SU'U TÂ`M 12

Home | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | SUY NGÂM~ 7 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | VA(N | VA(N [tt] | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | LINKS | SÚ'C KHO?E | SÚ'C KHO?E [tt] | CU'Ò'I CHÚT CHO'I | CU'Ò'I CHÚT CHO'I [tt] | THÚ VI. | THÚ VI. [tt] | PHIM | Tin NÓNG !!! | CÂ?N THÂ.N | 9 NGU'Ò'I .. 10 Ý | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4

TA.P GHI 15

 

 

Ngủ với xác chết

(Nguyễn Thanh Ty)

 

 

1.- Chuyện ở bên Tàu

 

Bệnh Giang Mai.

 

Theo truyền thuyết tên bệnh Dương Mai (Giang Mai) là do hai họ của tên Dương Quí Phi và Mai Uyển ghép lại với nhau mà thành.

 

Dương Quí Phi là một tuyệt sắc giai nhân, tục danh là Dương Ngọc Hoàn, sinh ra ở tỉnh Tứ Xuyên vào khoảng năm 719. Nàng được tiến cung hầu Hoàng Thọ vương Lý Dục. Lý Dục là con thứ 18 của vua Đường Minh Hoàng tức Huyền Tông, lúc ấy hãy còn nhỏ nên đã ba năm vẫn chưa có chăn gối với Ngọc Hoàn.

Các cung phi được Huyền Tông sủng ái sinh cả thảy 59 người con. Trong số các cung phi, có một nàng được sủng ái đặc biệt hơn cả tên là Vũ Huệ Phi. Huê Phi mất Huyền Tông ngày đêm thương nhớ. Nội giám muốn cho nhà vua nguôi buồn đã chọn nhiều cung tần mỹ nữ đưa đến hầu hạ, nhưng không một ai làm cho ngài khuây khỏa nỗi lòng nhớ thương người cũ.

Một hôm Cao Lực sĩ đi qua phủ Thọ vương trông thấy Ngọc Hoàn là một tuyệt sắc giai nhân bèn mật tâu với Huyền Tông rồi truyền đưa Dương Ngọc Hoàn vào Tập Linh đài nói thác ra là để trông coi nhang đèn cầu nguyện cho Vũ Huệ Phi. Cao Lực sĩ lại chọn con gái của Vị Chiêu để thay Ngọc Hoàn làm vợ Thọ Vương Lý Dục.

Vua Huyền Tông trông thấy vẻ đẹp chim sa cá lặn của Ngọc Hoàn  đem lòng say mê ngay. Bèn cướp lấy, làm vợ mình. Hình ảnh Huệ Phi phai mờ dần, nỗi buồn rầu tiêu tan. Từ đó, ngày đêm Huyền Tông cứ quấn quít với Ngọc Hoàn, đắm say còn hơn Huệ Phi nữa, nên lập Ngọc Hoàn làm quí phi. Ba người chị của Ngọc Hoàn cũng được phong làm phu nhân. Anh họ của Quí Phi là Dương Xuyên được phong làm tể tướng và được đổi tên là Dương Quốc Trung.

Huyền Tông gặp Dương Quí Phi bấy giờ đã ngoài 50 tuổi, cơ thể suy nhược vì trải qua những thú vui sắc dục ngày đêm thái quá.

 

An Lộc Sơn còn có tên là Mai Uyển, là một võ tướng, người nước Phiên, cao lớn, trắng trẻo, đẹp trai, đem dâng cho vua một thứ linh đan gọi là “Trợ tình hoa” để vua có nhiều sức khoẻ vui say cùng mỹ nhân. Nhờ có công như vậy nên được Huyền Tông tin dùng, giao cho phần chỉ huy nửa lực lượng quân sự triều đình.

An Lộc Sơn lại được Dương Quí Phi nhận làm con nuôi, mặc dù lớn hơn nàng 4 tuổi, được tự do ra vào cung cấm để thông dâm với nàng. Vì quá tin dùng An Lộc Sơn nên Huyền Tông không nghi ngờ chi cả.

Anh họ của Dương Quí Phi là Dương Quốc Trung nắm giữ toàn quyền binh lực cùng hai con trai là Dốt và Huyên có ý định phản nghịch. Thấy An Lộc Sơn như cái gai trước mắt nên muốn mưu hại trước. An Lộc Sơn biết được, bỏ trốn.

Năm 755, Sơn cử binh từ quận Ngư Dương đánh thẳng vào kinh đô Trường An. Binh triều đại bại. Đường Huyền Tông lúc bây giờ đã 70 tuổi cùng Dương Quí Phi và một số quần thần bỏ chạy vào đất Thục. Dọc đường hết lương thực, quân sĩ khổ nhọc, đói khát mà cha con Dương Quốc Trung và gia quyến lại luôn được no đủ nên họ oán hận và nổi lên làm loạn giết chết cả nhà. Vẫn chưa hết phẫn uất đối với họ Dương, loạn quân bắt ép vua đem thắt cổ Dương Quí Phi vì họ cho đó là cái mầm sinh đại loạn, thì họ mới chịu theo phò. Huyền Tông đành phải nhắm mắt hy sinh nàng Quí Phi, một quốc sắc thiên hương, giữa xuân xanh 38.

Khi An Lộc Sơn chiếm được Tràng An, nghe tin người yêu đã chết, tức giận sinh cuồng, ra lịnh cho quân lính đốt phá kinh đô, tàn sát nhân dân. Lính Phiên tha hồ chém giết. Sử chép: “Có 36 vạn sinh linh chết trong cơn loạn ấy. Rợ Phiên gặp ai cũng giết, thực là một cuộc đổ máu vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Trung Hoa, mà nguyên nhân sâu xa là do cái sắc của một người đàn bà dâm loạn”.

 

Tương truyền rằng, khi tìm được xác Dương Quí Phi, sắc diện nàng vẫn hồng hào giống như còn sống, đang nằm ngủ vậy. An Lộc Sơn quá yêu đắm cái sắc đẹp ấy nên đêm đêm ôm xác Dương Quí Phi để ngủ và làm tình. Thời gian sau, khắp thân thể của An Lộc Sơn bỗng phát sinh ra nhiều vết lở loét trông rất khủng khiếp. Nhất là ở bộ phận sinh dục, hậu môn và miệng.

 

Từ đó bệnh lây truyền trong dân gian. Ai ai cũng khiếp sợ, đặt tên nó là bệnh Dương Mai, một trong bốn bệnh nan y không thuốc chữa.

 

2.- Chuyện ở bên ta

 

Truyện người ôm xác vợ 7 năm liền.

 

Ông Lê Vân, 55 tuổi, ở thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình, Quảng Nam, 7 năm liền ôm xác vợ để ngủ.

Theo báo trong nước, VietNamNet, ngày 26/11/2009, kể lại:

Ông Vân hiện đang sống cùng 3 đứa con nhỏ và xác người vợ được đặt trong một bức tượng nặn bằng đất sét và thạch cao. Kế bên nhà ông là nhà của 2 người con đã trưởng thành, có gia đình riêng.

Bài báo viết: “Khi bức màn treo nơi cửa buồng được vén lên, trong ánh sáng nhập nhoạng của buổi chiều đầu đông, hình một người đàn bà bận quần áo nằm ngay đơ trên chiếc giường kê sát bức tường. Ông Vân bảo với tôi rằng: “Đó, vợ tui đó. Gần 7 năm ni, đêm mô tui cũng ôm bả để ngủ …”

Ông Vân kể: “Ngày 3 tháng 2 năm 2003, khi đang làm ăn ở Tây Nguyên, tui nhận được tin vợ mất, tui tức tốc về để lo chôn cất vợ. Hồi mới chôn vợ xong, đêm mô tui cũng lên mộ của bả để ngủ. Gần 20 tháng sau ngày bả mất, ngủ trên mộ sợ gió, mưa lạnh nên tui quyết định đào một đường hầm vào sâu trong huyệt mộ để ngủ cùng bả. Nhưng mấy đứa con phát hiện không cho tui lên mộ bả nữa.

Dù mấy đứa con tui cấm, nhưng giữa khuya là tui lên mộ bả để ngủ, sáng ra tui về sớm. Thấy sống với bả như vậy khổ quá, vào khuya ngày 16/01/2004, một mình tui lên mộ và quyết định đào mộ để đưa xác bả về nhà cho tiện, cho ấm cúng.

Khi được hỏi: “Xác người chỉ mới chôn có 20 tháng, đào lên ông không sợ sao ?”  Ông thản nhiên kể: “ Vợ mình thì có gì mà sợ ?… Tôi bị mấy đứa con phát hiện, chúng phản đối không cho tui đưa bả về nhà và báo công an, chính quyền địa phương đến ngăn cản, bảo tui vi phạm pháp luật”.

Hơn 4 tháng sau, ông mua thạch cao và đất sét về nắn tượng vợ cất trong nhà. Ông bảo: “Tui nặn kỳ công lắm, hơn một tháng mới hoàn thành. Bức tượng có chiều cao bằng vợ tui lúc còn sống. Khi làm xong tượng, một mình tui nửa khuya, âm thầm đào mộ vợ lên, bốc toàn bộ hài cốt đem về bỏ vô bức tượng. Sau đó tui bận quần áo và để nằm trên giường. Từ đó đến nay, tôi ôm tượng vợ ngủ ngon lành … Đã gần 7 năm trôi qua rồi.”

Ông Chủ tịch UBND thị trấn Hà Lam, Trần trọng Sanh, khi được hỏi chuyện người đàn ông ôm xác vợ ngủ trong nhà gần 7 năm, tỏ ra bất ngờ: “Hồi năm 2004, khi phát hiện ông Vân đào xác vợ lên, chính quyền đã đến nhà vận động và cấm ông không được đào mộ gây ô nhiễm môi trường và ông ấy đã chấp hành. Từ đó đến nay không có thông tin nào về vụ việc này. Chính quyền địa phương không biết việc ông đưa hài cốt vợ về để trong nhà.

Ông Vân còn bảo: “Tui là người có những việc làm khác người. Tui không giống như người bình thường…” Và ông vẫn tự hào là người đàn ông chung tình.

Tác giả bài báo, Vũ Trung, kết luận: “ Vâng ! Có thể ông là người đàn ông chung tình nhất thế gian, là người đàn ông khác người, kỳ dị.

 

Bất cứ ai có chút ít kiến thức về y học đều biết đó là một bệnh lý, một biến thái tâm lý, không thể là một chuyện bình thường. Bệnh đó, khoa học có tên là Necrophilia, bệnh “Tình dục tử thi”,  hay bệnh “Ái tử thi” (Yêu xác chết), là một chứng bệnh lệch lạc về tình dục. Những người nhiễm chứng này thường có khuynh hướng đam mê và có hứng thú nhục dục với xác chết. Nhà nghiên cứu tâm thần học Krafft-Ebing tìm ra bệnh này và đặt tên như trên trong cuốn sách nghiên cứu các chứng bệnh về tình dục Psychopathia Sexualis của ông năm 1886. (Theo GS Nguyễn văn Tuấn, Australia)

 

Tuy nhiên, trường hợp của ông Vân, theo nhà văn Nguyễn quang Lập: “Dưới góc độ tình cảm, đạo nghĩa vợ chồng, ông quả là người “chung tình” tuyệt đối hiếm thấy, mà có lẽ trong thời đại này, nhiều bậc nam nhi nên suy ngẫm”.

Điều tức cười ở đây, ông Vân mắc bệnh “kỳ lạ” này đến nỗi khiến cho hàng xóm sợ hãi không ai dám đến nhà, cũng không ai muốn cho ông đến nhà họ… đã 7 năm, cho đến khi phóng viên phát hiện ra thì các quan chức quản lý các cấp đều phân trần là “bất ngờ” khi nghe một câu chuyện kinh hoàng đến vậy, ở ngay địa bàn họ quản lý.

Một tờ báo khác, sau khi loan tin này đã đưa ra câu hỏi: “Vì sao, rất nhiều vụ việc, chỉ khi  báo chí thông tin, các vị quan chức quản lý các cấp mới “ngã ngửa” ra, và câu trả lời quen thuộc vẫn thường là 3 không: “Không biết, không nghe, không thấy.”

 

Ông Lê Vân có thể mắc tâm bệnh mà không biết, nhưng các vị quan chức các cấp mắc các chứng bệnh “quan liêu”, “vô cảm”, “vô trách nhiệm” trong chính bổn phận mình, có khi cũng không biết nốt ?

Dĩ nhiên câu hỏi nhà báo đặt ra chỉ “đố vui để chọc” thôi, chứ làm gì có câu trả lời. Bao giờ sự im lặng cũng là vàng cả.

Tuy nhiên, nỗi băn khoăn và sự lúng túng của ông Trần Trọng Sanh, Chủ tịch thị trấn Hà Lam, khi cho rằng “không có văn bản pháp lý nào làm cơ sở để xử lý” rất đáng chú ý để bàn.

“Các văn bản quy phạm về pháp luật văn hóa, môi trường sinh thái ở nước ta không rõ có chế tài xử phạt những hành vi như vậy không ? Nếu như không có, rõ ràng các nhà làm luật, làm chính sách về văn hóa, môi trường … cần sớm có sự bổ sung, hoặc hướng dẫn cán bộ quản lý cơ sở linh hoạt về mặt tâm linh, tập quán văn hóa, cần làm cho ông Lê Vân và nhiều người thấy rõ không có chuyện “âm - dương” chung sống trong cộng đồng”. Bài báo nêu vấn đề.

Đúng ! Phải đặt vấn đề này thành một “chính sách lớn của đảng và Nhà nước”.

Phải “khẩn trương  mau chóng” đưa nguy cơ này ra Quốc Hội để đảng và nhân dân cả nước cùng bàn cho thấu triệt, tìm ra giải pháp “tối ưu” nhất để giải quyết gấp và rốt ráo vấn đề tồn đọng gần nửa thế kỷ nay, và còn có thể dây dưa thêm nhiều năm nữa.

 

Bởi hơn 40 năm nay, đám người trong Bộ Chính trị đêm đêm cứ thích ngủ với xác chết thối rữa, đã gây nên sự ghê tởm về tâm lý và bệnh lý cho xã hội.

Hơn thế nữa, những người mắc bệnh “Yêu xác chết” này không chỉ thể hiện ở nỗi đam mê tình dục, khoái lạc với xác chết mà còn có thú giết người hàng loạt, xem đó là thú vui. Đó là một tai họa lớn của nhân loại.

 

Thú giết người hàng loạt của ông Hồ Chí Minh trong “Cải cách ruộng đất” là một bằng chứng hiển nhiên. Và máu háo sát của hậu duệ ông sau này càng khủng khiếp hơn nhiều.

Từ ngày ông Hồ chí Minh vì uất ức bị thua trận Mậu Thân năm 1968 ở miền Nam, toàn bộ thanh niên miền Bắc hơn 1 triệu, bị ông lùa qua sông Bến Hải, quyết Sinh Bắc tử Nam, đã được quân dân miền Nam đáp ứng theo yêu cầu của ông một cách rất ư là chu đáo, nên ông không chịu vui sống nữa. Ông khăn gói quyết đi theo các bác Mao, Bác Xít, bác Lê. Trước khi đi, ông viết di chúc yêu cầu các đồng chí hỏa thiêu cái xác ô trọc của ông và đem tro rải khắp ba miền. Có lẽ ông sợ nhân dân sau này sẽ đào mả ông lên, lấy sọ làm bình đựng nước tiểu, xương cốt thì lấy roi đánh cho đã nư, rồi bỏ vào súng đại bác bắn tan ra tro, không cho linh hồn tội lỗi của ông được siêu thoát để rửa hận, giống như vua Gia Long trả thù vua Quang Trung chăng ?

 

Nhưng những đồng chí chí cốt cũng là kẻ thù ngấm ngầm từ lâu của ông đâu có chịu nghe lời ông, (có lẽ câu nói “trên bảo dưới không nghe” bắt nguồn từ đây) không chịu đem đi thiêu mà cứ giấu xác ông trong lăng để đêm đêm chui vào hòm kính “yêu” ông và “hành hạ” ông cho thỏa mãn cái khoái lạc của trò dâm ô thú tính của mình.

Bắt đầu là Tổng bí Lê Duẫn rồi tiếp theo các Tổng bí khác như Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu … giờ đến Nông đức Mạnh, lần lượt thay nhau nối ngôi thiên tử, ông vua nào cũng có thú “Yêu xác chết”, đêm đêm đều ôm xác ông Hồ để ngủ ..

Ông Lê Vân vì quá thương vợ, không nỡ để vợ nằm lạnh lẽo nơi hoang dã, nên bỏ tiền túi mua thạch cao, đất sét, ra công nặn tượng để chứa hài cốt vợ mình rồi đem về nhà để ngủ chung. Xét ra vô hại cho xã hội và rất đáng thương tâm.

Trong khi đó, những ông Tổng bí của đảng cộng sản Việt Nam, để thỏa mãn cái khoái lạc bệnh hoạn của cá nhân mình lại bắt dân chúng nai lưng, è cổ đóng góp hàng trăm thứ thuế để lấy tiền xây lăng, xây mộ cho ông Hồ một cách nguy nga, hoành tráng cốt phô trương thanh thế và chứng tỏ sự sùng bái của mình với lãnh tụ.

 

Theo Wikipedia Bách khoa từ điển mở Việt Nam mô tả thì sự xa xỉ lãng phí tiền bạc và công sức của nhân dân cả nước để xây lăng cho ông Hồ như sau:

 

“Trên đỉnh lăng là hàng chữ “Chủ tịch Hồ Chí Minh” ghép bằng đá ngọc màu đỏ thẫm của Cao Bằng. Cửa lăng làm từ các cây gỗ quý từ Tây Nguyên. Tiền sảnh ốp đá hoa cương vân đỏ hồng, làm nền cho dòng chữ “Không có gì quý hơn Độc lập Tự do” và chữ ký của Hồ Chí Minh được dát bằng vàng. 200 bộ cửa trong Lăng được làm từ các loại gỗ quí do nhân dân Nam Bộ, Tây Nguyên, Quảng Nam - Đà Nẵng, và bộ đội Trường Sơn gửi ra, và do các nghệ nhân nghề mộc của Nam Hà, Hà Bắc, và Nghệ An thực hiện. Cánh cửa vào phòng đặt thi hài do hai cha con nghệ nhân ở làng Gia Hòa đóng. Hai bên cửa chính là hai cây hoa đại. Phía trước và phía sau lăng trồng 79 cây vạn tuế tượng trưng cho 79 năm trong cuộc đời của Hồ. Hai bên phía nam và bắc của lăng là hai rặng tre, loại cây biểu tượng cho nước Việt Nam. Trước cửa lăng luôn có hai người lính đứng gác, 1 giờ đổi gác một lần.

 

Chính giữa lăng là phòng đặt thi hài ốp đá cẩm thạch Hà Tây. Trên tường có 2 lá quốc kỳ và đảng kỳ lớn, ghép từ 4.000 miếng đá hồng ngọc Thanh Hóa, hình búa liềm và sao vàng được ghép bằng đá cẩm vân màu vàng sáng. Thi hài Hồ đặt trong hòm kính. Qua lớp kính trong suốt, thi hài Hồ nằm trong bộ quần áo ka ki bạc màu, dưới chân có đặt một đôi dép cao su. Trong những dịp có người viếng lăng, sẽ có bốn người lính đứng gác. Chiếc hòm kính đặt thi hài là một công trình kỹ thuật và nghệ thuật do những người thợ bậc thầy của hai nước Việt - Xô chế tác. Giường được chế tác bằng đồng, có dải hoa văn bông sen được cách điệu, ba mặt giường lắp kính có độ chịu xung lực cao. Nóc giường bằng kim loại, có hệ thống chiếu sáng và hệ thống điều hòa tự động. Giường được đặt trên bệ đá, có hệ thống thang máy tự động.”

 

Đã 40 năm qua, mỗi năm công quĩ bị mất đi hàng ngàn tỉ  đồng một cách phí phạm xương máu của nhân dân để phục vụ cho việc bảo quản và canh giữ cái xác thối rữa ấy.

Ngoài tiền bạc xem như đổ sông đổ biển ra, khi ngủ chung với xác chết, âm dương cọ xát đã sinh là nhiều thứ bệnh kỳ lạ, quái ác tác hại đến xã hội rất khủng khiếp.

 

Bệnh giang mai ngày xưa theo truyền thuyết Mai Uyển An Lộc Sơn ngủ với xác chết Dương Quí Phi gây ra, chuyện bên Tàu, được các nhà khoa học tìm ra là do một loại vi trùng hình xoắn trôn ốc, có tên là Treponema Pallidum, xâm nhập cơ thể qua các vết trầy trụa ở bộ phận sinh dục, hậu môn hay miệng lúc làm tình rồi sinh ra lở loét. Nếu không kịp chạy chữa vi trùng sẽ ăn lan tới tim, gan, bao tử, hệ thần kinh và gây nên tử vong.

Sử chép rằng An Lộc Sơn bị con là Khánh Tự giết chết, nhưng truyền thuyết bảo rằng  An Lộc Sơn do bị lở loét hết châu thân, đau đớn quá mà chết.

 

Ngày nay, bệnh giang mai, một trong bốn chứng nan y xa xưa, đã được đẩy lui bằng thuốc trụ sinh Penicillin hay Erythromycin cho những ai dị ứng Penicillin.

Đối với bệnh “Ái tử thi” hiện nay đang lan truyền trong Bắc Bộ phủ, toàn bộ Ủy viên BCH Trung Ương đảng Cộng sản Việt Nam đều mắc phải, còn ghê gớm và di hại hơn bệnh giang mai nhiều lần hơn, bởi y khoa chưa tìm ra được thuốc chữa. Vi trùng bệnh này không hoành hành lở loét thân thể như vi trùng xoắn của bệnh giang mai dễ nhận biết mà nó nằm yên trong óc, làm rối loạn hệ thần kinh, làm người bệnh nghĩ ra những điều ghê gớm mà người bình thường không thể có được.

 

Theo nhà nghiên cứu tâm thần học Krafft-Ebing thì những kẻ nhiễm chứng “Ái tử thi”, Necrophelia, thường có những biểu hiện hết sức bất thường như:

- Rất sợ và tôn thờ xác chết, nhưng cũng bởi chính nỗi sợ này mà sinh ra trạng thái “phản nghịch” và hướng nỗi sợ hãi này thành sự thèm muốn nhục dục với xác chết.

- Có khoái lạc ngắm nhìn những người đã chết và thân thể bị cắt rời từng phần nhưng chưa đứt hoàn toàn.

- Những người nhiễm chứng “Ái tử thi” phần lớn là những người mang vẻ ngoài rất xinh đẹp và hiền lành, hay là một nhà trí thức, một vị giáo sư, tiến sĩ tính cách nhã nhặn, rất khó phát hiện.

- Có thú đam mê giết người hàng loạt. Lấy việc giết người hàng loạt làm thú vui. Dấu hiệu này được hiểu như “tình yêu với chết chóc” đơn thuần nhưng cũng hết sức nguy hiểm.

- Người nhiễm chứng “Yêu xác chết” còn biết đổ lỗi cho bệnh tâm thần để nhằm thoát khỏi tội lỗi của bản thân. Đáng sợ nhất là những kẻ trí thức, thành công trong công việc lại là những Necrophilia. Họ gây ra tội ác ghê tởm mà chỉ có quỉ dữ mới ham thích. Có thể nói đó là căn bệnh đáng sợ nhất của nhân loại cho đến nay.

Vân vân…

 

Tại nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam, từ khi ông Hồ chết đi, xác chết của ông bị các đồng chí đêm đêm ôm ấp, vi trùng bệnh “Ái tử thi” đã xuất hiện và lan tràn một cách nhanh chóng, tác hại ghê gớm trong nhân dân.

Thế hệ trẻ em sinh sau năm 1969 ngoài Bắc có hơn 50% bị bệnh suy khờ. Nhẹ thì tâm thần. Nặng thì hóa điên. Không tìm được nguyên nhân và không có thuốc men hay phương pháp nào để trị liệu cả. Nhiều người mê tín dị đoan, cho rằng tại ông Hồ chết trúng giờ trùng nên dân chúng bị tai họa như thế. Vì vậy, có câu ca dao loan truyền trong dân gian rằng:

 

Ông Hồ chết trúng giờ trùng,

Nên bầy con cháu dở khùng dở điên.

 

Sau năm 1975, vi trùng bệnh “Ái tử thi” theo chân đoàn quân xâm lược của Cộng sản Bắc Việt vào cướp miền Nam, khiến cho dân miền Nam bị vạ lây theo.

Câu ca dao trên được nối tiếp:

 

Ông Hồ chết trúng giờ trùng,

Nên bầy con cháu (ở Bắc) dở khùng dở điên.

Thằng tỉnh (ở Nam) thì đã vượt biên,

Những đứa ở lại nửa điên nửa khùng.

 

Lúc đó người ta vẫn chưa nhận ra được bệnh này do đâu và từ đâu gây ra, nhưng dần dần qua những việc làm ghê tởm của giới lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1945 ở ngoài Bắc trong việc “Cải cách ruộng đất” long trời lở đất, giết hơn 100 ngàn nông dân và năm 1968 ở Huế trong Tết Mậu Thân, 7000 người dân Huế vô tội bị bộ đội cụ Hồ đập chết bằng búa.

 

Qua những cuộc tàn sát tập thể như vậy khiến cho người ta nhớ ra chỉ có những kẻ bị bệnh “Yêu xác chết” mới có thể làm được để thỏa mãn thú tính của mình. Như thế chứng tỏ ông Hồ cũng đã bị nhiễm bệnh “Yêu xác chết” từ  những năm 1930, khi ngủ với xác chết Lênin ở Liên xô rồi.

 

Trước năm 1975 và nhiều năm sau đó cho đến hiện nay, những vụ việc điên khùng khủng khiếp khác liên tiếp xảy ra, ngày càng dồn dập, chứng tỏ đầu óc của giới lãnh đạo đảng cộng sản ở Bắc Bộ phủ bị con vi trùng Necrophelia làm cho vừa suy khờ, khùng điên vừa hung dữ, bạo tợn trong việc cai trị và điều hành đất nước qua một số việc hồi tưởng:

- Đại lộ kinh hoàng, mùa hè đỏ lửa năm 1972 dân chúng chạy loạn bị pháo đạn cộng sản bắn theo giết sạch. Xác người dân vô tội nằm ngổn ngang suốt đoạn đường dài mười mấy cây số, máu chảy thành sông.

- Năm 1976-1978, đẩy hàng triệu dân ra biển, đuổi hàng triệu gia đình lên rừng núi gọi là “Kinh tế mới” để cướp đất, cướp nhà.

- Phá toàn bộ rừng cao su, trà, cà phê, hồ tiêu trên toàn quốc để trồng khoai mì trong cái gọi là “tự túc kinh tế” làm cho nền kinh tế nông nghiệp sụp đổ hoàn toàn, gây nên nạn đói 1979.

- Đánh tư sản, cải tạo công thương nghiệp, cào bằng xã hội thành ăn mày tập thể.

- Bắt “tù lao cải” nửa triệu Quân, Cán, Chính thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa để trả thù, gây ra thảm cảnh tang tóc, chia lìa, ly tán cho nhiều triệu gia đình miền Nam.

- Chặt phá tan hoang rừng lâm nghiệp lấy gỗ bán lấy tiền bỏ túi riêng, tạo nên núi đồi trọc dẫn đến nạn lũ lụt, sạt lở, đất truồi thường xuyên hàng năm.

- Xây đập nước tràn lan vô tội vạ để lấy điện giờ bị mưa lũ, phải xả lũ bảo vệ đập, khiến cho hàng vạn gia đình sống dưới nguồn nước bị chết oan uổng. Tài sản ruộng vườn trị giá hàng tỉ tỉ đồng bị nước cuốn trôi. Dân đã nghèo nay lại càng thêm mạt.

 

Còn nhiều hậu quả tệ hại hơn nữa do bọn Bắc Bộ phủ nhiễm bệnh “Ái tử thi” gây ra vô số không thể liệt kê ra hết.

Nhưng điều đáng lo sợ nhất là giang sơn Việt Nam đang nằm trong tay bọn chúng. Chúng vì bệnh suy khờ,  lúc tỉnh, lúc điên, không biết rõ được đất nước này là của mình hay của Tàu. Có lúc chúng hô hoán ồn ào, bắt dân học tập bảo vệ biển đảo, đất nước theo câu “Tổ tiên ta có công dựng nước, Bác cháu ta phải cố công giữ nước” của ông Hồ lúc chưa theo chân Mác, Mao lên thiên đàng mù.

 

Có lúc chúng lại mụ mẫm với 16 chữ vàng lừa gạt của bọn Man Hán, mồm cứ lẩm bẩm câu “Tinh thần quốc tế vô sản”, “Thế giới đại đồng”, “Bên kia biên giới là nhà, bên này biên giới cũng là quê hương” rồi cả bọn như người mộng du, kéo nhau đi quì lạy bọn Tàu, dâng cho chúng đất liền, biển, đảo, Tây nguyên mà không ý thức được rằng mình đang làm gì.

 

Chuyện dâng nước cho Tàu, còn có nguồn tin nói rằng, đám lãnh đạo Ba Đình đều đã bị bọn Tàu khựa cho uống một loại thuốc độc kêu là “thi não đơn”. Thuốc này do bọn ma đạo Triệu Dương thần giáo, giáo chủ là Nhậm Ngã Hành đặc chế. Tác giả Kim Dung có kể và mô tả trong truyện “Tiếu ngạo giang hồ”. Truyện kể, để kềm chế và sai khiến giáo đồ nhất nhất trung thành với mình, Nhậm Ngã Hành bắt họ uống một viên “thi não đơn”. Mỗi năm cứ đến hạn kỳ, giáo đồ được ban thuốc giải, để không cho trùng độc trong óc phát tác. Nếu ai phản lại sẽ không được thuốc giải. Trùng độc sẽ toả ra rúc rỉa, đục cắn óc não khiến cho người ta đau đớn quằn quại, mặt mày bị biến dạng méo mó, thân thể bị rút co quắp lại rất khủng khiếp, cho đến chết.

 

Theo truyện, Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần là minh chủ võ lâm, thống lĩnh quần hùng đi đánh dẹp đám ma giáo, trông rất oai phong, lẫm liệt, đạo cao, đức trọng, ai nấy đều kính nể là thế nhưng khi vừa bị Nhậm Doanh Doanh, con gái của Nhậm Ngã Hành, búng vào miệng một viên “thi não đơn” là vội vàng quì mọp xuống lạy như tế sao, xin tha mạng và nguyện làm thân trâu chó suốt đời cho Nhậm cô nương sai khiến. Như thế đủ biết oai lực ghê gớm của viên “thi não đơn”.

 

Có lẽ lời đồn đoán trong dân chúng, đám Bắc Bộ phủ từ Lê Khả Phiêu cho đến Nông Đức Mạnh đều đã bị bọn Tàu cho uống loại thuốc độc này rồi nên mới có thái độ hèn nhát, khúm núm, sợ hãi đến độ phải dâng đất, dâng biển cho chúng như hiện nay là đúng ?

Chỉ khốn khổ cho người dân Việt sống trong vòng kìm kẹp, thấy nguy cơ mất nước trước mặt mà không biết phải làm sao để cứu nước, đành bó tay thúc thủ trước họng súng của bọn giáo đồ (đảng viên) của chúng cũng đang bị uống “thi não đơn” kềm chế hay đã nhiễm vi trùng “Ái tử thi”, hừng hực muốn giết người tập thể để thỏa mãn nỗi thèm xác chết.

 

Mới đây, tác giả một bài viết trên Thông Luận điện báo, tên Đáy, vừa phát hiện thêm một chứng bệnh lạ nữa cũng phát sinh từ bọn lãnh đạo Bắc Bộ phủ. Hình như cũng do vi trùng Necrophilia, “Ái tử thi” biến thể, cũng giống con vi trùng cúm Gà H5N1 hay cúm Heo H1N1, biến thể mỗi năm, mỗi lúc mỗi nguy hiểm hơn.

Đó là chứng bệnh “Hỗn giác”, tên y học là Synesthesia.

 

Theo tác giả: “Đây là một thứ bệnh thần kinh rất lạ. Bệnh thần kinh chứ không phải bệnh tâm thần. Bệnh nhân không điên nhưng năm giác quan, nghe, nhìn, sờ, nếm, ngửi pha trộn với nhau một cách vô lý. Y học mới khám phá ra bệnh này, nó còn nằm trong giai đoạn thử nghiệm. Hiện nay hơn 50% dân chúng Việt Nam đã bị mắc phải mà họ vẫn không hay biết”.

Tác giả giải thích: “Thí dụ như khi ăn một trái cam là tự nhiên thấy màu tím. Hai giác quan nếm và nhìn tự động phối hợp với nhau một cách vô lý”.

Có người cãi rằng:

- Chưa chắc là hoàn toàn vô lý, chỉ có thể là sự liên tưởng. Ví dụ như mỗi lần nghe nói tới cà ri dê là tự nhiên lưỡi thấy cay và mũi ngửi thấy mùi thơm.

- Không phải ! Đó chỉ là sự liên tưởng bình thường do sự thử nghiệm thường xuyên một quan hệ nhân quả như con chim bị tên, thấy cành cây cong là sợ. Như người Việt Nam hể nghe nói tới hai tiếng “quan chức” là tự nhiên nghĩ đến tham nhũng, cộng sản là gian trá… Đó là những gợi ý tự nhiên, không phải là Synesthesia, không phải là Hỗn giác.

 

Hiện tượng hỗn giác xảy ra khi các giác quan kích động lẫn nhau một cách tự động không theo một logic nào. Chẳng hạn, khi thấy một nhà tu hành là mũi ngửi thấy mùi vịt quay, tai nghe nhạc thính phòng là lưỡi cảm thấy mùi cua rang muối …

Và tác giả bài báo giải thích thêm về bệnh hỗn giác bằng ngôn ngữ chuyên gia: “Mỗi cảm giác là do sự kích động có phối hợp của vô số dây thần kinh, mỗi cảm giác như một chương trình điện toán tích lũy trong óc. Khi tình cờ một chương trình của một cảm giác A tự nhiên khởi động một chương trình của một cảm giác B là người ta bị hỗn giác, các cảm giác bị lôi kéo nhau một cách vô trật tự, nguyên do là trong chương trình của một số cảm giác bị lạc vào một “số lệnh” của một cảm giác khác…”

- Nhưng căn cứ vào đâu mà nói rằng hơn 50% người Việt bị hỗn giác ?

- Rất rõ. Mỗi lần các lãnh đạo đảng và nhà nước lên truyền hình nói chuyện là người ta thấy thối, mặc dù họ nói toàn chuyện đúng đắn như là chống tham nhũng, xóa đói giảm nghèo, săn sóc sức khoẻ cho nhân dân, cải tiến giáo dục v.v…

Kết luận bài báo, tác giả Đáy bỗng giật mình:

- Mà không chừng chính tui cũng bắt đầu bị hỗn giác rồi. Hôm qua bà xã tui rủ tui coi cái Youtube chiếu ông Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đọc diễn văn trước hội nghị Việt Kiều. Bà ấy cười ngặt nghẹo như coi một phim hề đặc sắc. Còn tui thấy thúi um.

 

Chết mẹ ! Cứ như bài báo của ông Đáy viết thì tôi cũng bị chứng hỗn giác lây qua đường truyền Internet cả mấy tuần nay rồi.

Hôm nghe ngài Nguyễn Minh Triết khoe rằng chỉ nói với Tổng thống Obama có một câu thôi mà “vừa động viên vừa phân hóa được nội bộ nước Mỹ”. Rồi chuyện “Trời sinh ra hai anh em, Việt Nam với Cu ba, một anh phía Bắc, một anh ở phía Nam, thay nhau gác, nghỉ để canh chừng hòa bình thế giới” trên Tivi, bỗng mắc cười nôn ruột, nôn gan, đái cả ra quần.

Lại mới đây, đọc bài viết: “Giữa đại hội Việt kiều: Một nỗi bình an” của nhà triết học còi hụ Nguyễn Hữu Liêm thì cũng bị ói mửa, thượng thổ hạ tả, gần chết.

Vội đi thăm phòng mạch. Bác sĩ khám, làm “test”  đủ thứ,  vẫn không tìm ra bệnh.

Giờ thì… chả lẽ tôi đã mắc bệnh hỗn giác ?.

Con bà nó ! Đã bỏ Việt Nam, chạy xa tới nửa vòng trái đất gần 20 năm nay để tránh lũ ôn dịch rồi mà giờ này chúng vẫn chưa chịu buông tha, cố đuổi tận, giết tuyệt sao đây ?

 

Nhưng ngồi đọc lại bài báo “Người ôm xác vợ gần 7 năm liền” bỗng nghiệm ra một điều lý thú:

 

Mấy anh nhà báo trong nước lâu nay cứ bị Đảng nắm đầu, xỏ mũi, xách tai, bắt đi bên “lề phải”, cái lưng và ngòi viết phải uốn cong theo hình tròn của cái bô đựng phân chứa đầy những chất màu vàng, quanh năm suốt tháng ca tụng lãnh đạo anh minh, đỉnh cao trí tuệ, nay vớ được cái tin hấp dẫn “người ôm xác chết”, đáng giá bạc tỉ. Mừng quá !

 

Cứ lấy chuyện “người thật việc thật”, loan tin, ngòi viết tha hồ mà vung vẩy. Cơ hội hiếm có, được dịp mượn chó mắng mèo.

 

Mượn chuyện ông Lê Vân  ở tỉnh Quảng Nam ôm xác vợ 7 năm liền, chửi xỏ bọn chóp bu Ba Đình ôm xác lão Hồ 40 năm, làm khổ lụy lê dân, để xả xú bắp thật sảng khoái.

Ai bảo bọn nhà báo chỉ chuyên nói láo ăn tiền ? Có lúc chúng cũng thâm lắm đấy chứ !

 

 

Nguyễn Thanh Ty

 

(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)

 

 

website counter