SU'U TÂ`M 25

Home | LINKS | CÂ?N THÂ.N | HU'U~ ÍCH | HU'U~ ÍCH [tt] | HU'U~ ÍCH 1 | HU'U~ ÍCH 2 | HU'U~ ÍCH 3 | HU'U~ ÍCH 4 | HU'U~ ÍCH 5 | HU'U~ ÍCH 6 | HU'U~ ÍCH 7 | CU'̉'I CHÚT CHO'I | CU'̉'I CHÚT CHO'I [tt] | TIÊ'U LÂM | TIÊ'U LÂM [tt] | SU'U TÂ`M TÊ'U | KHÔ? | KHÔ? [tt] | KHÔ? 1 | KHÔ? 2 | KHÔ? 3 | KHÔ? 4 | KHÔ? 5 | DANH NHÂN | VA(N VUI | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | TA.P GHI 35 | TA.P GHI 36 | TA.P GHI 37 | TA.P GHI 38 | TA.P GHI 39 | TA.P GHI 40 | TA.P GHI 41 | TA.P GHI 42 | TA.P GHI 43 | TA.P GHI 44 | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | THÚ VI. | TÀI T̀NH | PHIM

BÀI VIÊ'T 4

 

 

Ngẩng mặt không cúi đầu

(Ngô Nhân Dụng)

 

 

Những người làm thơ nhiều khi không nói thẳng ư kiến của ḿnh, mà nói ngược lại. Thí dụ, blog của Nguyễn Trọng Tạo mới đăng một bài của nhà thơ Gia Hiền, mở đầu như thế này:

 

Thế hệ tôi, một thế hệ cúi đầu

Cúi đầu trước tiền tài, cúi đầu sau mông người khác

Cúi đầu trước chính ḿnh, cúi đầu bạc nhược

Chỉ ngẩng đầu ..

.. v́ ..

.. đôi lúc ..

.. phải cạo râu!

 

Nghe mấy câu thơ này th́ có vẻ nản thật. Nhà thơ đang viết về những người "thế hệ tôi ba mươi tuổi đă già - và bốn chục thế là đời chấm dứt". Nhưng có thật là thế hệ của Gia Hiền chịu cúi đầu, bạc nhược hay không? Nhiều thi sĩ viết thế mà người đọc phải nghĩ ngược lại. Như trong bài Tự Phận Ca của Nguyễn Cao, một nhà Nho vào thế kỷ 19, tác giả tự nói về ḿnh như thế này:

 

"Hỡi ôi tạo vật sao lại sinh ra ta?

Cho ta có trí khôn mà chí khí ngắn ngủi

Cho ta thành người mà thân thể yếu đuối

Đă chẳng bằng con ngựa câu ngàn dặm dọc ngang

Lại chẳng bằng con le le sông hồ rong ruổi."

 

(Ta ta tạo vật hề dĩ ngă vi sinh - Dữ ngă dĩ trí nhi đoản kỳ chí - Dữ ngă dĩ thành nhi bệnh kỳ h́nh - Kư bất năng vi câu chi ngang ngang thiên lư -

Hựu bất năng vi phù chi phiếm phiếm trung hành).

 

Chúng ta biết Tán Cao (chức sau cùng cụ giữ là Tán Tương Quân Vụ Bắc Kỳ) là một nhà Nho người Bắc Ninh khí tiết lẫm liệt. Đỗ đầu kỳ thi hương năm 39 tuổi (1867), ông không muốn bước vào chốn quan trường, chịu sống nghèo nàn, về dậy dỗ đám trẻ trong làng. Nhưng khi quân Pháp đánh chiếm Hà Nội năm 1873, ông hô hào thanh niên cùng nhau lập đội quân nghĩa dũng, theo Nguyễn Thiện Thuật đánh giặc ngoại xâm trong hơn 10 năm trời, cho tới khi bị bắt.

 

Nguyễn Cao viết Tự Phận Ca chỉ nói đến thân phận ḿnh; c̣n Gia Hiền nói về cả một thế hệ.

 

"Thế hệ tôi, cơm áo gạo tiền níu thân sát đất

Cuộc sống bon chen

Tay trần níu chặt

Bàn chân trần không dám bước hiên ngang.

Thế hệ tôi, nhận quá nhiều những di sản hoang mang

Đâu là tự do, đâu là lư tưởng?

Đâu là v́ ḿnh, và đâu là v́ nước

Những câu hỏi vĩ mô cứ luẩn quẩn loanh quanh .."

 

Bài thơ kết thúc rất buồn:

 

Trăm năm sau, lịch sử sẽ ghi vài ḍng vắn tắt:

Có một thế hệ buồn, đă nhạt nhẽo đi qua ..

 

Nhưng người đọc vẫn nghĩ khác. V́ khi một người, hay một thế hệ đă ư thức được cảnh cúi đầu của ḿnh, th́ chắc chắn thế hệ đó, con người đó sẽ biết ḿnh phải ngẩng mặt lên. Nói đến "ngẩng mặt" th́ lại phải nhớ đến Nguyễn Đắc Kiên, một thanh niên sống cùng thế hệ với Gia Hiền. Tập thơ và văn ông mối xuất bản mang tên "Hăy Ngẩng Mặt", một bài thơ tặng những người đi biểu t́nh v́ Hoàng Sa, Trường Sa vào Tháng Bẩy năm 2012:

 

Hăy ngẩng mặt lên

cho tôi thấy đôi mắt bạn

không cần ḥ hét

xin hăy cứ lặng im

Đất mẹ có nói ǵ đâu

Đất mẹ biết hết rồi.

 

Anh lại viết thêm bài thơ nữa tặng những người đi biểu t́nh v́ Hoàng Sa, Trường Sa vào tháng 12 năm 2012:

 

"Nếu một ngày tôi phải vào tù

th́ chắc chắn là nhà tù cộng sản

bởi v́ tôi khao khát tự do".

 

Nguyễn Đắc Kiên cảm thấy được tiếng nói của Đất Mẹ, như khi nghe tiếng khóc của một người đàn bà đau khi con sắp ra đời mà cảm thấy đất nước ta lại sắp hồi sinh:

 

"Chẳng sinh linh nào chào đời trên trái đất

lại không mang theo nỗi đau của mẹ lúc trở cơn

Cơn đau đẻ nước".

 

Những câu thơ bi thương của Gia Hiền cũng diễn tả một nỗi đau đớn của thế hệ anh, chung trong tiếng khóc của "Cơn đau đẻ nước" mà Nguyễn Đắc Kiên đang nghe thấy. Đúng như nhận xét của nhà thơ Allama M. Iqbal người Pakistan viết trước khi quốc gia này ra đời: "Các dân tộc sinh ra từ trái tim của các thi sĩ". Chúng ta đang nghe thấy những câu thơ báo hiệu nước Việt Nam sắp hồi sinh.

 

Dấu hiệu hồi sinh c̣n thấy trong hành động của những người cùng thế hệ đă đi biểu t́nh phân phát các bản tuyên ngôn quốc tế về quyền làm người; ở Sài G̣n có Nguyễn Hoàng Vi, Vũ Sỹ Hoàng; ở Nha Trang có Nguyễn Ngọc Như Quỳnh tức Mẹ Nấm; tại Hà Nội có Bùi Thị Minh Hằng. Họ chứng tỏ đây là một "thế hệ không cúi đầu".

 

Thế hệ thanh niên ngày nay sẽ không chịu cúi đầu; sẽ không hổ thẹn với tiền nhân. Nguyễn Đắc Kiên viết những câu thơ quả quyết "độc đảng là sai", "dân chủ tự do là quyền của con người":

 

"nếu có một bức tường Hà Nội

như Béc-Lin

ta sẽ xô đổ

Hà Nội sẽ vẫn c̣n

như Béc-Lin

bức tường đă đổ.

họ cũng như ḿnh,

họ cũng đă từng sai".

 

Chúng ta có thể tin rằng bất cứ thế hệ nào của dân tộc Việt Nam cũng có những người không chịu cúi đầu. V́ chúng ta cùng một ḍng dơi với nhà Nho Nguyễn Cao đời trước. Bài Tự Phận Ca ông viết trước khi tự sát năm 1887, để nói lên nỗi ân hận không đánh đuổi được quân xâm lăng. Khi bị giặc Pháp bắt, họ dụ dỗ ông hăy chấp nhận chế độ bảo hộ để mời làm quan, ông đă khẳng khái từ chối. Ông đă tự mổ bụng ra cho quan quân Pháp thấy "gan ruột" ḿnh, rồi nói: "Ḷng dạ tôi như thế này đây!". Sau đó ông nhịn ăn, không chịu cho họ chữa thương, rồi chết. Nguyễn Cao đă noi gương Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu. Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương cũng noi gương Đặng Dung, Trần B́nh Trọng. Đúng là "Hào kiệt đời nào cũng có".

 

Trong bài Tự Phận Ca Nguyễn Cao trước khi chết đă nhớ đến các tấm gương hào kiệt đời xưa: Kiếm núi Sóc (Phù Đổng Thiên Vương), Câu thơ đọc ở trên không (Lư Thường Kiệt), và cọc nhọn ở sông Bạch Đằng (Trần Quốc Tuấn) - nguyên văn - Sóc chi kiếm! Không chi thi! Đằng chi thung!

 

 

NGÔ NHÂN DNG

 

(NNS sưu tm, Kim Oanh chuyn)

 

website counter