Đôi Mắt Phượng
(NGUYỄN ĐẠT THỊNH)
Tôi là một quân y sĩ ra
trường năm 1974; đơn vị đầu tiên, cũng
là đơn vị cuối cùng của tôi, là một tiểu
đoàn Nhẩy Dù. (Xin bạn đọc cho phép tôi
được bất chấp văn phạm, viết hoa
hai chữ "Nhẩy Dù", v́ đó là những chữ tôi
thương yêu nhất.)
Tôi lập gia đ́nh năm 22
tuổi, ngày c̣n là một sinh viên quân y. Mẹ tôi bảo
"chờ ra trường, có việc làm, có lương
nuôi vợ, rồi hẵng cưới vợ". Tôi biết
mẹ tôi có lư, nhưng t́nh yêu cũng không vô lư. T́nh yêu thúc dục
tôi cưới Phượng ngay. Nàng quá đẹp; thằng
Quỳnh, thằng Khương, thằng Định, những
đứa bạn cùng lớp bảo tôi, "Phượng
đẹp ngây ngất".
Phượng là nữ sinh
đệ nhất Trưng Vương; nàng cũng yêu tôi
nhưng xin một năm đính hôn để học hết
trung học. Tôi chờ; một năm dài được
chia thành 52 tuần lễ ngắn hơn, đánh dấu bằng
52 ngày chủ nhật chúng tôi gặp nhau.
Không phải là một nhà
văn, tôi không mô tả được nét đẹp của
Phượng; tôi chỉ biết là Phượng rất
đẹp, và nhất là có một sức hút dễ sợ;
chỉ cần gặp Phượng một lần là không
người đàn ông nào quên được nàng.
Xin đừng hiểu lầm
Phượng là "típ" người nở nang, ăn mặc
khêu gợi; sức hút của Phượng là sức hút ngầm
do duyên dáng, do t́nh ư, chuyển đi từ đôi mắt. Đôi
mắt thật là t́nh. Mẹ tôi phán là đôi mắt lẳng
lơ; tôi không thích hai chữ này v́ nó làm mất đẹp cặp
mắt trữ t́nh của Phượng.
Trước hôn nhân tôi mê mệt
với đôi mắt ấy; sau hôn nhân tôi khổ sở, bực
bội cũng v́ đôi mắt ấy. Không một người
đàn ông nào, dù chỉ gặp Phượng lần đầu,
không có cảm tưởng đă yêu nàng và t́nh yêu của họ
không bị nàng hất hủi. Ít nhất Phượng cũng
không xua đuổi, không vô t́nh với họ. Tôi mất một
số bè bạn cũng v́ Phượng. Chỉ một vài lần
gặp Phượng, chạm mắt với Phượng cũng
đủ để họ thầm nghĩ là tôi đă mọc
sừng.
Dĩ nhiên vợ tôi không thể
có t́nh ư với tất cả mọi người, nhưng
cái khổ là đôi mắt đắm đuối của
Phượng không nh́n mọi người một cách thản
nhiên như người ta nh́n những vật vô tri quanh
ḿnh.
Giờ này, vợ tôi không c̣n
trên cơi đời trần tục nữa tôi mới thấm
thía hiểu được một việc rất giản
dị, rất tầm thường là không tạo ra đôi
mắt của chính ḿnh, Phượng không có trách nhiệm ǵ
về những đổ vỡ đôi mắt gây ra. Chỉ
có tác giả đôi mắt đó - ông Thợ Tạo - mới
đúng là người tôi phải oán trách.
Đi đôi với cặp mắt
t́nh tứ là một đồng tiền rưỡi (một
ở bên má trái, và một nửa ở cạnh môi dưới)
trên khuôn mặt tươi như hoa, trắng mỏng manh.
Cái đồng tiền rưỡi ấy - dù chỉ có
đồng rưỡi - có ma lực giết người.
Xin hiểu hai chữ "giết người" theo nghĩa
trắng của nó. Chỉ riêng tôi biết cũng đă có 2
người chết đuối trong cái vũng thịt sâu
không đầy nửa ly này.
Một trong 2 người xấu
số là bạn thân của tôi. Nó tự bắn vỡ toang
đầu ngay trên bậc cửa nhà tôi. Lá thơ tuyệt mạng
trong túi nó chỉ có mấy chữ "h́nh dung em đang nằm
trong tay một người đàn ông khác, anh không c̣n can
đảm sống nữa". Tôi cũng không bao giờ
đủ can đảm để t́m hiểu xem vợ tôi
có nằm trong ṿng tay nó không. Hai gịng chữ nó viết không
cho phép tôi hiểu khác được.
Tôi chạy trốn trước
mọi ngờ vực; tôi quan niệm đă không tránh
được băo cát th́ thà vùi đầu xuống cát để
không c̣n biết tới giông băo bên ngoài nữa. Tôi hèn nhát? Có
thể; nhưng tôi làm ǵ hơn được? Không chỉ
yêu thương vợ, tôi vẫn c̣n say mê vợ tôi sau 3
năm chăn gối.
Mẹ tôi, chị tôi đề
quyết vợ tôi đă cho tôi ăn bùa mê, thuốc lú. Tôi hiểu
quan điểm những người thân của tôi; tôi hiểu
cả định mệnh của tôi, của vợ tôi, và của
cả những người say mê vợ tôi nữa.
Tôi vừa nói tôi hiểu định
mệnh của vợ tôi. Điều đó cần được
giải thích rơ hơn; đôi khi tôi nghĩ Phượng cũng
đáng trách, nhưng trong đa số những đổ vỡ
quanh nàng, Phượng chỉ thụ động, đáng
thương. Phượng sợ và tránh né tất cả mọi
gặp gỡ. Những buổi liên hoan của đơn vị
tôi, những cuộc họp khóa, họp bạn của tôi,
luôn luôn Phượng cáo bệnh hay t́m cớ bận con
để không tham dự.
Cũng như tôi, Phượng
sợ hậu quả của những cuộc giao tiếp,
sợ cái bản chất đa cảm, đa t́nh của
chính ḿnh. Không phải là một người đàn bà trắc
nết, vợ tôi thật sự chỉ là nạn nhân của
bản ngă.
Sở dĩ tôi phải dài lời
nói về vợ tôi như vậy, là để người
đọc h́nh dung được cái ray rứt, khổ sở
của tôi trong 14 tháng tù khổ sai được cộng sản
đánh bóng bằng hai chữ "cải tạo".
Cũng như mọi sĩ
quan cấp úy khác, tôi bị cộng sản lừa bằng
cách chơi chữ. Trên đài phát thanh, chúng kêu gọi binh sĩ
tŕnh diện và đem theo 3 ngày ăn. Sau 3 ngày học tập,
thành phần binh sĩ được ra về yên ổn. Tiếp
theo đó, chúng kêu gọi các sĩ quan cấp úy tŕnh diện
với 10 ngày tiền ăn. Chúng tôi tin tưởng, hoặc
ít ra chúng tôi cũng mong mỏi là thời gian cải tạo
chỉ kéo dài 10 ngày. Đó là cái lầm của tôi, cái ảo
tưởng đưa đến chỗ tự diệt của
mọi cán bộ chỉ huy.
Cộng sản hiểu rằng
mặc dù nhất thời thất trận, lực lượng
quân sự của miền Nam vẫn c̣n là một đe dọa
nghiêm trọng đối với nền thống trị mà
lúc ấy chúng mới rắp tâm đem đặt lên
lưng người dân Nam Việt. Một triệu quân nhân
bị đặt vào hoàn cảnh thất thế v́ những
lừa đảo, phản phúc chính trị, những dốt
nát chiến lược đă bị những mũi dùi tấn
công của 15 sư đoàn Bắc Việt xé thành từng mảng
nhỏ. Muốn ngăn ngừa sự kết hợp lại
của những mảng quân lực, cộng sản chủ
trương đánh vỡ đầu rắn: chúng phải
tiêu diệt bằng mọi giá hệ thống cán bộ chỉ
huy của QLVNCH. Trong 3 ngày học tập, chúng đối xử
hết sức nhă nhặn lễ độ với anh em hạ
sĩ quan, binh sĩ. Không một h́nh thức hành hạ giam
cầm, không một lời nói nặng, một đe dọa.
Sau 3 ngày học tập binh sĩ
đem loan truyền với chúng tôi cái tin tưởng học
tập qua loa, ra về đúng kỳ hạn. Điều đó
làm đa số sĩ quan cấp úy chúng tôi yên ḷng khăn gói
lên đường với 10 ngày tiền ăn. Nhiều anh
lười, không đem theo cả mùng mền, tính ngủ nhờ
với bạn bè cũng đủ qua khoảng thời gian
10 ngày ngắn ngủi.
Dĩ nhiên là chúng tôi đă lầm;
chỉ ngay sau khi cái bẫy sập xuống đầu chúng
tôi, cộng sản trắng trợn vứt bỏ mặt nạ
"đại đoàn kết dân tộc, xóa bỏ hận
thù".
Bài học đầu tiên chúng
tôi được nghe qua giọng nói hằn học căm
hờn của một anh cán bộ quản giáo Bắc Việt.
Anh ta oang oang bảo chúng tôi, "Các anh quên hết địa
vị xă hội của các anh đi. Kể từ ngày hôm
nay, vợ con các anh sẽ ngửa tay xin nhân dân từng hột
cơm; và vài tháng sau vợ các anh chỉ c̣n nước
đi làm đĩ để sống".
Chúng tôi thắc mắc về
thời gian 10 ngày, hắn cười khẩy, vẻ mặt
câng câng, đểu cáng, "Các anh chỉ có 10 ngày ăn thôi
ư? Đừng lo, cứ ăn hết 10 ngày đó đi
đă; sau đó ăn bám vào sức sản xuất của
nhân dân".
Trước mỗi cửa
pḥng giam, cộng sản cắc cớ bắt chúng tôi phải
dán lên khẩu hiệu "không có ǵ quư bằng độc lập,
tự do". Cán bộ Việt Cộng c̣n phụ giải "Người
đi trên sa mạc thấy không có ǵ quư bằng nước
uống. Các anh sẽ thấy đối với các anh th́
không có ǵ quư bằng tự do".
Đề cao cái giá của tự
do trong nhà giam quả là việc làm vừa châm biếm, vừa
độc ác. Nhưng không phải chỉ trong nhà giam tôi mới
thấm thía hiểu tự do là quư. Sau này ra khỏi trại
cải tạo, sống trong cái nhà giam lớn hơn là nguyên
cả Miền Nam Việt Nam tôi càng thấy rơ không phải
chỉ một ḿnh tôi, mà cả 20 triệu người dân
Nam Việt đều đang khắc khoải giữa sa mạc
thống trị, thèm khát ngụm nước tự do.
Xin trở lại với trại
cải tạo và với vợ tôi; tôi bị giam 2 tháng
hơn th́ một buổi chiều nghe loa gọi lên văn
pḥng. Tôi tái người, nghĩ ngay đến những vụ
thủ tiêu, biệt giam, thường xẩy ra đối
với những thành phần cộng sản gọi là ngoan
cố.
Bản chất hiền lành,
tôi không ra mặt chống đối bọn giảng viên,
quản ngục. Cái tội của tôi chỉ là không nuốt
trôi được mớ lư thuyết rẻ tiền, lẩm
cẩm của cộng sản. Nhưng đối với
chúng, đó không phải là một khinh tội. Tôi lo lắng
chờ đợi một h́nh thức trừng phạt v́ trọng
tội trí thức.
Lên đến văn pḥng, tôi
được một anh binh ba Bắc Việt, mặt non
choẹt, đưa vào pḥng chính ủy. Và tôi đă chết
đứng khi thấy Phượng trong đó.
Giọng đầy cải
lương, nhân vật số một của trại giam bảo
tôi, "Xét thành tích học tập tốt của anh, nhân dân
đặc biệt cho anh được nhận sự
chăm nuôi của gia đ́nh".
Tôi học tập tốt? Thật
là mai mỉa; những âm thanh giảng huấn chan chát của
bọn cán bộ cộng sản đối với tôi không
một mảy may khác những tiếng cuốc đất
trong giờ lao động sản xuất. Tôi đoán hiểu
cái lư do đă khiến "nhân dân đặc biệt cho phép"
tôi được nhận sự thăm nuôi của gia
đ́nh.
Cặp mắt nẩy lửa
v́ giận, tôi nh́n Phượng. Vợ tôi đă đến
cái nước đi làm đĩ như bọn cộng sản
tiên đoán rồi ư? Phượng cũng nh́n tôi, đôi
mắt vẫn t́nh tứ, nhưng buồn thăm thẳm
và ướt đẫm. Những giọt lệ lăn dài
trên đôi má nhung mịn màng làm ḷng tôi se thắt. Tôi thèm
bước tới, ôm Phượng vào ṿng tay, và hôn dài trên
đôi mắt đắm đuối ấy. Nhưng dĩ
nhiên ngoại cảnh không cho phép tôi làm việc tôi thường
làm đó.
Vợ tôi nghẹn ngào, "Bé
Mai nhớ anh lắm".
Bé Mai! Đứa con gái 2 tuổi của
tôi, báu vật của vợ chồng tôi! Tôi đứng khựng
như trời trồng trước cái h́nh ảnh nhỏ
bé, thương yêu mà vợ tôi vừa gợi ra.
Suốt 10 phút gặp gỡ,
tôi không nói được một lời nào với Phượng
cả. Cổ họng tôi nghẹn cứng; rồi bên tai tôi
văng vẳng thật xa có tiếng nói của tên chính ủy:
"Thôi, xách đồ ăn về pḥng đi, Tuần sau lại
được thăm nuôi nữa".
Đêm đó tôi không chợp mắt.
Tôi h́nh dung những chuyện đă xẩy ra giữa vợ
tôi và tên chính ủy cộng sản trước khi tôi
được dẫn vào và sau khi tôi bị đưa ra khỏi
văn pḥng hắn. Tôi không tin đă có ǵ quá đáng trong pḥng
làm việc. Nhưng sau đó hắn có thể đến
nhà tôi hay bảo vợ tôi đến một chỗ nào
đó.
Tuần sau và những tuần
kế tiếp, Phượng đều đều đến
thăm tôi, mỗi lần đem theo một món ăn mà
trước kia tôi ưa thích. Tôi nuốt những món khoái khẩu
mà có cảm tưởng như ḿnh đang ăn rơm khô,
không mùi, không vị. Mỗi lần thăm viếng chúng tôi
được nói chuyện với nhau 10 phút. Toàn những
chuyện bâng quơ. Cả hai đứa chúng tôi đều
không dám đả động tới điểm ngờ vực
đau xót của tôi.
Có lần Phượng nói với
tôi bằng cái giọng thiết tha nhưng nghiêm trọng, "Em
chỉ xin ḿnh tuyệt đối tin tưởng là em yêu
ḿnh. Suốt đời em, em chỉ yêu có một ḿnh ḿnh. Mặc
dù những ǵ đă xẩy ra hay sẽ xẩy ra th́ t́nh em
yêu ḿnh vẫn măi măi là sự thật duy nhất".
Qua tâm linh, tôi biết Phượng
nói thật. Tôi muốn quên những việc đáng buồn
đă xẩy ra; quên không được, tôi cố gắng
bào chữa cho Phượng. Nhưng ghen tương, ích kỷ,
cũng không phải là những cảm nghĩ nhỏ trong
ḷng người chồng.
Những cuộc thăm viếng
kéo dài được 4 tháng th́ một hôm Phượng bảo
tôi, "Tuần sau em về Long Xuyên với má; sống ở
thành phố không có sinh kế ǵ hết".
Tôi hăng hái khuyến khích vợ
tôi xa ĺa Saigon. Ít nhất về ruộng sống với mẹ
Phượng cũng đỡ phải lo 2 bữa ăn
hàng ngày, cái lo to lớn của người thị dân sau
ngày bị giải phóng.
"Mỗi tuần được
gặp em là niềm an ủi lớn cho anh", tôi bảo vợ.
"Nhưng cái nh́n ngờ vực, khó chịu của 2,000
anh em đồng đội, đồng cảnh trước
việc anh được uu đăi làm anh khổ sở. Anh
muốn chịu chung những đầy ải với họ".
Tuần sau Phượng không
đến thăm tôi nữa. Cuộc sống khổ sai
không hạn định trở thành dài hơn v́ thiếu sự
chia cắt của những tiêu mốc ngắn hạn. Tôi
trở lại vị trí của cái máy người, vô tri
giác, không phản ứng, bảo đi th́ đi, bảo học
th́ học, bảo lao động th́ lao động. Những
bạn nào đă sống trong trại cải tạo của
Việt Cộng hẳn đồng ư với tôi là cộng sản
đă thành công trong việc làm chúng tôi mất hết tri giác.
Không vui, không buồn, không hy vọng, thất vọng, không
mong chờ bất cứ một điều ǵ nữa. Cuộc
sống hàng ngày như một bộ máy được
điều động bằng những tiếng c̣i, những
khẩu lệnh. Phần ăn quá đói làm tất cả
chúng tôi t́m được cái khôn ngoan của loài vật:
không làm một cử động thừa, không nói một
câu thừa để không phí phạm bất cứ một
phần thật nhỏ nào cái sinh lực le lói c̣n trong xác
người.
Chính trong trạng thái vật vờ
của một xác chết chưa chôn ấy, tôi nhận
được giấy phóng thích. Cầm tờ giấy chấm
dứt cuộc sống tù ngục của ḿnh trong tay, tôi dửng
dưng như cầm một tờ truyền đơn học
tập. Nói dửng dưng cũng vẫn chưa đúng;
tôi không ư thức được những thay đổi tờ
giấy mang lại cho tôi. Nhẩn nha nhơi từng hột
bắp của bữa ăn trưa đói khổ tôi nghe
cơ thể khoan khoái với chút bồi dưỡng ít oi.
Trái bắp có trong tay vẫn quư hơn hai chữ "tự
do" mới viết trên giấy.
Một cán bộ bảo tôi, "Chiều
nay anh khỏi lao động; về sửa soạn nóp, chén
trả lại nhà kho".
Khỏi lao động, một
tin mừng khác. Tôi trở về căn pḥng giam hôi hám
nhưng mát rượi như một thiên đàng so sánh với
cái hỏa ngục lao động sản xuất mà các bạn
tôi đang chịu đựng ngoài trời.
Bốn giờ chiều Phượng
đón tôi ngoài cổng trại giam. Người vợ
đài các của một bác sĩ mặc cái áo bà ba vải
bông và cái quần đen, đứng vịn một chiếc
xe đạp đàn ông cũ kỹ. Có thể tôi sẽ ít
ngỡ ngàng hơn nếu từ trong thế giới tù ngục
bước ra được gặp lại thế giới
cũ của ḿnh với xe honda, với áo dài. Tôi đang
bước vào một thế giới hoàn toàn khác lạ sau
chưa đầy 2 năm mất nước.
Thế giới bên ngoài nhà tù
không phải ít khe khắt, ít đọa đầy; suốt
một năm trời tôi phải sống trong chế độ
"quản chế của nhân dân"; tôi xin giải thích
những chữ văn hoa này. Chế độ "quản
chế của nhân dân" có nghĩa là tôi phải làm mọi
không công, phải sợ sệt tất cả mọi người.
Bất cứ ai trong phường cũng có quyền phán xét
là tôi chưa giác ngộ, cần học tập thêm, là tôi lại
đi tù nữa.
Tôi cúi mặt trước tất
cả mọi người, dù đó chỉ là một đứa
con nít. Tôi vâng dạ, tôi tuân lệnh, không cần biết lệnh
đến từ đâu. Một bà hàng xóm gọi tôi đến
coi chứng bệnh cho thằng con tám tuổi. Sau khi quan sát
kỹ mọi triệu chứng, tôi bảo bà là con bà bị
thương hàn và không có cách nào hay hơn là đưa nó
đi bệnh viện. Bà quắc mắt, "Anh đi học
tập ra mà c̣n như vậy đó hả? Nhân dân có quá nhiều
nhu cầu để bệnh viện thừa chỗ trống
cho một đứa con nít nóng lạnh. Anh không biết cách
nào khác nữa sao?"
Tôi đề nghị bà đừng
cho con ăn ǵ hết để ruột không hư. Bà ta cáu
kỉnh nạt, "Lang băm tư bản".
Sau khi tôi về không hiểu bà
có nghe lời tôi khuyến cáo không, nhưng rất may là
đứa trẻ lành bệnh. Suốt nửa tháng trời
tôi hồi hộp lo sợ: cái chết của đứa trẻ
v́ thiếu thuốc, thiếu chăm sóc có thể
đưa tôi trở lại trại cải tạo như
không.
Nguồn an ủi của tôi là
số người thiếu ư thức như bà hàng xóm mà tôi
vừa kể tương đối rất ít; đa số
dân Saigon sống trong một t́nh đoàn kết ngấm ngầm
nhưng khắn khít. Một bà cụ dúi cho tôi gói gạo nhỏ
qua câu nói chí t́nh, "Bác sĩ phải ăn thêm mới sống
nổi, tôi già rồi, thiếu thốn chút đỉnh cũng
không đến nỗi nào". Bà vợ của một công
chức c̣n đang tù tội cho tôi đôi giầy. Ông hàng xóm
sát vách cho cái áo.
Nhưng mọi nguồn vui của
tôi đến từ Phượng th́ nàng cũng là nguyên nhân
của mọi buồn khổ. Phượng làm đĩ ra
mặt, không c̣n e dè ǵ tôi nữa cả. Vợ tôi không chỉ
tống t́nh cán bộ cộng sản để thăm nuôi
tôi nữa, mà xuống đến tận chân thang của xă
hội: mỗi ngày vài lần những anh phu xích lô đến
gọi Phượng đi khách. Những lần đầu
tiên Phượng c̣n ngượng với tôi, nhưng sau quen
dần, nàng chỉ bảo tôi, "lát em về".
Phần tôi, tôi vẫn phải
t́nh nguyện xung phong trong mọi công tác nặng nhọc của
phường như hốt rác, quét đường, trồng
cây, thông cống, .. Tôi xung phong để được chấm
điểm, xung phong để khỏi trở lại lao tù
cải tạo. Đôi khi nghĩ quẩn tôi cho rằng đi tù
mà c̣n tự do hơn chế độ nhân dân quản chế.
Thêm một lần nữa, tôi
tuyên dương sự thành công của cộng sản. Chúng
đă hoàn toàn đập tan uy thế của giới chỉ
huy, giới trí thức miền Nam. Suốt một năm ra
khỏi tù, tôi không được phép làm bất cứ một
việc ǵ cả. Nói một cách khác, tôi phải ăn bám vào
đồng tiền vợ tôi ngày ngày bán thân tạo ra. Sau 31
năm, nghĩ lại tôi vẫn rùng ḿnh khiếp sợ.
Tôi xin độc giả
ngưng đọc một phút để h́nh dung cái nhục
nhă của tôi, của tất cả giới trí thức miền
Nam. Tôi không đủ can đảm để nói bất cứ
câu ǵ với vợ tôi về việc làm của nàng; cả
hai chúng tôi cúi đầu chịu phép trước guồng
máy xă hội mới.
Nếu một ngày tù dài bằng
một ngàn năm sống tự do th́ 365 ngày bị trói tay,
thất nghiệp, sống đói khổ dưới quyền
quản chế của nhân dân, và nh́n vợ đi làm đĩ
chắc phải dài hơn sự hiện hữu của cả
hệ thống vũ trụ.
Giữa hai vợ chồng tôi
nẩy sinh ra một t́nh trạng ngượng ngập khó tả.
Ít khi tôi dám nh́n thẳng vào mắt Phượng, và gần
như không bao giờ tôi dám nói với nàng chuyện ǵ khác
hơn là những câu đối thoại tầm thường
quanh sinh hoạt nho nhỏ trong nhà.
Thỉnh thoảng bà mẹ vợ
tôi lén lút đem được ít gạo, ít thịt lên cho
chúng tôi. Qua những cuộc tiếp tế lậu này, tôi
khám phá thêm được một bí mật: vợ tôi không hề
về Long Xuyên với mẹ như nàng đă nói với tôi.
Phượng đă làm ǵ, ở đâu, trong 7 tháng trời
tôi nghĩ nàng về quê sống với mẹ? Cả đến
câu hỏi này cũng chưa lần nào tôi dám hỏi Phượng.
Tôi trốn chạy một sự thật phũ phàng nào nữa
đó sẽ đến, nếu Phượng phải trả
lời tôi.
Tối 30 tháng Chín 1978, sau khi
theo một anh xích lô "đi khách" về, Phượng
kéo tôi vào pḥng trong cùng với bé Mai. Trên bộ ván thay cho cái
giường nệm đă đi vào chợ trời từ
hai năm trước, Phương mở gói thịt quay ra
rồi bảo tôi, "Ḿnh ăn với em".
Từ sau ngày mất nước
đây là lần đầu tiên tôi lại được
nh́n thấy miếng thịt quay; Phượng lăng
xăng bới cơm, và vợ chồng con cái chúng tôi ăn
uống ngon lành như chưa bao giờ được
ăn ngon đến như thế.
Nhưng đó không phải là
điều ngạc nhiên duy nhất của tôi; ăn uống
xong, vợ tôi kéo từ trên đầu tủ xuống một
gói giấy: bên trong là một bộ đồng phục
thanh niên xung phong. Tay chân run rẩy, Phượng trải bộ
quần áo lên mặt bộ ván, rồi giọng nói cũng
run rẩy nàng bảo tôi, "8 giờ sáng mai, ḿnh mặc
đồng phục này đứng đón tàu ở bến Bạch
Đằng".
"Đón tầu? Để đi
đâu?"
Không trả lời câu hỏi
của tôi, vợ tôi chỉ lập cập nói, "Em đă
đóng đủ 10 cây cho họ rồi".
Mười cây vàng! Tôi choáng
váng với con số lớn khiếp đảm đó.
"Vàng đâu mà em có đến
10 cây?". Câu hỏi buột miệng không nuốt trở
vào được nữa, tôi chỉ c̣n biết nh́n vợ
tôi, câu xin lỗi ngầm chứa trong ánh mắt. Phượng
cũng nh́n tôi, đôi mắt thăm thẳm t́nh tứ trên
khuôn mặt vẫn c̣n đẹp dù đă gầy đi và dạn
dầy phong trần.
Sau một phút im lặng, nàng
nghẹn ngào, "Em không biết ḿnh có tin hay không, nhưng sự
thật lúc nào em cũng yêu ḿnh".
Tôi ôm Phượng vào ḷng; giữa
một xă hội thù hận, cái bóng mát yêu thương nhỏ
bé thật là vô giá. Mặc dù Phượng chưa nói,
nhưng tôi cũng đoán hiểu mục đích vượt
thoát của chuyến đi ngày mai, và hiểu 10 lượng
vàng, giá của chuyến đi là kết quả của những
canh dài Phương đem thể xác ra cho thiên hạ dầy
ṿ để góp nhặt từng đồng hầu mua tự
do cho tôi.
Cổ nghẹn lại, tôi
không nói được một tiếng nào cả; tôi vừa
sung sướng trước những bằng chứng hiển
nhiên của một mối t́nh to lớn, bền chắc, vừa
xấu hổ nhận những hy sinh nhục nhă của vợ.
Phượng bảo tôi, "Em
chỉ đủ tiền đóng cho ḿnh; nhưng em với
con vẫn đi theo ḿnh". Nàng giải thích cho tôi hiểu
chuyến tầu vượt thoát là tầu thầu việc
chuyên chở thanh niên xung phong đi làm rừng ở cửa
Cần Giờ. Sáng mai, tôi sẽ cùng với 30 người
nữa đội lốt thanh niên xung phong xuống tầu
tại bến Bạch Đằng. Đàn bà, trẻ con đi
đường bộ xuống ngă ba Đồng Chanh, chờ tại
đó và sẽ đổ lên tầu. Họ là những người
đi lậu, không đóng vàng.
"Người ta đi lậu
nhiều lắm", Phượng bảo tôi. "Em cũng
trà trộn vào đám người đó; không lẽ người
ta xô ḿnh xuống sông. Sợ ǵ?"
Tôi sợ. Rùng ḿnh tôi nghĩ
đến cảnh "người ta xô vợ con tôi xuống
sông", nhưng có sợ tôi cũng không giải quyết
được cái khó không tiền và đành theo mọi xếp
đặt của Phượng.
Đêm đó tôi trằn trọc
không ngủ, Phượng cũng không ngủ. Vào khoảng
gần sáng nàng hỏi tôi, "Ḿnh đă đủ tin vào
t́nh em yêu ḿnh để tha thứ hết mọi việc cho
em chưa?"
"Anh tin. Anh yêu ḿnh".
"Em c̣n một tội nữa,
chưa thú nhận được với ḿnh".
Trong bóng đêm, tôi lặng
thinh lo lắng. Ngần đó bất hạnh chồng chất
vào một cuộc sống ngắn ngủi, cay cực, c̣n
chưa đủ nữa hay sao.
Vợ tôi thở dài, "Lúc
đó em c̣n khờ quá nên chuyện mới xẩy ra. Em phải
nói dối ḿnh là em về Long Xuyên với má. Thật ra em
không muốn ḿnh buồn".
Dù vợ tôi chưa nói ra,
nhưng tôi cũng đoán hiểu.
"Em có con?" tôi hỏi.
Rúc đầu vào ngực tôi, vợ
tôi thút thít khóc, "Ḿnh tha cho em".
Đứa con chỉ là hậu quả
đương nhiên của những việc làm mà tôi đă
nh́n vợ tôi hàng ngày đi theo những bác phu xích lô để
làm. Bây giờ tôi lại hiểu mục đích cao cả của
việc làm đê tiện đó. Tôi thương Phượng
hơn là trách nàng.
"Ngày mai em muốn cho con
cùng đi?"
"Nếu ḿnh đồng ư".
Dĩ nhiên tôi đồng ư;
đồng ư đưa những người thân nhất
đời ḿnh vào chuyến đi địa ngục, vào
ṿng tay tử thần.
Trước 5 giờ sáng hôm
sau, trong bộ đồng phục thanh niên xung phong, tôi chở
Phượng và bé Mai trên chiếc xe đạp mà mấy
tháng trước Phượng đă dùng để đón
tôi ra khỏi trại tù cải tạo. Mặc dù giờ hẹn
là 8 giờ, nhưng tôi vẫn đi sớm để hàng
xóm đừng để ư đến bộ đồng phục
của tôi. Hơn nữa, Phượng c̣n ghé Phú Nhuận,
nơi nàng gởi nuôi thằng Vinh, đứa trẻ ra
đời trong thời gian tôi ở tù.
Mọi việc xuôi lọt, và
tương đối dễ dàng: 7 giờ sáng tôi đến
điểm hẹn; nhiều người cũng mặc
đồng phục như tôi đă có mặt; nh́n thái độ
ngỡ ngàng, dè dặt của họ, tôi hiểu họ cũng
như tôi, ngoài bộ áo thanh niên xung phong, chúng tôi không xung
phong làm ǵ hết.
Phượng bảo tôi, "Ḿnh
chờ ở đây, em qua Tân Thuận đón đ̣ máy".
Nh́n vợ lưng đai một
đứa con, chở đứa thứ nh́ trên thanh ngang xe,
ra sức đạp chiếc xe cót két, tôi nghe đứt ruột.
Nửa tiếng đồng hồ sau tôi xuống tàu, chọn
chỗ ngồi ngay bên hông, hy vọng giúp đỡ Phượng
đưa con lên. Khoảng 8 giờ 45, tàu đến ngă ba
sông Đồng Chanh; bốn chiếc đuôi tôm xáp lại,
đàn bà trẻ con ồn ào dành nhau leo lên. Tôi đỡ bé
Mai trên tay Phượng, rồi kéo Phượng, tay c̣n bồng
thằng Vinh lên theo. Cuộc đổ bộ của khoảng
70 đàn bà, trẻ con lên tàu không những đă công khai mà
c̣n ồn ào, hỗn độn, tranh dành, la lối, đính
chánh hùng hồn cái huyền thoại gán cho cộng sản một
hệ thống an ninh bao trùm và hữu hiệu. Hàng chục
khách thương hồ và ít nhất là 4 người tài công
đuôi tôm đă chứng kiến và chắc chắn cũng
đă biết mục đích của chuyến đi,
nhưng cộng sản vẫn không bắt buộc
được họ khai báo, phản phúc đồng bào ruột
thịt.
Mười rưỡi, tàu ra
đến cửa biển Cần Giờ, và trưa hôm
đó quê hương thương yêu chỉ c̣n là một vệt
dài đậm hơn mầu biển. Đến lúc này các "giới
chức" trên tàu mới ḥ hét chửi mắng những
người vượt thoát lậu. Họ bảo chỉ
dự trù lương thực và nước uống cho những
người có ghi tên và có góp vàng. Những người khác sẽ
không có khẩu phần.
Phần ăn và nhất là phần
nước uống ít oi của tôi được chia làm 4;
bao tử trống nhưng tâm tư vợ chồng chúng tôi
tràn đầy hạnh phúc. Vợ tôi ngồi sát bên tôi, tay ẵm
thằng Vinh, bé Mai nằm gọn trong ḷng tôi; đầu vợ
chồng tôi đội chung một cái áo, vừa làm nón cho
người lớn, vừa làm mái nhà cho trẻ con.
Ngồi bó rọ trong cái cảnh
mà nếu được nh́n thấy, chắc mọi
người phải gọi là địa ngục trần
gian, vợ chồng tôi bàn chuyện thiên đàng mộng
tưởng. Cái thiên đàng của chúng tôi rất giản
dị: bất cứ nơi nào cho tôi được đem
sức đàn ông ra đi làm, làm bất cứ việc ǵ
để nuôi vợ, nuôi con.
Tôi bảo Phượng, "Anh
sẽ làm việc, làm ngày, làm đêm, để không bao giờ
em và con c̣n phải thiếu thốn khốn khổ nữa".
"Em thương ḿnh",
Phượng thủ thỉ bên tai tôi. "Không bao giờ em
c̣n làm ḿnh buồn nữa".
Tất cả những cam kết,
hứa hẹn, dự tính đẹp như mộng ấy,
chúng tôi đem ra làm thức ăn để đánh lừa
cơn đói. Khẩu phần của tôi mỗi bữa khoảng
2 chén cơm chỉ vừa đủ cho 2 đứa nhỏ.
Phượng và tôi nhắp một đầu đũa
để cầm hơi.
Qua đến ngày thứ 3, v́
đói quá, khi đi lănh cơm tôi tḥ tay vào nồi, vừa bốc
thêm một nắm cơm vừa nói, "Cho tôi xin thêm chút
cơm".
Một quả đấm bay
vào mặt tôi; yếu đuối sau 14 tháng bị giam cầm
đói khổ, yếu đuối sau 3 ngày thiếu cơm,
thiếu nước, tôi té ngửa dưới sức mạnh
của quả đấm trời giáng.
"ĐM quân ăn cướp.
Đă đi lậu mà c̣n đ̣i ăn nữa hả".
Quả đấm tuy đau,
nhưng tôi vẫn mừng v́ cà mèn cơm chưa đổ.
Bưng cà mèn đầy cơm hơn nhờ bốc thêm
được một nắm về mái lều to bằng
manh áo, tôi sung sướng nh́n Phượng được
ăn thêm miếng cơm thứ nh́. Tôi an ủi vợ, "Ḿnh
đi được 3 ngày rồi, nhiều lắm 2 ngày nữa
cũng phải đến Thái Lan hay Mă Lai".
Héo hắt cười, Phượng
nh́n tôi. Tôi muốn thuyết phục cho vợ yên ḷng,
nhưng chính giọng nói của tôi cũng không vững.
Mũi tàu vẫn hướng
về phía Nam, điều làm tôi thắc mắc. Mặc dù
không có cả đến một tấm địa đồ
nhỏ trong tay, nhưng tôi vẫn mường tượng
được vị trí của Thái Lan và Mă Lai so với Việt
Nam. Tôi góp ư với những người điều khiển
tàu là nên cho mũi tàu chếch thêm về hướng Tây Nam.
Tôi chưa nói dứt lời, một ông vạm vỡ nạt
ngang, "Anh biết ǵ mà nói".
Đến ngày thứ 5 của
chuyến hải hành, vợ tôi lả đi v́ đói, v́ mệt
và say sóng. Phượng dựa vào thành tàu, mắt nhắm
nghiền, đầu gục xuống. Tôi van xin ông ngồi
cạnh nửa thước khoảng trống để vợ
tôi có thể ngả lưng trong thế nằm co quắp.
Hai đứa bé không c̣n khóc được nữa; tiếng
khóc của chúng trở thành những tiếng rên nho nhỏ.
Tôi ṃ xuống bếp tán tỉnh
xin phụ việc. Khoản thù lao tôi mong mỏi chỉ là mỗi
bữa một chén nước cơm cho trẻ con uống.
Chúng không c̣n sức để nhai và nuốt vật cứng
nữa. Một ông "giới chức" hất hàm hỏi
tôi, "Trước kia anh làm nghề ǵ?"
Dĩ nhiên việc đi cải
tạo không phải là một nghề, mà cũng không phải
là việc đem ra khoe được, tôi đành khai, "Thưa
ông, tôi làm bác sĩ".
"Biết chích không?"
"Dạ biết".
Thế là tôi biến thành thầy
Hai chích dạo. Bà vợ ông giới chức bị bệnh
đái đường; ông đem theo một xách thuốc cần
thiết cho bà, nhưng thiếu thầy Hai chích. Đường
lên, bà nằm mê man từ 2 ngày nay. Tôi được
đưa vào khoang để chích insuline cho bà. Bữa đó
không những có được chén nước cơm, mà
trong cà mèn c̣n thêm được một miếng thịt.
Được dinh dưỡng, vợ
tôi và 2 đứa trẻ cũng tỉnh táo hơn. Chiều
hôm đó tôi lại có thêm một thân chủ: gia đ́nh một
người Trung Hoa nhờ tôi chăm sóc cho đứa con bị
cảm nắng. Họ tạ thầy một hộp Sumaco,
khiến bữa ăn chiều của chúng tôi có thể nói
là thịnh soạn.
Cà mên cơm đầy ăn với
cá hộp giúp Phượng đủ sức ngồi dậy
săn sóc con. Hai đứa trẻ vẫn đuối,
nhưng nhờ được uống nước cơm
nên không đến nỗi bị lả đi như hôm
trước nữa.
Sáng hôm sau tôi trở lại
chích thuốc cho bà giới chức; nhờ insuline làm tan
đường, bà đă ngồi dậy được, tỉnh
táo hơn. Uy tín lang băm của tôi gia tăng nhanh chóng, số
thân chủ cũng gia tăng v́ sau 5 ngày ngồi bó rọ
phơi nắng, gần như tất cả mọi người
đều cảm thấy mệt đuối, đau nhức,
nhiều người sốt, cảm, và ho.
Nỗi khổ tâm của tôi là
trị bệnh không dược liệu; đem kinh nghiệm
14 tháng giúp bạn tù trị bệnh bằng phương
pháp kháng bệnh, tôi chỉ dẫn mọi người cách
hô hấp, cánh tập trung tư tưởng để tự
kỷ ám thị.
Nhờ hành nghề bác sĩ,
khẩu phần của gia đ́nh tôi trở nên sung túc
hơn rất nhiều. Mỗi gia đ́nh vượt biển
đều có thủ theo một vài thứ thực phẩm
khô, họ chia cho tôi một ít để thù lao bác sĩ.
Đến ngày thứ 7, nhờ
được ăn no hơn vợ tôi đă b́nh phục
và hai đứa trẻ cũng tỉnh táo. Trưa hôm ấy
chúng tôi gặp hoạn nạn: chiếc áo mái nhà của tôi
bị gió biển cuốn đi, vợ tôi lục giỏ
t́m cái áo khác ra căng lều. Lần này tôi có ư cột kỹ
tay áo vào thành tầu.
Tối hôm đó, đang gục
đầu trong thế ngủ ngồi tôi nghe như một
biến chuyển lớn đang xẩy ra. Giật ḿnh tôi
thức dậy trong tiếng reo ḥ của mọi người.
"Tới rồi. Thấy
đất rồi".
"Cảm ơn trời phật.
Chuyến đi quá dài nhưng rồi cũng đến".
Giọng quát của một giới
chức, "Ngồi cả xuống; chạy tới, chạy
lui, mất thăng bằng lật tàu chết cả đám
bây giờ".
Mọi người ngoan ngoăn
ngồi trở xuống, nhưng tiếng ồn ào vẫn
không ngớt. Người ta bàn tán, "Chắc là Mă Lai".
"Có lẽ như vậy, v́
nó là ḥn đảo, chứ Thái Lan th́ đă thấy lục
địa".
"Không chừng Nam
Dương".
"Rất có thể là Úc".
Vợ tôi nắm tay tôi bóp mạnh.
Tôi nghe như những mừng vui của Phượng
đang được chuyền sang tâm hồn tôi mà không cần
một lời nói. Mọi người mừng v́ chuyến
hải hành 8 ngày đă đến đích. Cuộc hành tŕnh của
riêng tôi và Phượng đă kéo dài gần 4 năm, mà mỗi
ngày là một cơn ác mộng bất tận cho cả 2
chúng tôi cũng đang chấm dứt với chuyến
đi này. Nỗi mừng của chúng tôi, v́ vậy mà to lớn
hơn tất cả. Chúng tôi mừng đến không nói
được nên lời, không ḥ reo được như
mọi người. Tôi ngồi yên, không buồn chồm lên
nh́n ḥn đảo mà tàu đang tiến vào nữa. Niềm
vui của tôi đă quá đầy từ ngày bước chân
xuống tàu rời bỏ quê hương địa ngục,
trên những bằng chứng xác nhận t́nh yêu tuyệt vời
của Phượng đối với tôi. Không một
người bạn đồng thuyền nào thỏa măn bằng
tôi.
Ông bạn ngồi cạnh gợi
chuyện, "H́nh như ḥn đảo nhỏ quá".
"Vâng", tôi lơ đăng
đáp.
"Không chắc đă có
người trên đảo".
"Vâng".
Mũi tàu vẫn hướng
vào ḥn đảo cô đơn trong khi niềm lạc quan
trên tàu lắng xuống. Khoảng cách thu ngắn dần làm
mọi người thấy rơ kích thước nhỏ bé của
hải đảo. Nhưng giữa khoảng ngàn trùng của
đại dương nhấp nhô ḥn đảo kia vẫn
là đất, vẫn bảo đảm vững vàng. Hơn
nữa, nó cũng lớn tối thiểu bằng 20 lần
con tàu dài 15 thước, rộng 3 thước với 140
người trong ḷng tàu.
Đa số góp ư kiến nên ngừng
lại đảo.
"Biết đâu bờ bên kia
lại không có một làng chài lưới".
"Ghé nghỉ ngơi một
ngày, đi lại cho dăn gân; ngồi bó gối măi, mỏi quá".
"Có thể t́m nước
ngọt, đánh cá tăng thêm thực phẩm trước
khi tiếp tục đi nữa".
Cuối cùng, những giới
chức trên tầu quyết định cho tầu chạy
một ṿng quanh đảo để quan sát trước. Và
đó là quyết định cuối cùng của họ với
tư cách chỉ huy chiếc tiểu hạm tử thần:
mới chạy được nửa ṿng đảo, tàu chạm
đá ngầm, vỡ đáy, lật nghiêng qua 30 độ.
Phượng văng từ
thành tàu bên này sang thành tàu bên kia, thằng Vinh tuột tay mẹ,
rơi thẳng xuống biển. Trên đà nghiêng của con
tàu, tôi phóng nhanh đến bên Phượng, trao vội bé
Mai cho nàng và nhẩy xuống biển để chỉ vừa
kịp nắm tay đứa bé chưa đầy năm,
theo nó ngụp vào một đợt sóng lớn. Sóng
đưa tôi và thằng Vinh vào gần bờ, và do đó tôi
trở thành người đầu tiên đặt chân lên
ḥn đảo san hô thê lương, sau này biến thành
nơi gởi xác của nhiều người trong chúng tôi.
Việc làm đầu tiên của
tôi là bồng thằng Vinh đưa lên cao để vợ
tôi nh́n thấy mà yên ḷng. Cách bờ khoảng 15 thước,
mọi người nhốn nháo; tiếng kêu khóc thật là
thê thảm, nhiều người nhẩy xuống nước
chạy vào bờ.
Sau khi bị vỡ đáy, con
tàu mắc cạn đang từ từ trở lại thế
thăng bằng, mặc dù vẫn c̣n hơi nghiêng, nhưng
người trên tàu không đến nỗi phải bám cứng
vào thành tàu để khỏi rơi xuống biển nữa.
Nhờ người coi chừng
thằng Vinh, tôi lội xuống nước trở ra mạn
tàu bồng bé Mai, và xách gói hành lư khiêm tốn của chúng tôi,
rồi dắt Phượng lên đảo. Nhiều người
khác cũng làm như chúng tôi; họ ĺa bỏ con tàu mà không cần
biết là đi đâu, nhắm mắt đưa chân,
như 8 ngày trước rời bỏ quê hương Việt
Nam.
Đó là sai lầm của chúng tôi.
Ḥn đảo san hô khô cằn, lởm chởm, không dung nạp
chúng tôi. T́m được một chỗ bằng phẳng
để ngồi xuống cũng đă khó chứ chưa
nói đến việc ngả lưng.
Sau gần một tiếng
đồng hồ loay hoay t́m kiếm, tôi chọn được
một hốc đá tương đối rộng răi
để định cư. Cái áo làm mái nhà đổi vai
tṛ trở thành tấm chiếu cho trẻ con ngồi.
"Đau đít quá ba ơi",
bé Mai nhăn nhó nói.
Tôi ẵm con lên, đặt nó
ngồi trên bọc quần áo, rồi bảo Phượng,
"Em coi chừng con, anh đi quanh t́m xem có con ốc, con ṣ
nào không".
Tôi ngỡ ḿnh là người
nhanh chân trong việc đi kiếm ăn, nhưng hơn chục
người khác cũng đă lom khom trong các hốc đá
t́m kiếm như tôi. Cái may của tôi là trong một kẹt
đá nhỏ, tôi chụp được hai vợ chồng
một chú tôm hùm khá to, mỗi con khoảng hai kí.
Phượng reo mừng, "đồ
biển sẵn thế này là không phải lo đói nữa".
Phượng lầm, mà tôi cũng
lầm. Đồ biển không sẵn như chúng tôi tưởng,
hoặc ít ra th́ đó cũng không phải là nguồn thực
phẩm đủ cung cấp cho 140 người đói khát.
Tôi đi nhặt rác và rong biển
về làm củi nướng tôm; tôi cũng t́m được
một mảnh ván nhỏ cho Phượng ngồi. Bữa
ăn đầu tiên trên hoang đảo, cách t́m thực phẩm,
nướng và ăn bốc theo kiểu thượng cổ,
vừa ngon lại vừa vui. Vợ chồng, con cái chỉ
ăn hết một con tôm, con thứ nh́ để dành.
"Em chưa thấy con tôm
hùm nào lớn đến như vậy", Phượng vừa
chôn vỏ tôm xuống cát vừa bảo tôi.
Mới 6 giờ chiều, mặt
trời c̣n cao mà gió biển nghe đă lạnh; tôi lo lắng
bảo Phượng, "Có bao nhiêu quần áo em lấy mặc
hết cho con. Cả em nữa".
Gói hành lư được mở
ra, tắp hết lên người. Mỗi đứa trẻ
mặc 4 áo, 3 quần. Phượng được 3 áo, 2 quần.
Tôi mặc thêm cái sơ mi nữa ra ngoài bộ đồng
phục chưa thay từ ngày đi.
Gia đ́nh ông hàng xóm sát hốc
đá nhà tôi định xuống tầu tránh lạnh
nhưng bị đuổi trở lên. Một số thanh
niên tổ chức chiếm độc quyền cư ngụ
trên tầu. Họ cũng ngưng, không phát thực phẩm
như trước nữa.
Đêm hôm đó một người
đàn bà chết, có lẽ v́ quá lạnh. Chúng tôi xuống tầu
mượn được một cây xà beng và một cái búa
để đục đá chôn người xấu số.
Đó là người đầu tiên và người cuối cùng
được chôn. Lư do thứ nhất khiến chúng tôi
không chôn người chết nữa là v́ đục đá
làm mồ là một công tŕnh quá khó mà lại không hiệu quả.
Lớp đá vụn lấp xác chết không chặt
được như đất nên chỉ một ngày sau
mùi thối đă xông lên nồng nặc. Lư do thứ nh́ chua
chát hơn: người ta không muốn vùi đi mấy chục
kí thịt của người chết trong lúc tất cả
đều đói.
Xác chết đầu tiên tôi
thấy bị xẻ thịt là xác một thiếu nữ
trắng trẻo, xinh xắn. Tôi đang đi nhặt ốc
th́ nh́n thấy xác cô, khuy áo bị cổi banh ra, chỗ
đôi nhũ hoa chỉ c̣n thịt lầy nhầy và mấy
rẻo xương lồng ngực. Một tiếng đồng
hồ sau, tôi trở lại, cô đă bị lột truồng,
bắp vế, bắp chuối bị xẻo mất.
Tôi rùng ḿnh. Suốt 2 năm
chinh chiến tôi cũng đă chứng kiến nhiều cái
chết ghê rợn do súng đạn gây nên, nhưng quả
thật chưa một xác chết nào làm tôi khiếp đảm
hơn.
Thượng Đế ơi,
người đă sinh ra con người như sinh vật
khôn linh hơn mọi sinh vật khác, sao người lại
c̣n bày ra những thử thách trớ trêu đó để làm
ǵ? Để chứng minh là con người cũng không hơn
ǵ loài cầm, loài thú ư?
Tôi trở về hốc đá
với khuôn mặt chắc phải vô cùng sầu thảm;
nh́n tôi, Phượng bảo, "Ḿnh đuối lắm rồi,
để em đi kiếm thực phẩm thay ḿnh".
"Em không đi đâu hết",
tôi gạt phăng.
Vợ tôi nh́n tôi lo sợ; có thể
Phượng thấy phản ứng của tôi không b́nh
thường, chưa bao giờ tôi gắt gỏng với
nàng, ngay cả những lần nàng theo bác phu xích lô đi
khách. Quanh chúng tôi, người ta phát điên, người ta
đánh nhau chỉ v́ những chuyện không đâu. T́nh trạng
tuyệt vọng, kinh hoàng làm chúng tôi thành hốt hoảng.
Có thể Phượng nghĩ tôi cũng đang có những
triệu chứng bắt đầu. Tôi an ủi vợ, "Anh
không muốn em đi đâu hết. Quanh chúng ta đang có
trên 100 người mất tự chủ. Em phải ở cạnh
anh".
Thật ra tôi chỉ muốn
tránh cho Phượng khỏi nh́n thấy xác người thiếu
nữ không vú, không đùi. Kéo đầu Phượng gục
vào vai, tôi vỗ về, "Rồi mọi chuyện sẽ
khá hơn; thế nào chẳng có một thương thuyền
đi qua đây".
Tôi nói để mà nói, nhưng
tôi nghĩ Phượng không mấy tin, không mấy quan tâm
đến những điều tôi nói.
Chúng tôi đă đói khát gần
1 tuần lễ; quanh bờ biển không c̣n một cái vỏ
hào nào nguyên vẹn. Người đầu tiên vừa đập
vỡ con hào để lấy ruột, th́ chỉ vài phút sau
đă có người đến đập lần thứ
nh́, hy vọng vớt vát một chút ǵ c̣n xót lại.
Đến tuần thứ nh́ không
ai c̣n dấu diếm chuyện ăn thịt người nữa.
Gần như tất cả mọi người đều
đă ăn thịt đồng loại. Tệ hơn là họ
không chờ nạn nhân chết hẳn mới xẻ thịt.
Để thịt và ruột gan không lạnh tanh, họ xẻ
thịt những người đang thoi thóp, ngắc ngoải.
Xương và đầu người chết bị ném xuống
biển, cám dỗ hàng bầy cá mập.
Nh́n những con cá hung hăn chồm
vào đến tận bờ để chia phần thịt
người, tôi bàn với ông hàng xóm phương pháp bẫy
cá mập. Chúng tôi đào một vũng cạn, rồi lấy
đá be bờ khá cao. Sườn vũng nước nghiêng
vào bờ, bên trong sâu hơn bên ngoài bờ biển.
Mượn cái đầu của
một bà lăo vừa bị xẻ thịt, chúng tôi thả mồi
chờ cá mập; thời gian chờ đợi không lâu
hơn 20 phút: theo đà sóng một con cá mập nhỏ, khoảng
trên dưới 40 kí, trườn vào bẫy.
Sóng rút ra, cá mập mắc cạn
và chết ngay sau vài chục nhát búa và xà beng của chúng tôi.
Chúng tôi lôi cá lên cạn xẻ thịt; khoảng vài chục
người đến hôi món thịt cá mập. Việc xẻ
thịt chưa xong, con cá mập thứ nh́ đă lại
trườn vào bẫy trước tiếng reo ḥ mừng
vui của hơn 100 con người đói khổ.
Thịt cá mập béo ngậy
và tanh ŕnh, nhưng vẫn giúp chúng tôi tránh được
ăn thịt người, và cái bẫy cá mập của
tôi trở thành nguồn cung cấp thực phẩm khá dồi
dào cho những nạn nhân mắc cạn.
Cái khổ của chúng tôi là
trên đảo san hô không c̣n một thứ ǵ có thể sử
dụng thay củi nữa cả; một vài người liều
lĩnh xách búa ra định bửa tầu lấy gỗ,
nhưng chỉ cần một phát súng bắn chỉ thiên của
nhóm thanh niên khỏe mạnh, ăn uống đầy đủ,
lại có vơ khí, đang chiếm giữ con tàu, cũng đủ
làm những người liều nhất trở thành khôn
ngoan, lui nhanh vào bờ.
Cầm miếng cá sống, vừa
xệu xạo cắn, Phượng vừa hỏi tôi, "Ḿnh
có c̣n tin được câu người ta thường nói 'trời
xanh có mắt' nữa không?"
Tôi thở dài. Nếu quả
trời có mắt th́ cặp mắt đó đă nhắm lại
từ 4 năm nay rồi. Bé Mai chỉ c̣n là một cái xác nhỏ
xíu, gầy ốm, thoi thóp níu vào cuộc sống. Thằng
Vinh khá hơn đôi chút, nhưng cũng nằm lả,
đôi mắt gần như không bao giờ hé mở.
Tôi nhai miếng cá trong miệng
đến thành nước rồi cúi xuống mớm cho
con. Phượng thút thít khóc. Cũng như tôi, vợ tôi hiểu
mạng sống của đứa con gái chúng tôi
thương yêu, nâng niu, đang tàn lụi dần và sẽ tắt
hẳn, khi gió biển, nắng cháy, và thiếu dinh dưỡng,
cướp đi những sinh lực cuối cùng.
Bé Mai bỏ đi tối hôm
đó. Ôm con trong tay tôi nghe hơi thở nó yếu dần, yếu
dần trước khi tắt hẳn. Cơ thể của
đứa con yêu thương vẫn mềm mại nhờ
chút hơi ấm của t́nh phụ tử ủ ấp.
Tôi lặng đi ngồi ôm xác
con trong gió biển cắt da; khoảng một tiếng
đồng hồ sau Phượng hỏi tôi, "Con có khá
hơn không ḿnh?"
Tôi hiểu nghĩa câu hỏi
này: Phượng muốn biết bé Mai đă chết
chưa, nhưng chữ "chết" ghê rợn không phát
ra được trên đôi môi người mẹ. Tôi lặng
thinh để vợ tôi ngỡ là tôi đă thiếp đi
trong ṃn mỏi. Nhưng rồi tôi thiếp đi thật; sức
chống đỡ của cơ thể chỉ có giới hạn.
Giữa những hoàn cảnh phi lư nhất, thể chất
vẫn giữ nguyên những đ̣i hỏi b́nh thường
của nó. Ôm xác con trong tay, ngồi giữa một cô đảo
Thái B́nh Dương, tôi ngủ ngon lành.
Tôi bị mặt trời nhiệt
đới đánh thức; mở mắt dậy trong ánh nắng
chói ḷa, tôi hốt hoảng nhận ra là bé Mai không c̣n nằm
trong tay tôi nữa. Phượng cũng không thấy đâu
cả. Tôi cất tiếng gọi vợ, tiếng sau lớn
hơn tiếng trước, những tiếng cuối cùng
trở thành tiếng gào kinh hoảng.
Những người chung quanh
nh́n tôi; cặp mắt họ không thiện cảm, nhưng
cũng không ác cảm, mà chỉ là những cập mắt
vô can mất hết khả năng xúc động. Cái khổ
đau, bất hạnh của tôi, tôi cứ tự gánh lấy.
Phần riêng của họ cũng đă quá lớn, họ không
thể chia xẻ thêm với ai chút ǵ nữa cả.
Tay ẵm thằng Vinh, tôi phóng
nhanh xuống bờ biển vừa chạy quanh đảo,
vừa gọi Phượng. Vợ tôi ngồi xẹp trên một
phiến đá, vẻ mặt sầu khổ. Ôm chầm lấy
vợ, tôi hỏi, "Em đi t́m con?"
Vợ tôi không nói được
một tiếng nào cả.
"Họ đă xẻ thịt
bé Mai?". Phượng gật đầu rồi gục
vào vai tôi thút thít khóc; tôi lặng đi, tê tái.
Nguyên ngày hôm đó vợ chồng
chúng tôi không nói thêm với nhau một câu nào nữa. Trước
những đổ vỡ thương đau toàn diện,
chúng tôi không c̣n khả năng khóc, than.
Sáng hôm sau, sau một ṿng đi
t́m thực phẩm thất bại như từ nhiều
ngày nay, tôi trở về hốc đá và t́nh cờ khám phá ra
nguyên nhân giúp bé Vinh c̣n tương đối mạnh khỏe:
Phượng đang cho con bú. Tôi ngạc nhiên v́ từ
trước đến giờ Phượng không hề làm
việc đó. Cả bé Mai cũng bú sữa ḅ từ khi mới
lọt ḷng.
Phượng bối rối
nh́n tôi, trong lúc tôi nh́n bé Vinh: môi đứa bé đỏ ḷm.
Tôi kéo vú Phượng ra để thấy một vết cắt
c̣n mới trên đầu vú. Tôi t́m thấy nhiều vết
cắt khác ở đầu ngón tay, ở cổ tay người
mẹ khốn khổ. Thở dài, tôi cúi đầu. Phượng
đang trút tàn lực sang để nuôi một mầm sống.
Việc làm vô cùng đáng kính phục đó chắc chắn
sẽ làm tôi trở thành góa bụa sớm hơn.
Dĩ nhiên tôi không ngăn cản,
cũng không phiền trách ǵ Phượng. Điều độc
nhất tôi có thể làm là cố gắng hơn nữa trong
việc t́m kiếm thực phẩm để nuôi Phượng
và bé Vinh, nhưng số người đói khát th́ đông mà
số thực phẩm lại giới hạn nên gần
như chúng tôi không c̣n t́m ra bất cứ một thứ ǵ,
dù chỉ là cỏ, là cây, để nhai trong miệng.
Bốn ngày sau ngày bắt gặp
Phượng cho con bú bằng máu, tôi t́m được một
con cua khá lớn. Phượng ăn gượng gạo rồi
lại nằm ngay. Vợ tôi đuối đến mức
tôi phải xé từng miếng thịt cua, đút vào miệng
cho nàng.
Suốt tuần sau, tôi chỉ
t́m được vài con ốc. Nh́n những triệu chứng
sắp chết của vợ, tôi nghe đứt ruột.
Tôi không dám đi kiếm thực phẩm xa nữa, sợ
người ta đến ăn thịt Phượng.
Hai ngày sau, đang nửa
mơ, nửa tỉnh, tôi chợt nghe nhiều tiếng
súng; tiếp theo là tiếng reo ḥ. Bàng hoàng choàng dậy, tôi
nh́n theo hướng nh́n của mọi người và thấy
một chiếc tàu đang từ từ tiến lại.
Tim tôi ngừng đập; cuối
cùng trời vẫn c̣n có mắt, chúng tôi sắp được
cứu sống, và tôi vẫn c̣n Phượng, c̣n người
vợ mà trong hoạn nạn tôi thấy t́nh yêu trở thành
to lớn hơn, bền chặt hơn. Tôi sẽ lại
được mê mệt, được khổ sở với
cặp mắt đa t́nh của Phượng.
Trong tiếng reo ḥ của những
người đồng cảnh ngộ, tôi cúi xuống thủ
thỉ bảo vợ, "Hôm trước em hỏi anh có
c̣n tin là 'trời xanh có mắt nữa không'; bây giờ anh trả
lời em là anh tin. Anh tin cuối cùng rồi ông trời vẫn
có mắt".
Nhưng tôi đă lầm. Đối
với những kẻ bất hạnh, vô phước
như tôi, ông trời (nếu có ổng) đă vĩnh viễn
nhắm mắt, quay mặt đi.
Con tầu tôi đang nh́n theo là
một ngư thuyền của Đài Loan. Họ neo xa bờ chừng
2 cây số, rồi cho ghe nhỏ vào chở người
đại diện của chúng tôi ra thương lượng.
Cuộc thương lượng, nói trắng ra chỉ là một
cuộc trả giá.
Người đại diện
trở về cho chúng tôi biết tầu Trung Hoa đ̣i một
số vàng lớn mới chịu cứu chúng tôi. Số
người có vàng đề nghị chia số người
Trung Hoa đ̣i hỏi trên đầu người; những
kẻ trắng tay như tôi ngồi lặng thinh, dự
thính.
Chiều hôm ấy người
đại diện của chúng tôi trở ra ngư thuyền
Trung Hoa với một phản đề nghị. Cuộc
trả giá kéo dài cho đến tối, và ông ta ngủ lại
trên tầu đánh cá. Sáng hôm sau ông trở lại với 3
người Tầu, và bắt đầu cuộc ghi danh,
góp vàng.
Những người có vàng
để góp lần lượt được xuống
ghe máy để ra tàu trước cặp mắt thèm thuồng
của chúng tôi. Khoảng xế chiều việc đưa
những người góp vàng ra tàu hoàn thành. Người Trung
Hoa chở vào cho chúng tôi một thùng cá và bảo, "Các anh
ăn uống tạm tối nay. Sáng mai chúng tôi sẽ vào chở
tất cả ra tàu".
Th́ ra họ chỉ muốn làm
khó dễ để lột một số vàng của những
người có tài sản. Sáng hôm sau toàn bộ chúng tôi
được chở ra tàu; một thủy thủ Trung Hoa
giúp tôi bồng bé Vinh, trong lúc tôi bồng Phượng xuống
ghe.
Yếu đuối, tôi ngă mấy
lần, Phượng mở mắt nh́n tôi, cặp mắt
t́nh tứ, đắm đuối ngày xưa, giờ này
đă mất thần.
Xuống tầu, tôi xin một
ly sữa, đút cho Phượng, nhưng vợ tôi không c̣n
nuốt được nữa. Tôi biết cơ thể
nàng đă mất hết hydrate; giải pháp độc nhất
c̣n lại là nuôi bằng nước biển, nhưng làm ǵ
có thứ đó trên một ngư thuyền.
Phượng lịm dần và
hơi thở thật sự tắt hẳn vào đêm hôm
đó. Xác nàng bị chuồi xuống biển theo h́nh thức
thủy táng.
TÔI DỨT CÂU CHUYỆN vào lúc
11 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 2004, rồi bảo thằng
Vinh, "Ba hứa ngày con học xong, ba sẽ kể lại
câu chuyện về mẹ con cho con nghe; ba đă thực hiện
lời ba hứa".
Nó bước đến
trước ghế tôi ngồi, quỳ xuống, gục
đầu lên đùi tôi, "Ba đau khổ nhiều quá",
lời nó nghẹn lại. "Con thương ba".
Tôi vuốt tóc nó, "ba
thương con".
"Con muốn vinh danh mẹ",
thằng Vinh bảo tôi. Năm đó nó 26, vừa ra trường
thuốc Austin, và đang tập sự tại nhà
thương Memorial Hertman, Houston, nơi tôi làm việc.
"Bằng cách nào?" tôi hỏi
nó.
"Con muốn về Việt
Nam để cùng bác sĩ Nguyễn Đan Quế tranh đấu
giải thể chế độ cộng sản dă man
đă giết mẹ con, giết chị Mai, và làm ba buồn
khổ suốt cuộc đời".
"Môi trường tranh đấu
tại hải ngoại thuận lợi hơn môi trường
quốc nội", tôi bảo Vinh. "Tiếng nói của
con sẽ lớn hơn, v́ có một đối tượng
rộng hơn, quyền hạn hơn".
Nó nghe lời tôi, và giờ này
bác sĩ Trần Phượng Vinh, con của bác sĩ Trần
Quang trở lại trường đại học; môn học
mới của nó là điện ảnh.
Họa sĩ Thương
Thương, hôn thê của nó đă vẽ xong từ năm
ngoái bức tranh quảng cáo cuốn phim đầu tay ĐÔI MẮT
PHƯỢNG của tài tử kiêm đạo diễn
Phượng Vinh.
Nó đóng vai trung úy quân y của
Sư Đoàn Nhẩy Dù, trung úy Trần Quang.
Nguyễn
Đạt Thịnh
(Kim
Oanh sưu tầm và chuyển)