SU'U TÂ`M 25

Home | LINKS | CÂ?N THÂ.N | HU'U~ ÍCH | HU'U~ ÍCH [tt] | HU'U~ ÍCH 1 | HU'U~ ÍCH 2 | HU'U~ ÍCH 3 | HU'U~ ÍCH 4 | HU'U~ ÍCH 5 | HU'U~ ÍCH 6 | HU'U~ ÍCH 7 | CU'̉'I CHÚT CHO'I | CU'̉'I CHÚT CHO'I [tt] | TIÊ'U LÂM | TIÊ'U LÂM [tt] | SU'U TÂ`M TÊ'U | KHÔ? | KHÔ? [tt] | KHÔ? 1 | KHÔ? 2 | KHÔ? 3 | KHÔ? 4 | KHÔ? 5 | DANH NHÂN | VA(N VUI | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | TA.P GHI 35 | TA.P GHI 36 | TA.P GHI 37 | TA.P GHI 38 | TA.P GHI 39 | TA.P GHI 40 | TA.P GHI 41 | TA.P GHI 42 | TA.P GHI 43 | TA.P GHI 44 | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | THÚ VI. | TÀI T̀NH | PHIM

TA.P GHI 33

   

 

 

PHONG CNH CA DAO trong  LI RU CON

ca Thơ XUÂN QUNH

 

(Lê Khánh Mai)

 

 

 

Sinh ra từ một vùng dâu, quê lụa, tuổi thơ ấp ủ tâm hồn thi nhân của Xuân Quỳnh đă sớm biết yêu làng xóm, gia đ́nh, những con người b́nh dị, ân nghĩa. Kỷ niệm theo suốt cuộc đời chị là tiếng bà ru cháu, lời mẹ ru con. Đối với Xuân Quỳnh lời ru con là một kư ức xanh màu cỏ, tím hoa xoan và xào xạc lá. H́nh ảnh mẹ và lời ru con da diết trong tiềm thức của nhà thơ: "Cánh c̣ trắng xoá, Như lời ru của mẹ bay về, Những lời ru vời vợi canh khuya" (Gửi mẹ). Đó là cánh c̣ ca dao, cánh c̣ của nền văn minh lúa nước mang thân phận người phụ nữ, người mẹ, người vợ với những đức tính hy sinh thầm lặng, vô danh: "Con c̣ lặn lội bờ sông" (ca dao). Lời ru của mẹ đă hóa thân vào cánh c̣ dân gian để ngàn năm c̣n chấp chới, chao liệng giữa đời. Cái màu trắng xoá ngang trời lúc mưa giông, mây tạnh như một lời nhắc nhở về nỗi vất vả gian truân của mẹ.

 

 

Trở về với lời ru trong kỷ niệm tuổi thơ là một quy luật t́nh cảm, con người càng từng trải những khổ đau, vấp váp trong cuộc sống càng khao khát nh́n nhận lại những giá trị cũ mà một thời người ta đă vô t́nh lăng quên. Một trong những giá trị ấy là lời ru của mẹ. Là một phụ nữ "đi qua mùa băo gió" và "thác lũ", Xuân Quỳnh cảm nhận sâu sắc, thấm thía lời ru xưa. Suốt chặng đường đời của ḿnh nhà thơ cứ vương vấn "Thương câu hát cũ", và mong muốn được bù trừ, xoa dịu nỗi đau quá khứ: "Mưa không c̣n lạnh nữa những lời ru" (Gửi mẹ).

 

 

Lời ru trong lời mẹ thấm đượm nỗi buồn dịu ngọt ca dao. Nỗi buồn như mạch ngầm âm thầm hát ca trong vô tận không gian, vĩnh cửu thời gian, mà chắc ai cũng hiểu rằng người ta có thể lớn lên từ những nỗi buồn.

 

 

Tắm ḿnh trong ḍng suối dân gian, nên dù viết về lời ru nay, lời ru của thời hiện đại, thơ Xuân Quỳnh vẫn không mất đi cái phong cảnh ca dao, đậm đà chất trữ t́nh. Mọi cảm quan nghệ thuật của Xuân Quỳnh về lời ru luôn có xu hướng t́m về dân dă. Thơ ru của chị có giọng điệu nhắn nhủ, ví von, gần với cách nói, cách cảm thông thường của người Việt từ xa xưa.

 

 

"Rào rào tiếng những bầy ong

 

Chuyên cần là tiếng cái tằm nhả tơ

 

Mẹ c̣n đang bận đưa ru

 

Cái hoa bận đỏ, cái hồ bận xanh

 

Hạt cây đang bận nảy mầm

 

Con quay quay có một ḿnh ngoài kia"

 

(Lời ru trên mặt đất)

 

 

Cái ngủ được đặt trong môi trường dân gian, môi trường lao động. Thiên nhiên, tạo vật, con người đều ở trạng thái thức và bận rộn. Con ong làm mật, con tằm nhả tơ, bông hoa đỏ hết ḿnh, mặt hồ xanh đến tận cùng, con quay quay không ngừng nghỉ và mẹ bền ḷng đưa ru. Tất cả đều "làm việc" với một "tốc độ" cao v́ giấc ngủ trẻ thơ. Trong bối cảnh ấy, trẻ thơ trở thành một h́nh ảnh trung tâm, có ảnh hưởng đến thế giới xung quanh. Vả chăng mọi sự phấn đấu trên mặt đất này đều nhằm đạt đến sự b́nh yên cho trẻ thơ. Đó là một thái độ sống tích cực và nhân đạo truyền thống Việt Nam.

 

 

Gắn những quy luật tự nhiên với quy luật xă hội, lời ru Xuân Quỳnh là triết lư dân gian nhẹ nhàng, dễ hiểu, dễ thấm mà sâu sắc. Nó không trôi tuột đi, tan biến vào giấc mơ, trái lại nó kết đọng và thức tỉnh.

 

 

"Củ khoai lớn ở ngoài đồng

 

Ông trăng lên, lớn ở trong bầu trời

 

Cánh buồm lớn giữa biển khơi

 

Lá cờ lớn bởi gió vời lên cao".

 

(Hát ru)

 

 

 

Đây là một bài học giản dị về ư thức cộng đồng. Không ai có thể tự ḿnh lớn lên, nếu không có chiếc nôi rộng lớn là cuộc đời.

 

 

Lời ru của Xuân Quỳnh c̣n thức tỉnh về giá trị và t́nh yêu, con người:

 

 

"Trăng là con mắt của đêm

 

Nh́n trên đồng ruộng nh́n trên phố phường,

 

.. .. .. ..

 

Con là mắt của mẹ cha

 

Biết yêu thương giữa bao la đất trời"

 

(Mắt của đêm)

 

 

 

Tục ngữ có câu "Giàu hai con mắt". Cái cửa sổ tâm hồn ấy là nơi bắt đầu của sự tự hoàn thiện ở mỗi con người. Quá tŕnh đó không thể thiếu vắng vai tṛ của con cái, như bầu trời đêm không thể thiếu ánh trăng. Con cái là hiện hữu của t́nh yêu. Thiếu vắng t́nh yêu ḷng người chỉ là xứ sở của đêm tối.

 

 

Trong những năm tháng không yên của đất nước, thơ Xuân Quỳnh đă đầy ắp lời ru. "Căn hầm chật lời ru". Miền gió cát ngổn ngang bom đạn cũng dạt dào tiếng đưa ru. Và đây là  "Bài hát ru em bé trên đường chạy giặc":

 

 

"Ngủ đi nào hăy nằm mơ

 

Thấy con cá lội cánh c̣ trắng bay

 

Quả cây chín ở cành cây

 

Mùa xuân suối mát đang đầy mênh mông".

 

 

 

Vẫn là phong cảnh ca dao êm ả, yên lành, như không hề có chiến tranh , giặc giă, đó cũng là cách ứng xử dân gian: bảo vệ giấc ngủ trẻ thơ trong bất kỳ hoàn cảnh nào:

 

 

"Nắng th́ lưng mẹ làm cây

 

Đạn bom mẹ đă ṿng tay làm hầm"

 

(Bài hát ru em bé trên đường chạy giặc).

 

 

 

Lời ru thức tỉnh lương tri, đặt ra vấn đề số phận trẻ em trong chiến tranh, khích lệ tinh thần chiến đấu v́ hoà b́nh nhân loại.

 

 

Triết lư lời ru của Xuân Quỳnh đậm tính nhân văn. Bởi nó là triết lư của trái tim kết hợp với kinh nghiệm đời sống và sự thông tuệ sắc sảo dân gian. Lời ru - nơi t́nh yêu bền chặt, vô tận, điểm tựa của truyền thống muôn đời, những hạt phù sa cần mẫn bồi nên bờ băi.

 

 

"Dẫu con đi đến suốt đời

 

vẫn không đi hết những lời mẹ ru"

 

(Lời ru).

 

 

 

Phong cảnh ca dao của lời thơ Xuân Quỳnh c̣n được thể hiện tinh tế ở nghệ thuật sử dụng thể thơ dân gian. Thơ lục bát vốn có cấu trúc ưu việt và hoàn hảo: câu 6, câu 8, luật bằng trắc, mạch thơ đi đều đặn, nhịp nhàng, tạo nên điệu ru, chất ngâm ngọt ngào, du dương, vỗ về, êm ái, làm dịu đau, dịu khổ, quên nguôi, dễ đạt đến mục đích thuyết phục. Nhưng với một ng̣i bút non yếu, thơ lục bát sẽ không tránh khỏi lạc lơng bởi sự  dàn trải, trùng lặp.

 

 

Nếu tính số lượng, thơ lục bát của Xuân Quỳnh ít hơn thơ 7,8 chữ. Nhưng những bài thơ lục bát của chị rất đẹp: hài ḥa, cân đối và chuẩn mực. Đó là một bản lĩnh nghệ thuật.

 

 

Lại Nguyên Ân cho rằng: "Xuân Quỳnh với tư cách một con người và một nhà thơ, vẫn gắn bó, vẫn hướng nhiều hơn về phía những chuẩn mực, những nền nếp đă h́nh thành từ xưa của đời sống và của nghệ thuật" .

 

 

Xuân Quỳnh tôn trọng tuyệt đối cấu trúc câu thơ lục bát truyền  thống. Chị không tháo dỡ câu thơ, rồi sắp xếp lại theo ư riêng như một số tác giả gần đây thường làm.

 

 

Thơ lục bát của Xuân Quỳnh duyên dáng, nhă nhặn, sáng rơ và man mác một "màu Việt cổ".

 

 

Người về cởi áo lại đây

 

Để thương để nhớ biết ngày nào quên

 

Núi Thiên Thai, mảnh trăng liềm

 

Sông Cầu nước chảy những đêm đợi chờ

 

(Nguồn gốc từ ngữ)

 

 

 

Đây phải chăng là một chỉ dẫn về Con người - thơ Xuân Quỳnh. Con người đi ra từ cội nguồn dân tộc với vẻ đẹp đồng nội, dân dă, rất gần gũi với Hồ Xuân Hương, Tú Xương ..

 

 

Có thể xem ư kiến của Lại Nguyên Ân sau đây là cánh cửa mở về phía con đường đi vào thế giới thơ trữ t́nh Xuân Quỳnh: "Tôi vẫn ngờ rằng con người Xuân Quỳnh thuộc về văn hoá dân gian và cổ truyền nhiều hơn là thuộc về văn hoá hiện đại".

 

 

 

Đó là lư do thơ Xuân Quỳnh vương vấn với lời ru. Và những lời ru ấy đậm đà một phong cảnh ca dao c̣n măi với đời./.

 

 

 

 

Tác gi: Lê Khánh Mai

 

(@ Internet)

 

 

website counter