân.
Thế hệ trẻ em sinh sau
năm 1969 ngoài Bắc có hơn 50% bị bệnh
suy khờ. Nhẹ thì tâm thần. Nặng thì
hóa điên. Không tìm được
nguyên nhân và không có thuốc men hay
phương pháp nào để trị liệu cả.
Nhiều người mê tín dị đoan, cho rằng
tại ông Hồ chết trúng giờ trùng
nên dân chúng bị tai họa như thế.
Vì vậy, có câu ca dao loan truyền trong
dân gian rằng:
Ông Hồ chết
trúng giờ trùng,
Nên bầy con
cháu dở khùng dở điên.
Sau năm 1975, vi trùng bệnh
“Ái tử thi” theo chân đoàn
quân xâm lược của Cộng sản Bắc
Việt vào cướp miền Nam, khiến cho dân
miền Nam bị vạ lây theo.
Câu ca dao trên được
nối tiếp:
Ông Hồ chết
trúng giờ trùng,
Nên bầy con
cháu (ở Bắc) dở khùng dở điên.
Thằng tỉnh (ở
Nam) thì đã vượt biên,
Những đứa ở
lại nửa điên nửa khùng.
Lúc đó người ta vẫn
chưa nhận ra được bệnh này do
đâu và từ đâu gây ra, nhưng dần
dần qua những việc làm ghê tởm của
giới lãnh đạo đảng Cộng sản Việt
Nam, năm 1945 ở ngoài Bắc trong việc “Cải
cách ruộng đất” long trời lở đất,
giết hơn 100 ngàn nông dân và năm
1968 ở Huế trong Tết Mậu Thân, 7000 người
dân Huế vô tội bị bộ đội cụ
Hồ đập chết bằng búa.
Qua những cuộc tàn sát
tập thể như vậy khiến cho người ta nhớ
ra chỉ có những kẻ bị bệnh
“Yêu xác chết” mới có thể
làm được để thỏa mãn thú
tính của mình. Như thế chứng tỏ
ông Hồ cũng đã bị nhiễm bệnh
“Yêu xác chết” từ những năm 1930, khi ngủ
với xác chết Lênin ở Liên xô rồi.
Trước năm 1975 và nhiều
năm sau đó cho đến hiện nay, những vụ
việc điên khùng khủng khiếp khác
liên tiếp xảy ra, ngày càng dồn dập,
chứng tỏ đầu óc của giới lãnh
đạo đảng cộng sản ở Bắc Bộ
phủ bị con vi trùng Necrophelia làm cho vừa suy
khờ, khùng điên vừa hung dữ, bạo tợn
trong việc cai trị và điều hành đất
nước qua một số việc hồi tưởng:
- Đại lộ kinh hoàng,
mùa hè đỏ lửa năm 1972 dân
chúng chạy loạn bị pháo đạn cộng
sản bắn theo giết sạch. Xác người
dân vô tội nằm ngổn ngang suốt đoạn
đường dài mười mấy cây số,
máu chảy thành sông.
- Năm 1976-1978, đẩy hàng
triệu dân ra biển, đuổi hàng triệu
gia đình lên rừng núi gọi là
“Kinh tế mới” để cướp đất,
cướp nhà.
- Phá toàn bộ rừng cao
su, trà, cà phê, hồ tiêu trên toàn
quốc để trồng khoai mì trong cái gọi
là “tự túc kinh tế” làm cho nền
kinh tế nông nghiệp sụp đổ hoàn
toàn, gây nên nạn đói 1979.
- Đánh tư sản, cải
tạo công thương nghiệp, cào bằng
xã hội thành ăn mày tập thể.
- Bắt “tù lao cải”
nửa triệu Quân, Cán, Chính thuộc chế
độ Việt Nam Cộng Hòa để trả
thù, gây ra thảm cảnh tang tóc, chia
lìa, ly tán cho nhiều triệu gia đình miền
Nam.
- Chặt phá tan hoang rừng
lâm nghiệp lấy gỗ bán lấy tiền bỏ
túi riêng, tạo nên núi đồi trọc
dẫn đến nạn lũ lụt, sạt lở,
đất truồi thường xuyên hàng năm.
- Xây đập nước
tràn lan vô tội vạ để lấy điện
giờ bị mưa lũ, phải xả lũ bảo vệ
đập, khiến cho hàng vạn gia đình sống
dưới nguồn nước bị chết oan uổng.
Tài sản ruộng vườn trị giá
hàng tỉ tỉ đồng bị nước cuốn
trôi. Dân đã nghèo nay lại càng
thêm mạt.
Còn nhiều hậu quả tệ
hại hơn nữa do bọn Bắc Bộ phủ nhiễm
bệnh “Ái tử thi” gây ra vô số
không thể liệt kê ra hết.
Nhưng điều đáng lo sợ
nhất là giang sơn Việt Nam đang nằm trong
tay bọn chúng. Chúng vì bệnh suy khờ, lúc tỉnh, lúc
điên, không biết rõ được đất
nước này là của mình hay của
Tàu. Có lúc chúng hô hoán ồn
ào, bắt dân học tập bảo vệ biển
đảo, đất nước theo câu “Tổ
tiên ta có công dựng nước, Bác
cháu ta phải cố công giữ nước”
của ông Hồ lúc chưa theo chân Mác,
Mao lên thiên đàng mù.
Có lúc chúng lại mụ
mẫm với 16 chữ vàng lừa gạt của bọn
Man Hán, mồm cứ lẩm bẩm câu “Tinh thần
quốc tế vô sản”, “Thế giới
đại đồng”, “Bên kia biên giới
là nhà, bên này biên giới cũng
là quê hương” rồi cả bọn
như người mộng du, kéo nhau đi quì lạy
bọn Tàu, dâng cho chúng đất liền, biển,
đảo, Tây nguyên mà không ý thức
được rằng mình đang làm gì.
Chuyện dâng nước cho
Tàu, còn có nguồn tin nói rằng,
đám lãnh đạo Ba Đình đều
đã bị bọn Tàu khựa cho uống một
loại thuốc độc kêu là “thi não
đơn”. Thuốc này do bọn ma đạo Triệu
Dương thần giáo, giáo chủ là Nhậm
Ngã Hành đặc chế. Tác giả Kim Dung
có kể và mô tả trong truyện “Tiếu
ngạo giang hồ”. Truyện kể, để kềm
chế và sai khiến giáo đồ nhất nhất
trung thành với mình, Nhậm Ngã Hành bắt
họ uống một viên “thi não
đơn”. Mỗi năm cứ đến hạn kỳ,
giáo đồ được ban thuốc giải,
để không cho trùng độc trong óc
phát tác. Nếu ai phản lại sẽ không
được thuốc giải. Trùng độc sẽ
toả ra rúc rỉa, đục cắn óc
não khiến cho người ta đau đớn quằn
quại, mặt mày bị biến dạng méo
mó, thân thể bị rút co quắp lại rất
khủng khiếp, cho đến chết.
Theo truyện, Quân tử kiếm
Nhạc Bất Quần là minh chủ võ lâm,
thống lĩnh quần hùng đi đánh dẹp
đám ma giáo, trông rất oai phong, lẫm liệt,
đạo cao, đức trọng, ai nấy đều
kính nể là thế nhưng khi vừa bị Nhậm
Doanh Doanh, con gái của Nhậm Ngã Hành,
búng vào miệng một viên “thi não
đơn” là vội vàng quì mọp xuống
lạy như tế sao, xin tha mạng và nguyện
làm thân trâu chó suốt đời cho Nhậm
cô nương sai khiến. Như thế đủ biết
oai lực ghê gớm của viên “thi não
đơn”.
Có lẽ lời đồn
đoán trong dân chúng, đám Bắc Bộ
phủ từ Lê Khả Phiêu cho đến Nông
Đức Mạnh đều đã bị bọn Tàu
cho uống loại thuốc độc này rồi
nên mới có thái độ hèn nhát,
khúm núm, sợ hãi đến độ phải
dâng đất, dâng biển cho chúng như hiện
nay là đúng ?
Chỉ khốn khổ cho người
dân Việt sống trong vòng kìm kẹp, thấy
nguy cơ mất nước trước mặt mà
không biết phải làm sao để cứu
nước, đành bó tay thúc thủ trước
họng súng của bọn giáo đồ (đảng
viên) của chúng cũng đang bị uống
“thi não đơn” kềm chế hay
đã nhiễm vi trùng “Ái tử
thi”, hừng hực muốn giết người tập
thể để thỏa mãn nỗi thèm xác
chết.
Mới đây, tác giả một
bài viết trên Thông Luận điện
báo, tên Đáy, vừa phát hiện
thêm một chứng bệnh lạ nữa cũng
phát sinh từ bọn lãnh đạo Bắc Bộ
phủ. Hình như cũng do vi trùng Necrophilia,
“Ái tử thi” biến thể, cũng giống
con vi trùng cúm Gà H5N1 hay cúm Heo H1N1, biến
thể mỗi năm, mỗi lúc mỗi nguy hiểm
hơn.
Đó là chứng bệnh
“Hỗn giác”, tên y học là
Synesthesia.
Theo tác giả: “Đây
là một thứ bệnh thần kinh rất lạ. Bệnh
thần kinh chứ không phải bệnh tâm thần.
Bệnh nhân không điên nhưng năm
giác quan, nghe, nhìn, sờ, nếm, ngửi pha trộn
với nhau một cách vô lý. Y học mới
khám phá ra bệnh này, nó còn nằm
trong giai đoạn thử nghiệm. Hiện nay hơn 50%
dân chúng Việt Nam đã bị mắc phải
mà họ vẫn không hay biết”.
Tác giả giải thích:
“Thí dụ như khi ăn một trái cam
là tự nhiên thấy màu tím. Hai
giác quan nếm và nhìn tự động phối
hợp với nhau một cách vô lý”.
Có người cãi rằng:
- Chưa chắc là hoàn
toàn vô lý, chỉ có thể là sự
liên tưởng. Ví dụ như mỗi lần
nghe nói tới cà ri dê là tự nhiên
lưỡi thấy cay và mũi ngửi thấy
mùi thơm.
- Không phải ! Đó chỉ
là sự liên tưởng bình thường do
sự thử nghiệm thường xuyên một quan hệ
nhân quả như con chim bị tên, thấy
cành cây cong là sợ. Như người Việt
Nam hể nghe nói tới hai tiếng “quan chức”
là tự nhiên nghĩ đến tham nhũng, cộng
sản là gian trá… Đó là những
gợi ý tự nhiên, không phải là
Synesthesia, không phải là Hỗn giác.
Hiện tượng hỗn
giác xảy ra khi các giác quan kích động
lẫn nhau một cách tự động không theo
một logic nào. Chẳng hạn, khi thấy một
nhà tu hành là mũi ngửi thấy mùi vịt
quay, tai nghe nhạc thính phòng là lưỡi cảm
thấy mùi cua rang muối …
Và tác giả bài
báo giải thích thêm về bệnh hỗn
giác bằng ngôn ngữ chuyên gia: “Mỗi
cảm giác là do sự kích động
có phối hợp của vô số dây thần
kinh, mỗi cảm giác như một chương
trình điện toán tích lũy trong óc.
Khi tình cờ một chương trình của một
cảm giác A tự nhiên khởi động một
chương trình của một cảm giác B
là người ta bị hỗn giác, các cảm
giác bị lôi kéo nhau một cách vô
trật tự, nguyên do là trong chương
trình của một số cảm giác bị lạc
vào một “số lệnh” của một cảm
giác khác…”
- Nhưng căn cứ vào
đâu mà nói rằng hơn 50% người Việt
bị hỗn giác ?
- Rất rõ. Mỗi lần
các lãnh đạo đảng và nhà
nước lên truyền hình nói chuyện
là người ta thấy thối, mặc dù họ
nói toàn chuyện đúng đắn như
là chống tham nhũng, xóa đói giảm
nghèo, săn sóc sức khoẻ cho nhân
dân, cải tiến giáo dục v.v…
Kết luận bài báo,
tác giả Đáy bỗng giật mình:
- Mà không chừng chính
tui cũng bắt đầu bị hỗn giác rồi.
Hôm qua bà xã tui rủ tui coi cái Youtube chiếu
ông Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đọc diễn
văn trước hội nghị Việt Kiều. Bà
ấy cười ngặt nghẹo như coi một phim hề
đặc sắc. Còn tui thấy thúi um.
Chết mẹ ! Cứ như
bài báo của ông Đáy viết thì
tôi cũng bị chứng hỗn giác lây qua
đường truyền Internet cả mấy tuần nay rồi.
Hôm nghe ngài Nguyễn Minh Triết
khoe rằng chỉ nói với Tổng thống Obama
có một câu thôi mà “vừa động
viên vừa phân hóa được nội bộ
nước Mỹ”. Rồi chuyện “Trời sinh
ra hai anh em, Việt Nam với Cu ba, một anh phía Bắc,
một anh ở phía Nam, thay nhau gác, nghỉ để
canh chừng hòa bình thế giới” trên
Tivi, bỗng mắc cười nôn ruột, nôn gan,
đái cả ra quần.
Lại mới đây, đọc
bài viết: “Giữa đại hội Việt kiều:
Một nỗi bình an” của nhà triết học
còi hụ Nguyễn Hữu Liêm thì cũng bị
ói mửa, thượng thổ hạ tả, gần
chết.
Vội đi thăm phòng mạch.
Bác sĩ khám, làm “test” đủ thứ, vẫn không tìm ra bệnh.
Giờ thì… chả lẽ
tôi đã mắc bệnh hỗn giác ?.
Con bà nó ! Đã bỏ
Việt Nam, chạy xa tới nửa vòng trái
đất gần 20 năm nay để tránh lũ
ôn dịch rồi mà giờ này chúng vẫn
chưa chịu buông tha, cố đuổi tận, giết
tuyệt sao đây ?
Nhưng ngồi đọc lại
bài báo “Người ôm xác vợ gần
7 năm liền” bỗng nghiệm ra một điều
lý thú:
Mấy anh nhà báo trong
nước lâu nay cứ bị Đảng nắm
đầu, xỏ mũi, xách tai, bắt đi bên
“lề phải”, cái lưng và ngòi
viết phải uốn cong theo hình tròn của
cái bô đựng phân chứa đầy những
chất màu vàng, quanh năm suốt tháng ca tụng
lãnh đạo anh minh, đỉnh cao trí tuệ,
nay vớ được cái tin hấp dẫn
“người ôm xác chết”, đáng
giá bạc tỉ. Mừng quá !
Cứ lấy chuyện “người
thật việc thật”, loan tin, ngòi viết tha hồ
mà vung vẩy. Cơ hội hiếm có, được
dịp mượn chó mắng mèo.
Mượn chuyện ông Lê
Vân ở tỉnh Quảng
Nam ôm xác vợ 7 năm liền, chửi xỏ bọn
chóp bu Ba Đình ôm xác lão Hồ 40
năm, làm khổ lụy lê dân, để xả
xú bắp thật sảng khoái.
Ai bảo bọn nhà báo chỉ
chuyên nói láo ăn tiền ? Có lúc
chúng cũng thâm lắm đấy chứ !
Nguyễn
Thanh Ty
(Sưu
Tầm Liên Mạng chuyển)