HÌNH ẢNH NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN CHƯƠNG VIỆT
..
CÁI CÒ .. GIẢI YẾM ĐÀO ..
(Thu
Hương Seattle)
Người phụ nữ
trong văn học dân gian qua hình ảnh cái cò và giải yếm đào, đó là một hình
ảnh tuyệt vời và lãng mạn. Hình ảnh một con
cò bé nhỏ giữa trời nước mênh mông đang tuổi
xuân thì còn bức tranh nào đẹp hơn về màu sắc,
có chiều sâu suy tưởng.
Phải chăng đó là viễn ảnh một cuộc
đời vất vả, gian nan, cô đơn? Định mệnh người
phụ nữ Việt Nam trong cuộc đời qua biểu
tượng cái cò
đã đi vào văn học Việt Nam.
Cái cò mò tôm, bắt cá, dò dẫm
bước từng bước trên ruộng nước bao
la của đồng quê Việt Nam, một hình ảnh quen
thuộc gắn chặt vào đời sống thôn dã. Sự cần cù, nhẫn nại,
kiên nhẫn, hy sinh tìm mồi nuôi con của cò mẹ không quản
cái giá lạnh mùa đông, từ sớm mai cho đến hoàng
hôn, giữa cô đơn tĩnh lặng. Cò mẹ ngửng đầu rồi
lại cúi xuống, rồi lại dò dẫm bước những
bước nhỏ nhoi giữa không gian cô đơn, đặc
quánh đến cùng cực. Cò
mẹ cô đơn giữa đồng không mông quạnh ấy
không ngoài mục đích mang mồi về cho con thơ dại. Người phụ nữ Việt
theo dòng lịch sử truân chuyên, vất vả không chỉ
với con mà còn với chồng, với gia đình nhà chồng.
Nuôi chồng nuôi con đã là một
việc làm không tưởng.
Người phụ nữ còn quảy gánh sơn hà
trong quá trình tồn tại của Việt Nam, không chỉ từ
ngàn xưa, không chỉ một thời Nho Phong cực thịnh
mà còn tiếp nối cho tới dòng lich sử rất gần
trong thời điểm từ chiến tranh chống Pháp,
chống Cộng Sản.
Người chồng, người cha không có mặt
trong gia đình vì còn đang sống chết giữa tuyến
đầu, trong các mặt trận xa gần, tranh đấu
độc lập cho toàn dân Việt Nam, tranh đấu quyền
sống tự do nhân bản cho người dân Việt
dưới vĩ tuyến 17.
Phụ nữ Việt âm thầm chia xẻ từng
giây từng phút tranh đấu cho quyền sống và
tương lai của chồng con trên đất người,
nơi tiếng nói, phong tục tập quán quá đỗi xa
lạ. Phụ nữ quẩy
những gánh nặng trên vai trong dòng đời trong những
thăng trầm lịch sử đã được
đưa vào văn chương. Hình ảnh cái cò cô
đơn trên cánh đồng bao la là biểu tượng
là định mệnh người nữ trong cuộc đời và văn
chương Việt.
Cái cò đậu cọc bờ ao
Phất phơ hai giải yếm đào gió
bay
Cái cò trong hai dòng thơ trên
được ví von, hình ảnh một cô thôn nữ rất trẻ trong làng quê êm đềm
nào đó của Việt Nam, đang tuổi vào đời,
mộng mơ. Cái cọc
trơ vơ trong cái ao là hình ảnh cô đơn, lẻ
loi. Cái cò đậu cọc bờ
ao còn cô đơn đến thế nào. Mặt nước có lẽ phẳng
lặng, gió có lẽ rất nhẹ để cò lặng
người trong suy tưởng. Còn hình ảnh nào trữ
tình hơn, linh động hơn khi nhìn giải yếm màu
đào đang bay trong gió. Nếu chưa từng ở vùng
thôn quê hẻo lánh ta chưa biết màu hồng đào đẹp
tuyệt. Đó là màu hồng thẫm duyên dáng chứ không
phơn phớt hồng như màu hoa anh đào Nhật. Các
cô thôn nữ đều có một bộ cánh rất duyên dáng
để mặc trong các ngày lễ hội của làng mình
hay làng kế bên. Yếm màu đào, áo dài tứ thân màu nâu,
váy màu đen đậm dài quá gót chân, đôi hoa tai bạc,
tóc vấn vải có màu nâu của áo, hay màu đen của váy
hoặc tóc vấn trần, và cái đuôi gà tóc dài
đong đưa, dùi tượng màu đào hay màu thiên
lý, chuỗi xà tích bạc, môi đỏ má hồng mắt
long lanh say trầu hay vì niềm vui ngày hội. Mỗi bước đi có nhạc
điệu uyển chuyển, âm thanh xao động của
chuỗi xà tích bạc.
Yếm đào, màu hoa đào,
màu của mùa xuân, màu của tuổi đang yêu, màu của
nguồn sống, màu của thi nhân. Màu đào chỉ dành cho con gái.
Tranh thủy mặc chỉ vài
nét mực để người thưởng ngoạn thả
hồn mơ tưởng thế nào thì hai dòng thơ trên cũng
chỉ là hai câu thơ ước lệ tuyệt vời
để người đọc mường tượng.
Tranh thủy mạc, thơ lục bát dễ hiểu: dòng
thơ đầy hình ảnh đầy nhạc điệu
đã chuyên chở được một kho tàng văn hóa giàu nghệ thuật và
đầy suy tưởng.
Phất phơ hai giải yếm đào gió
bay.
Hai giải yếm mong manh trong
gió nhẹ như cánh bướm chập chờn đưa
người vào dòng lịch sử
của người phụ nữ từ ngày lập quốc. Giải yếm huyền hoặc
bay phất phơ trên màn vi tính, tạm dừng một giây
phút thì thầm cùng người viết, rồi lại phất
phơ bay, sẽ vẫn và mãi mãi là hình người phụ
nữ Việt luôn luôn sát cánh bên chồng, ôm ấp đàn
con trong chức năng làm vợ, làm mẹ, trong không gian hiện
hữu của ngày hôm nay và ngày mai.
Hình ảnh người phụ
nữ thuở xưa được đưa vào văn
chương từ cái nhìn nghệ thuật mặc khách tao
nhân. Qua muôn đời họ
đà nhận thức được những vất vả,
cô đơn mênh mông vây tỏa, định mệnh người
phụ nữ trong xã hội Nho Phong cổ kính Việt Nam.
Em về thưa với mẹ thầy
Có cho anh cưới tháng này hay chưa.
Mặc bộ cánh đẹp
để làm đẹp cho mình và cho đời trực diện
định mệnh. Chàng
đã yêu nàng lắm, thốt nên lời lời cầu
hôn. Chờ đợi nàng
thưa cùng mẹ cha .. chờ đợi nàng yêu chàng .. chờ
đợi nàng thôi mơ mộng.
Cho dù lãng mạn là thế nhưng không vượt qua
lễ giáo.
Lời tỏ tình chân thật,
mộc mạc làm xiêu lòng người đẹp. Thiếu chàng nàng sẽ bâng khuâng,
sẽ thẫn thờ, sẽ mong ước được
đọc những lá thơ thơm mùi giấy mới
thơm mùi mực .. và nàng đã thốt nên:
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu giải yếm cho chàng sang
thăm
Người phụ nữ
trong thời tao loạn phải quẩy một gánh giang
sơn nhà chồng, bổn phận làm dâu, bổn phận
làm vợ, làm mẹ không được biết tới qua
văn chương bác học nhưng chúng ta nhìn thấy nỗi
vất vả, nỗi cô đơn, sự câm nín của
người nữ qua những câu ca dao trong văn
chương dân gian.
Thời gian mơ mộng không
dài là bao và thời gian hạnh phúc có lẽ ngắn ngủi
lắm cho nên chưa có một dòng thơ nào diễn tả được
niềm hạnh phúc nhỏ nhoi mà cái cò đậu cọc
kia mơ ước trong tuổi hồn nhiên. Bức tranh cái cò đậu cọc
bờ ao .. mênh mông nỗi buồn nhưng không đậm
nét bằng hình ảnh gian nan vất vả của cái cò khi
làm vợ, làm mẹ.
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ
non
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao
Bằng
hoặc
Anh đi em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn
Mẹ già em thương
Nhà thơ Trần Tế
Xương là người đưa hình ảnh cái cò vào
văn chương bác học .
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò
đông ..
Màu yếm đào của thuở
xuân chẳng còn dấu vết gì, cái sinh động một
thời nay còn lại là hình ảnh héo hon gầy còm trong cả
văn chương dân gian và văn chương bác học (
cho dù quá ít cũng phản ảnh được thân phận
người nữ trong xã hội Việt Nam.)
Cái cò đậu cọc bờ ao
Phất phơ hai giải yếm đào gió
bay
Em về thưa với mẹ thầy
Có cho anh cưới tháng này hay chưa
Hai chữ .. hay chưa .. cho
người đọc hiểu rằng cây si này là một
anh chàng có học .. cây si này có lẽ cũng là .. một anh
chàng .. xe bồ luân dù chưa gặp thang văn. Thi trượt trở về làng
quê dạy học làm thầy đồ và có thời giờ
làm thơ.
Ít ra thì cũng có một nhà
thơ nào đó, một anh Cử
anh Khóa nào đó, văn hay chữ tốt không kém
Trần Tế Xương mới dám cả gan viết
lên được bốn câu
thơ lục bát tuyệt vời,
một bức tranh đầy ấn tượng được
truyền từ đời này qua đời khác. Ít ra thì tác giả đã đưa
được cái đẹp, niềm cô đơn, gánh nặng
của người nữ Việt Nam vào văn học dân
gian mà không cần ai biết tên tác giả. Cái ngông của kẻ sĩ trong
thời bút lông cực thịnh của quê nhà là thế và có
lẽ nền văn chương dân gian ra đời là thế.
Ít ra Trần Tế
Xương đã đưa hình ảnh người bạn
đời, hình ảnh người nữ, hình ảnh một
con cò nhỏ bé, vào nền văn chương bác học qua
bài Thương Vợ. Ông là
người đầu tiên viết về lòng yêu mến, biết
ơn người vợ một nắng hai sương của
mình.
Anh đi em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn
Mẹ già em thương
Một gánh nặng trên vai
người nữ. Chia xẻ
gánh nặng để chồng đi chinh chiến. Hơn
những người phụ nữ của một thời
Nho Phong, người phụ nữ trong nửa thế kỷ
vừa qua, không những quảy
một gánh nặng trên vai, còn
bị vùi dập, bị ngược đãi, bị khinh khi
của tầng lớp cai trị trong chính quê hương Việt
những năm tháng chồng bị lao tù Cộng Sản
nơi sương lam chướng khí. Trong thời gian này người phụ
nữ Việt Nam phải sống vùng kinh tế mới với
đói khát bệnh tật .. đương đầu với
những thảm cảnh hãi hùng trên đường tìm tự
do trên đường bộ, trên đường biển với
tử vong cao độ làm thức tỉnh lương tâm
nhân loại. Tinh thần phấn đấu, chịu đựng,
kiên nhẫn, hy sinh của người phụ nữ Việt
đã nuôi con nên người tuy rằng những người
chồng, người cha đã hy sinh ngoài mặt trận,
chết trong lao tù Cộng Sản, hay trên biển đông.
Cái cò đậu cọc bờ ao
Phất phơ hai giải yếm đào gió
bay
Hai giải yếm như cánh
bướm bất tử trong lịch sử, trong văn học,
định mệnh người phụ nữ Việt Nam,
người phụ nữ Việt đã chia gánh nặng với
chồng từ ngày lập quốc.
Ngoài Trưng Triệu còn bao nhiêu người phụ nữ
khác trong bóng mờ với sự hy sinh không tưởng, với
lòng nhẫn nại vô biên của mẹ, linh hồn những
giải yếm bay trong gió đã và đang ôm ấp một
Việt Nam.
Hình ảnh người nữ
trong thi ca vẫn là nét đẹp.
Một nét đẹp còn ở mãi trong tâm hồn chúng
ta những người yêu con chữ quê hương; cho dù
chúng ta đang sống trong thời đại vi tính với
mạng, với net, với facebook, với twitter nhưng
chưa ai làm thơ hay vẽ được bức tranh tuyệt
vời : nét đẹp của người phụ nữ và
cái định mệnh.
Cái cò đậu cọc bờ ao
Phất phơ hai giải yếm đào gió
bay
Biểu tượng hay định
mệnh nào ai khẳng định.
Thay cho cây cọ, gam màu là những con chữ dân gian
thường dùng, những câu thơ lục bát đã vẽ
một bức tranh tuyệt vời về người phụ
nữ Việt qua hình ảnh gần gụi nhất trong cảnh
thôn quê .. cái cò, con cò .. bờ ao .. Thơ lục bát trong ca dao trở thành lời ru của
mẹ qua những thăng trầm của đời mẹ,
của quê hương.
Thu
Hương Seattle
(@ Internet)