THẰNG
KHÙNG - Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá
(Phùng
Quán )
Phùng Quán viết lại theo lời kể của
nhà thơ Nguyễn Tuân - không phải là nhà văn có cùng tên -
khi cùng ở trong tù
" .. Anh ta
vào trại trước ḿnh khá lâu, bị trừng phạt
v́ tội ǵ, ḿnh không rơ. Người th́ bảo anh ta phạm
tội h́nh sự, người lại bảo mắc tội
chính trị. Nhưng cả hai tội ḿnh đều thấy
khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc,
sát nhân, và cũng không có phong độ của người
làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại
dở khùng. Ḿnh có cảm giác anh ta là một khúc củi rều,
do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào
về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của
trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nh́n anh ta, rất
khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể
năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt,
rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở
các đống rác. Người anh ta cao ḷng kḥng, tay chân thẳng
đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với
xương.
Trên người,
tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo.
Lúc đầu ḿnh cứ tưởng anh ta bị câm v́ suốt
ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để
nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người
quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản
giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính,
nhưng không chuyện tṛ với bất cứ ai. Nhưng
không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái ǵ
đó làm ḿnh đặc biệt chú ư, cứ muốn làm quen
.. Nhiều lần ḿnh định bắt chuyện,
nhưng anh ta nh́n ḿnh với ánh mắt rất lạ, rồi
lảng tránh sau khi đă cúi chào cung kính.
Hầu
như tất cả các trại viên, kể cả những
tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta.
Những trại viên được gia đ́nh tiếp tế
người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng
bánh, người cho điếu thuốc.
Ở trại,
anh ta có một đặc quyền không ai tranh được,
và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết.
Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều
cho gọi "thằng khùng" (tên họ đặt cho
anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại
viên chết nào, kể cả những trại viên đă từng
đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu
đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm
rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái
cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay
của người mẹ tắm rửa cho đứa con
nhỏ.
Lúc tắm rửa,
kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái ǵ đó
không ai nghe rơ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược
găy, chải tóc cho người chết, nếu người
chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất
của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác
đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp
sơ sài.
Anh ta cuộn
những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt
làm gối cho người chết. Nếu người tù
không có áo xống ǵ, anh ta đẽo gọt một khúc cây
làm gối. Khi đă hoàn tất những việc trên, anh ta
quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết,
và bật khóc.
Anh ta khóc
đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi
người đều có cảm giác người nằm
trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với
bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy.
Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
- Thằng tù
chết ấy là cái ǵ với mày mà mày khóc như cha chết
vậy?
Anh ta chấp
tay khúm núm thưa:
- Thưa cán
bộ, tôi khóc
vờ ấy mà. Người
chết mà không có tiếng khóc tống tiễn th́ vong hồn
cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó t́m cách làm hại
cán bộ. Lúc hắn c̣n sống, cán bộ có thể trừng
trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ
muốn xích cổ, cũng không xích được.
Thằng
khùng nói có lư. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc
bao nhiêu th́ khóc. Nhưng ḿnh không tin là anh ta khóc vờ. Lúc
khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh
ta chan ḥa nước mắt. Cả thân h́nh gầy guộc
của anh ta run rẩy. Ḿnh có cảm giác cả cái mớ giẻ
rách khoác trên người anh ta cũng khóc .. Trong tiếng
khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm
thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại
viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, "đầu
chày, đít thớt, mặt bù loong" cũng phải
rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau
đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng
vào trái tim người. Ḿnh thường nghĩ ngợi rất
nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một
thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao
của bậc đại hiền? ..
Thế rồi,
một lần, ḿnh và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông
gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội
lửa. Băi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng
như than đỏ. Trên băi sông mọc độc một
cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một
mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát
và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc
đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh
ta và ḿnh phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng,
canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. V́ mảng
bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau.
Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu
không quay lại:
- Anh Tuân này -
không rơ anh ta biết tên ḿnh lúc nào - sống ở đây anh
thèm cái ǵ nhất?
- Thèm
được đọc sách - ḿnh buột miệng trả
lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một
cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết
đọc biết viết cũng nên.
- Nếu bây
giờ có sách th́ anh thích đọc ai? - anh ta hỏi.
- Voltaire! - một
lần nữa ḿnh lại buột miệng. Và lại
nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire th́ cũng chẳng
khác ǵ nói với gốc cây mủng mà ḿnh đang ngồi dựa
lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện tṛ bộc
bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu
được ăn, được uống .. Nhiều
lúc chẳng cần biết có ai nghe ḿnh, hiểu ḿnh hay
không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát
rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều
tủi hổ nung nấu trong ḷng với những người
vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà
Dostoievsky miêu tả trong "Tội ác và Trừng phạt".
Anh ta ngồi
bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi
lại:
- Trong các tác
phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Ḿnh sửng
sốt nh́n anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một
ư nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đă ngồi
thay vào chỗ anh ta .. Ḿnh lại liên tưởng đến
một cậu làm việc cùng pḥng hồi c̣n ở Đài
phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi,
đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
Ḿnh trả lời
anh ta:
- Tôi thích nhất
là Candide.
- Anh có thích
đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi
ḿnh trả lời, anh ta nói tiếp:
- Không phải
đọc mà nghe .. Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta
cất giọng đều đều đọc nguyên bản
Candide. Anh đọc chậm răi, phát âm chuẩn và hay như
mấy cha cố người Pháp, thầy dạy ḿnh ở
trường Providence. Ḿnh trân trân nh́n cái miệng rúm ró,
răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nh́n phép
lạ. C̣n anh ta, mắt vẫn không rời ḍng sông loá nắng,
tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên
truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt
sông ..
Anh đọc
đến câu cuối cùng th́ kẻng ở trại cũng
vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về
trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống:
"Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!".
- Chúng ḿnh lùa
trâu lên bờ đi! - anh nói.
Lội ra
đến giữa sông, ḿnh hỏi anh ta:
- Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi
lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu
khác, trả lời:
- Tôi là cái
thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.
Rồi anh ta
tiếp:
- Đừng
nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi ..
Giáp mặt
người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn
- ngu ngơ, đần độn như thường ngày.
Cuối mùa
đông năm đó, anh ta ngă bệnh. Nghe các trại viên
kháo nhau ḿnh mới biết.
- Thằng
chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn
ḿnh ngoẻo, sẽ không c̣n được khâm liệm tử
tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn .. - những
người tù nói, giọng buồn.
Ḿnh gặp
giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
- Trước
kia anh có quen biết ǵ thằng này không?
Ḿnh nói:
- Thưa cán
bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau
thôi.
Giám thị
đồng ư cho ḿnh đến thăm, có lính đi kèm. Anh
ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng.
Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm,
hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc
lại lên cơn co giật ..
Ḿnh cúi xuống
sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở
mắt, chăm chăm nh́n ḿnh. Trên khoé môi rúm ró như thoáng
một nét cười. Nước mắt ḿnh tự nhiên
trào ra rơi lă chă xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm
mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta
thều thào nói:
- Tuân ở lại,
ḿnh đi đây .. Đưa bàn tay đây cho ḿnh ..
Anh ta nắm
chặt bàn tay ḿnh hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm
mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một
viên than củi, được mài tṛn nhẵn như viên phấn
viết. Với một sức cố gắng phi thường,
anh ta dùng viên than viết vào ḷng bàn tay ḿnh một chữ nho.
Chữ NHẪN.
Viết xong,
anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên
cơn co giật.
Người
lính canh dẫn ḿnh lên giám thị trại với bàn tay có viết
chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng
đó là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
- Cái h́nh nguệch
ngoạc này có ư nghĩa ǵ? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi
tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
Ḿnh nói:
- Thưa cán
bộ, thật t́nh tôi không rơ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng
cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh
tật và tà khí.
Nghe ra
cũng có lư, giám thị trại tha cho ḿnh về lán ..
Phùng
Quán
________
Ghi Chú:
(*)
THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục
Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn
Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đă kể lại
chuyện thật những năm, những ngày cuối trong
ngục tù của Ngài.
Xin mời
đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử
của Cha Vinh để chúng ta biết thêm nhiều chi tiết
về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu
thêm gương phụng sự Chúa của Ngài ..
Linh
mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH,
Cha chính Hà Nội, (1912 - 1971).
Tấm gương can trường.
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN
VĂN VINH *
Cha Gioan Lasan
Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại
làng Ngọc Lũ, huyện B́nh Lục, tỉnh Hà Nam.
Cậu Vinh,
một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu
nghệ thuật bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. Cậu
biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo,
ai cũng quư yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố
Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis giới
thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội.
Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng viện Hoàng
Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.
Năm 1930,
thầy Vinh được cố Hương dẫn sang
Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng viện
St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ
phong linh mục ở Limoges .
Chiến
tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại
Pháp và tiếp tục học tập.
Ngài học
Văn Khoa - Triết tại Đại Học Sorbone, học
sáng tác và ḥa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải
vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ
thương của ngài đă làm cho nhiều người
Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: "Bonjour
Madame!"
Nhưng ẩn
trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn,
sau đôi mắt sáng là tính cương trực, dưới
nụ cười là ư chí sắt son.
Sau khi tốt
nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập
ḍng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste
Marie.
Sau 17 năm
du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức
xây dựng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về
mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize - Thịnh,
Bề trên Giáo phận đă bổ nhiệm ngài làm cha xứ
Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập ḍng Biển
Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.
Cha Vinh, dù tu
học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước,
độc lập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn
Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng
De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu
căng đ̣i đặt ghế của ông trên cung thánh và bắt
chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ
tướng Việt Nam xuống dưới ḷng nhà thờ.
V́ ḷng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha
Vinh cương quyết không chịu.
Tướng
De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập
bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn
tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ,
nhưng Thủ Tướng ngại khó nên tự nguyện
rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng,
Đức Cha Khuê đă chuyển cha Vinh làm giáo sư của
Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp
văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời.
Ngài cũng giảng dạy Văn Triết ở trường
Chu Văn An.
Năm 1954,
Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân
đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều
xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội,
dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm.
Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm Hiệu
Trưởng trường Dũng Lạc.
Ngài tổ chức
lớp học giáo lư cho các giới, có những linh mục
trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như
cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm
Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ
chức thành nhóm nhỏ tại pḥng khách Ṭa Giám Mục, về
sau, con số người tham dự tăng dần, lớp
học được chuyển tới nhà préau, và ngồi
ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn,
những tín hữu khô khan trở thành đạo đức
nhiệt thành, ảnh hưởng lan tới cả giới
sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người
gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng
hoạt động v́ lư do an ninh.
Khi cha Vinh
đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ
ra chỉ thị phải treo ảnh lănh tụ thay vào ảnh
Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ
thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường
bị đóng cửa.
Thời bấy
giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo
sư, nên đă đề nghị Đức Cha Khuê cử
cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh
viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng
Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng
dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp
tùng: "Đến giờ này mà c̣n có linh mục dạy ở
Đại Học quốc gia ư?". Ít lâu sau trường
Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.
Biết tài
năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc
sĩ ở Hà Nội t́m cha Vinh tham khảo ư kiến và nhờ
xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.
Cha Vinh, một
trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt
Nam, và là một nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm
và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người
Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.
Ngài có
năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại
được học tập chu đáo nên đă sáng tác và
để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt
vời. Cha Vinh tŕnh bày bản hợp tấu "Ở
Dưới Vực Sâu" nhân cuộc đón tiếp phái
đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang
dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.
Ngài cộng
tác với Hùng Lân sáng tác "Tôn Giáo Nhạc Kịch
Đa-Vít". Sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: "Mở
Đường Phúc Thật", "Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi",
"Ôi GiaVi", "Lạy Mừng Thánh Tử Đạo".
Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh
23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như
Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài c̣n viết những
bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc
bài "Bước Tới Đèo Ngang" của Bà Huyện
Thanh Quan.
Hằng tuần
ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát
bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng
thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ huy dàn
đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu
lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về
Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
Năm 1957,
Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và
thế giới thấy là ở Việt Nam đạo Công
giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ
chức được những lễ nghi long trọng,
tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự
động cho người đến chăng dây, kết
đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đ̣i nhà
xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi
phí lớn về vật liệu và tiền công.
Năm 1958
cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi
han, xin phép, một số người của Nhà nước
ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự
động bắc thang, chăng dây treo bóng điện màu
trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn.
Cha xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo
vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ sở
tôn giáo, không đồng ư, nhưng họ cứ làm. Để
phản đối, cha Căn liền cho kéo chuông nhà thờ
cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ
rất đông ủng hộ cha xứ, hai bên to tiếng.
Cha Căn gọi
Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết
quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước
đang leo thang chăng đèn xuống, rồi chính ngài leo
lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm
lại, hai cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu
c̣ng tay số 8, và nói lớn:
"Tự
do thế này à!"
Vụ giằng
co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc
trang trí không thành. Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân
bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét xử.
Ṭa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ
Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ
chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.
Cha Chính Nguyễn
Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: "Vô
cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị
an, cố t́nh vu khống, xuyên tạc chế độ, gây
chia rẽ trong nhân dân" (!).
Sau phiên ṭa,
cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Ḷ, sau bị
chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc,
Yên Bái, cuối cùng là trại "Cổng Trời",
nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.
Khi cha Vinh mới
đến trại Yên Bái, ngài c̣n được ở chung
với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ
đến xin cha giải tội, v́ thế ngài bị kỷ
luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối.
Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải
tội. Cán bộ hỏi:
"Tại
sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp
tục phạm quy?"
Ngài đáp:
"Cấm
là việc của các ông, giải tội là việc của
tôi, c̣n sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận ḿnh!"
Ở tù
đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng
ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm,
ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia
cơm phải cân đong từng chút một .. Một lần
cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha
Cương, quản lư Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong
đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng
cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo
lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù h́nh sự
thân thương gọi ngài là "Bố".
Ngay trong nhà
tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị
áp bức, có lần một tổ trưởng đánh
đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị
người tổ trưởng này xông đến giang tay
đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngă khụy. Từ
đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi vơ,
mọi người phải nể v́.
Một cán bộ
cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha
Vinh, nói: "Đảng và Chính phủ muốn anh được
tha về, nhưng với điều kiện phải cộng
tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch
Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ư, anh có
thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi". Ngài khẳng
khái đáp: Ông Vịnh có đường lối của ông
Vịnh. Tôi có đường lối của tôi".
V́ không khuất
phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam,
không qua một thủ tục pháp lư án lệnh nào, đă biến
thành 12 năm tù kiên giam, xà lim, biệt giam và án tử.
Năm 1971,
khi ngài từ trần không ai được biết, một
năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và
cha Cương quản lư Nhà Chung: "Ông Vinh đă chết.
Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!"
Suốt
đời ḿnh, trong mọi t́nh huống cha Chính Vinh làm tṛn
trách vụ của ḿnh. Ngài đă mạnh mẽ rao giảng
Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện
cũng như khó khăn. Vượt mọi thử thách
gian khó, không chịu khuất phục trước cường
quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo Hội.
Cha Chính Gioan
Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời
đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường,
hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.
TGP
Hà Nội
- 2013
BBT
(Theo HĐGMVN)
(LH sưu tầm, Hoàng Gia Đích chuyển)