Bà
Cẩm Lợi
(Nguyễn Tường Thiết)
Một lần. Buổi
trưa. Lâu rồi. Mẹ tôi ngồi nhặt cau trên sập
gụ. Tôi nằm ngửa bên cạnh bà, hai tay cầm
giơ trước mặt cuốn truyện Đoạn Tuyệt
của Nhất Linh. Đọc đến đoạn cảnh
mẹ chồng ác nghiệt với con dâu, tôi nhỏm dậy
hỏi mẹ tôi: "Mợ này, mợ có phải chịu cảnh
mẹ chồng nàng dâu như cậu tả trong truyện
không?". Mẹ tôi ngửng lên nh́n tôi nói: "Đấy
là cậu viết tiểu thuyết .. Bà nội con có khó tính
thật nhưng đâu đến nỗi khắc nghiệt
thế ..". Rồi mẹ tôi tiếp tục nhặt cau.
Lát sau, khi tôi đang đọc tiếp cuốn truyện
th́ có tiếng bà bên tai: "Khi bà nội con có chuyện ǵ
không bằng ḷng th́ bà đổi cách gọi. Thường
th́ bà kêu mợ là bà Tam. Bà Tam ơi! Ra tôi bảo cái này .. Gọi
thế là âu yếm đấy. Nhưng khi bà đổi giọng
gọi thế này th́ mợ biết ngay là sắp sửa có
ǵ to chuyện: Này! bà Cẩm Lợi! Nghe tôi nói đây!".
Tại sao bà nội tôi lại
yêu bà Tam và ghét bà Cẩm Lợi nhỉ? Bởi v́ với
tôi, không bao giờ mẹ tôi là bà Tam, không bao giờ mẹ
tôi là bà Nhất Linh. Với tôi, mẹ tôi luôn luôn là bà Cẩm
Lợi, từ ngày tôi lọt ḷng mẹ tôi cho đến
ngày mẹ tôi qua đời. Cuộc đời của bà gắn
liền với cái tên hiệu Cẩm Lợi và cái tên hiệu
này gắn liền với những hạt cau khô, mặc dù
đôi lúc Cẩm Lợi c̣n bán cả cá mắm, cá khô, thậm
chí c̣n là tên của một tiệm may y phục phụ nữ
..
Từ những ngày rất xa
xưa ở Hà Nội ở căn nhà số 9 Hàng Bè trước
khi tản cư và số 15 Hàng Bè sau khi tản cư về,
tuổi thơ tôi lớn lên bên những bồ cau và mùi diêm
sinh. Căn nhà rộng có nhiều pḥng. Nguyên một pḥng giữa
chứa đầy những bồ cau, chất chồng lên
nhau đến sát trần. Thuở bé chúng tôi thường
chơi tṛ đi trốn và căn buồng đó, tối
tăm và nhiều ngơ ngách giữa những bồ cau, là
nơi đi trốn lư tưởng. Tôi thường trèo lên
những bồ cau trên cao gần đụng trần, nằm
áp mặt trên những bao tải, cảm thấy cái vải
bố nháp in hằn trên má và thở cái mùi cau khô toát từ
những bao bố. Mẹ tôi kinh hoảng khi khám phá ra cái tṛ
chơi nguy hiểm này của chúng tôi: "Mấy cái bồ
cau nó mà đổ xuống th́ chúng bay cứ mà chết bẹp!".
Mẹ tôi khi mắng chúng tôi hẳn là bà nghĩ tới cái
tai nạn chết đuối đă giết chị Thanh tôi
trong cái ao ở trại Cẩm Giàng.
Thuở ấy những người
đàn ông h́nh như trốn tiêu đâu mất cả. Tôi lớn
lên như người không cha. Chả ai hỏi tôi ông Tam
đâu hay ông Nhất Linh đâu? Luôn luôn người ta gơ cửa
rồi tḥ cái đầu vào hỏi: "Có bà Cẩm Lợi
ở nhà không?". Chả bao giờ tôi thấy ông nội
ông ngoại, bố tôi hoặc các bác các chú. Xúm lại quanh
tôi toàn những đàn bà: bà nội, bà ngoại, bà mẹ, bà
vú, và một đống bà cô bà thím .. Không có ông Nhất Linh,
ông Hoàng Đạo, ông Thạch Lam. Chỉ có bà Cẩm Lợi,
thím Long, thím Sáu .. như thể một bên là tiểu thuyết,
một bên là đời thường.
Bà Cẩm Lợi ngồi nhặt
cau trên sập gụ. Đó là h́nh ảnh quen thuộc đă
ăn sâu trong kư ức tôi từ ngày tấm bé. Đầu vấn
khăn, chiếc áo cánh trắng, chiếc quần lĩnh
đen, mẹ tôi cúi xuống chà chà cho sạch những hạt
cau khô ẩm bị xanh mốc. Trên chiếc sập gụ
giang sơn riêng của bà, mẹ tôi vừa nhặt cau, vừa
tiếp khách hàng, vừa đôn đốc đám người
làm, vừa chơi rỡn nựng nịu con cháu. Đêm
đến khi căn nhà đă ch́m vào yên vắng bà trải
trên sập đống giấy bạc kiếm được
trong ngày, đếm từng tờ và xếp buộc thành bó
dầy cộm rồi cất trong chiếc két sắt
trước khi bà ngủ trên sập gụ ấy. Trong túi
áo cánh của bà lúc nào cũng xệ xuống một chùm ch́a
khoá nặng chịch. Mẹ tôi hay dùng chùm ch́a khoá này làm
đồ chơi cho trẻ con, bà lắc lắc chùm ch́a
khóa kêu rộn ràng trước mặt đứa bé cho đến
khi nào nó ngoẻn miệng cười mới thôi.
Người đàn bà già nhất
sống gần tôi thuở nhỏ là bà ngoại. Bà chết
lúc tôi c̣n bé nên tôi chả nhớ ǵ nhiều về bà. H́nh
như người bà gầy đét. Vấn khăn. Răng
đen. Một bà già trầu điển h́nh. Kỷ niệm
của tôi thời thơ ấu nếu có chừa một chỗ
nhỏ cho bà th́ lại là một kỷ niệm không mấy
ǵ đẹp đẽ. Xấu hổ là đằng khác. Hồi
đó tôi ngủ chung giường với bà ngoại. Trong một
căn buồng trên gác của căn nhà số 15 Hàng Bè.
Trước buồng là một hành lang hẹp trông ra phố.
Có một đêm ăn phải cái ǵ mà tôi mót đi cầu
quá. Nghĩ tới chuyện phải ṃ xuống cái cầu
tiêu hôi thối ở măi tít sau nhà dưới giữa đêm
tối lại phải lần qua những bồ cau mà tôi lạnh
cả người. Bước ra ngoài hành lang người
đă bủn rủn. Tôi bèn nghĩ ra một cách giải quyết
rất gọn là ngồi phịch xuống ở một góc
làm một băi tướng. Sáng hôm sau ngủ dậy tôi ra
hành lang nh́n th́ ô hay cái sàn sạch bóng! Ḿnh có ngủ mơ
không chứ? Buổi trưa ăn cơm tôi nghe hai người
làm nói chuyện với nhau: "Rơ khổ! Cụ bây giờ
già lẫn quá rồi .. Cứ bạ đâu là ỉa
đó!". Khám phá ra điều bí mật này, sau đó tôi
c̣n làm thêm vài băi nữa và đều b́nh an vô sự!
Bà nội tôi th́ trái lại có
tướng vơ, người cao to. Dưới mắt tôi hồi
nhỏ bà nội trông như đàn ông. Gương mặt
bà có đường nét không thể lẫn với ai.
Đôi mày rậm, mắt sâu, sống mũi cao. Cái tướng
đó mà chui vào chiếc áo tu hành tôi thấy có vẻ lệch
lạc. Từ một thuở xa nhất, hồi ở Cẩm
Giàng lúc tôi mới lên năm, h́nh ảnh và tiếng tụng
kinh của bà đă thấm sâu vào tuổi thơ tôi. Bà ngồi
trên sập, khoác áo nâu sồng, một tay chắp trước
ngực, một tay gơ mơ. Nam mô a di đà Phật .. Nam mô á di
đà Phật .. Nam mô ạ di đà Phật .. Tiếng tụng
kinh đều đều tôi nghe cứ nhỏ dần
đi như tiếng kêu rỉ rả của những con ve
sầu. Tôi lại có cảm tưởng như bà vừa ngủ
vừa tụng, lâu lâu chợt thức, tiếng tụng bỗng
to lên như tiếng ve ran. Và như một giọng ru buồn
nản Nam mô a di đà Phật đă trôi vào giấc ngủ ấu
thơ của tôi.
Sau này biết rơ hơn về
bà nội tôi thấy bà là người phi thường. Chồng
chết khi bà mới 37 tuổi, một ḿnh xây dựng và cai
quản cả một dinh cơ Cẩm Giàng, lại nuôi bẩy
con trở thành những người lỗi lạc. Một
người đàn bà như thế "dễ có mấy tay"
phải là người cứng rắn và độc
đoán. Mẹ tôi vào làm dâu nhà bà, lại không phải đến
từ một gia đ́nh giầu có và danh vọng, chắc
chắn phải chịu cảnh "mẹ chồng nàng dâu"
nếu không quá quắt như bà phán Lợi trong Đoạn
Tuyệt th́ cũng khó sống cho yên.
Thế mà mỗi lần có ǵ
không vừa ư bà nội Lê thị Sâm chỉ lôi tên bà Cẩm
Lợi ra nhiếc. Mẹ tôi quả là người may mắn!
Gần đây đọc cuốn hồi kư của cô Năm
tôi (Hồi kư về gia đ́nh Nguyễn Tường - Nguyễn
Thị Thế) đoạn viết bà nội đối xử
nghiêm khắc và độc đoán với người con
gái duy nhất của bà, tôi hiểu là v́ sao mẹ tôi may mắn
hơn cô Năm. Bà nội tôi và mẹ tôi (và có lẽ phần
lớn những bà mẹ của thế hệ ấy) có một
điểm giống nhau. Đó là đối xử thiên lệch
với con cái: con trai bao giờ cũng được
cưng chiều và nể trọng hơn. Huống hồ
trong số sáu người con trai, bà nội tôi h́nh như lại
yêu và nể bố tôi nhất. Tôi nghĩ rằng khi bà nội
gọi mẹ tôi bằng cái tên thân thương "bà Tam",
bà đă gửi cái tŕu mến về người con trai thứ
ba của bà. Cộng thêm vào đó mẹ tôi lại là một
người hết sức khéo léo trong cách ăn ở. Chả
thế mà trong gia đ́nh nội ngoại chúng tôi nói đùa
là mẹ tôi đă tước cái chức bộ trưởng
ngoại giao của bố tôi.
Dưới mắt tôi mẹ
tôi không bao giờ là người đàn bà đẹp.
Đôi lúc tôi c̣n thấy xấu là đằng khác. Có thể
là v́ khi tôi được sinh ra đời mẹ tôi đă
đẻ trên mười người con. "Đẻ
như thế th́ c̣n ǵ là người". Tôi nghĩ.
Hơn thế nữa qua h́nh ảnh bà Cẩm Lợi mẹ
tôi lúc nào trông cũng lam lũ và luộm thuộm. Một
h́nh ảnh và một nhan sắc như thế làm sao mê hoặc
được bố tôi nhỉ? Cho đến măi gần
đây chị Thoa tôi từ bên Pháp gửi tôi một tấm
ảnh rất cũ, chụp tám năm trước khi tôi lọt
ḷng mẹ, lần đầu tiên tôi mới thấy dung nhan
của bà thời trẻ. Một người đàn bà
đẹp. Bức ảnh chụp năm 1932, mẹ tôi 25
tuổi. Năm ấy mẹ tôi dẫn chị Thư tôi,
lúc ấy 5 tuổi, đi dự thi trẻ em đẹp và
chị tôi được chấm giải nhất. Tôi nh́n
đôi mắt của bà trong ảnh và chợt nhớ tới
đoạn viết của nữ sĩ Anh Thơ. Đôi mắt
bà chớp chớp. Tôi chợt thấy đôi mắt bà
đẹp quá! Một đôi mắt to mênh mông, có hàng mi dài
óng ả. Rồi tôi chợt thấy thương mẹ tôi
quá! Một ḷng thương cũng mênh mông như đôi mắt
to của bà. Nông nỗi nào mà người đàn bà trong ảnh
bỗng trở thành bà Cẩm Lợi tiều tụy như
thế trong tâm trí tôi?
Những năm tháng tôi sống
ở Hà Nội phố Hàng Bè là thời gian tôi sống lêu lổng
và làm buồn ḷng mẹ tôi không ít. Bố tôi biến đâu
mất ở bên Tàu, mẹ tôi suốt ngày đánh vật với
các bồ cau, lũ chúng tôi lớn lên hoang như cây cỏ.
Một bữa tôi thấy trên tủ chè có một chai nước
màu đỏ đỏ, dán nhăn hiệu tiếng tây, lại
có vẽ h́nh con mèo, tôi nhấp thử thấy nó ngọt ngọt
ngon ngon, bèn rủ thằng Thái em tôi mỗi đứa nốc
mấy ngụm. Mẹ tôi đi chợ về trông thấy
hai đứa con của bà nằm lăn lóc, mặt đỏ
tía, nói lảm nhảm th́ biết ngay. Bà quát người làm
lấy nước chanh cho chúng tôi uống và mắng họ
là từ rầy rượu phải cất trong tủ chè
khoá trái lại.
Thuở mẫu giáo tôi ở nội
trú cùng với chị Thoa tôi trong trường bà sơ phố
nhà Chung gần nhà thờ lớn Hà Nội. Trường có
tường cao quét vôi vàng bao quanh nom như một nhà tù. Tôi
sợ nhất là nh́n các bà sơ mặc áo đen cúi mặt
đi lại trên hành lang. Họ lướt yên lặng
như những bóng ma. Giờ ăn cũng không được
nói chuyện. Tôi phải đứng nghiêm cùng với đám
học tṛ mặc đồng phục đọc kinh. Lạy
cha chúng tôi ở trên lời .. Chúng tôi nguyện danh cha cả
sáng .. Tuổi thơ của tôi hết nghe tiếng niệm
Phật lại nghe tiếng cầu kinh. Lớn lên tôi chả
biết tôn giáo nào để theo.
Lên tiểu học chị Thoa
sang học trường Thanh Quan c̣n tôi học trường
Hàng Vôi. Nhưng tôi thường trốn học đi xem xi
nê tặc-dzăng ở rạp Lửa Hồng hoặc giao
du với đám trẻ mất dậy ở ngơ Phát Lộc.
Cầm đầu bọn quỷ sứ thời ấy là
tay Đỗ Bá Viễn. Hắn hơn tôi mấy tuổi,
lơi đời. Hắn bầy cách cho tôi lấy cắp tiền
của mẹ tôi. Cách ấy thật là thần sầu. Chả
là tôi cứ bị ám ảnh bởi cái túi áo cánh lúc nào cũng
xệ xuống của mẹ tôi, trong đó là chùm ch́a khóa.
Trong chùm ấy cái ch́a to nhất, không phải là ch́a bẹt
mà là ch́a ống có khía ở đầu, dùng để mở
cái két to tướng và nặng nề. Thằng Viễn bảo
tôi phải đánh cắp cái ch́a khoá ấy. Nhưng mẹ
tôi lúc nào cũng ôm ch́a khoá trong người ngay cả lúc bà
ngủ. Thằng Viễn chờ măi thấy tôi không lấy
được ch́a khóa nó bèn nghĩ cách khác. Nó cầu cứu
thằng Đồng con ông thợ khóa ở phố Hàng Mắm.
Thằng Đồng đưa tôi một miếng ǵ dẻo
dẻo trông như ruột bánh ḿ, bảo tôi đút vào lỗ
khoá, chờ cho khô th́ rút ra. Rồi nó đem cái khuôn bánh ḿ ấy
về cho bố nó đúc thành ch́a. Mở được két
tôi hoa cả mắt lên v́ trong két nhiều tiền quá. Tôi vớ
đại một bó. Mấy hôm sau tôi kinh hoảng thấy
mẹ tôi la lối tra khảo người làm đă lấy
cắp tiền của bà. Mẹ tôi cho là ḿnh mất tiền
trong lúc đếm bạc chứ không nghĩ là ai có thể
mở được cái két chắc chắn kia. Tôi tiết
lộ với Viễn. Nó bầy mưu khiến mẹ tôi
không bao giờ biết là ḿnh bị mất tiền. Mỗi
lần mở két, thay v́ lấy nguyên bó, tôi chỉ nhón mỗi
bó một hai tờ. Những bó bạc này mẹ tôi giao cho
khách hàng, thường th́ họ không bao giờ đếm lại
trước mặt mẹ tôi, và sau này nếu có đếm
thấy hụt cũng không sao, chẳng kiện cáo ǵ. Mẹ
tôi bán buôn, làm ăn lớn, khách có biết cũng bỏ
qua, xá ǵ mấy tờ bạc mất lẻ tẻ.
Có tiền tôi ăn tiêu vung vít.
Người bán hàng thấy tôi trả tiền bằng tờ
giấy đỉnh th́ trố mắt nh́n tôi kinh ngạc.
Tiêu cho ḿnh th́ ít nhưng bao mấy thằng du côn th́ nhiều.
Tôi khoái nhất là bỏ tiền thuê bao xích lô nguyên ngày chở
tôi và Viễn đi chơi cùng khắp Hà Nội trên những
con đường rợp mát bóng cây trong tiếng ru râm ran của
những con ve sầu. Hai đứa thủ hai khẩu súng
cao su, bốc nhăn ăn thả dàn rồi dùng hạt nhăn làm
đạn bắn lung tung lên ngọn cây. Nhưng cái thời
"huy hoàng" của tôi không kéo được lâu. Một
bữa mẹ tôi bắt gập tại trận tôi đứng
trước tủ két mở và tước cái ch́a khoá của
tôi. Bà sai anh tôi (h́nh như là anh Triệu) đè sấp tôi ra
trên chiếc sập gụ của bà dùng đuôi chổi phất
trần đét mấy cái vào mông. Tôi giả vờ khóc rống
lên chứ tôi thấy anh tôi đánh cũng nhẹ tay lắm
(chắc hẳn anh nghĩ trong bụng ḿnh cũng chả
gương mẫu ǵ hơn thằng em).
Dịp may đến với mẹ
tôi. Năm 1951, lúc ấy bố tôi ở bên Tàu về Hà Nội
đă được mấy tháng, ông quyết định
vào Sài G̣n lập nghiệp. Đầu tiên bố tôi chỉ
cho chị cả tôi là chị Thư đi cùng. Nhưng mẹ
tôi cứ bắt bố tôi phải mang theo tôi. Đến tận
bây giờ, khi tôi viết những ḍng này, trong gia đ́nh
không một ai biết là mẹ tôi đă cố ư "đuổi"
tôi vào Nam. Tôi rất cám ơn mẹ tôi về quyết định
rất sáng suốt này của bà. Bởi v́ vào Nam tôi trở
thành một con người hoàn toàn khác.
Năm đó tôi mười một
tuổi. Lần đầu tiên trong đời tôi đi phi
cơ. Lại là phi cơ của hăng Air France. Sang trọng
quá! Máy bay đến phi trường Tân Sơn Nhứt, tôi
lạ lẫm đọc cái chữ "Nhứt" và hỏi
chị tôi họ viết như vậy có phải là sai
không. Tôi trố mắt nh́n những căn nhà nhiều từng,
những tên phố tây Pellerin, Charner, Catinat, Pasteur, Richaud ..
và cứ nghĩ là ḿnh đi Tây chứ không phải vào Nam.
Cái ǵ tôi cũng thấy nó văn minh và lạ mắt. Sau này
tôi nghe kể nhiều lần về những ông cán ngố
ngoài Bắc sau năm 1975 vào Nam lần đầu nh́n thấy
thành phố Sài G̣n, tôi nghĩ là họ chắc cũng chỉ
ngố như tôi là cùng. Ba bố con tôi ở chung với gia
đ́nh bác Thụy trong một căn nhà lớn do chính phủ
cấp cho nhân viên sở Bưu Điện (mà bác tôi là tổng
giám đốc) số 12P đường Chasseloup Laubat (sau
đổi là Hồng Thập Tự và bây giờ là Nguyễn
Thị Minh Khai). Đối diện nhà bác Thụy là hai cái
cao ốc 5 từng. Tôi thích trốn sang đó chỉ để
chui vào cái lồng thang máy bấm nút cho nó thăng thiên lên lầu
thượng rồi lại bấm nút cho nó tụt xuống
.. cứ thế .. cho đến khi những ông tây bà đầm
trú ngụ trong cao ốc biết được la lối
om ṣm đuổi tôi đi. Nhà bác Thụy ngăn nắp và sạch
sẽ quá, các anh chị họ tôi nói năng lịch sự,
cư xử quư phái không chửi tục om x̣m như đám
"bạn" tôi ở ngơ Phát Lộc, họ học
trường Tây, khoe tôi những cuốn sách màu đẹp
đẽ Tin Tin, Spiroux, Quatre Frères Dalton .. Xa rồi những
bồ cau khô, mùi cá mắm, hơi diêm sinh và căn nhà, con phố
bẩn thỉu nghèo nàn của thành phố Hà Nội. Xa rồi
mẹ tôi, bà Cẩm Lợi. Xa rồi các anh tôi vẫn c̣n lối
sống "lạc hậu" ở miền đất Bắc
xa vợi kia ..
Lần đầu tiên trong
đời tôi thực sự sống gần bố. Tôi luôn
luôn nh́n ông như ngắm một người lạ. Bởi
v́ cho dẫu tôi có ở sát bên ông, sống cạnh ông nhiều
năm sau này trong đời th́ giữa ông và tôi, và giữa
ông với gia đ́nh, h́nh như luôn luôn có một khoảng
cách. Tôi tự hỏi v́ sao không bao giờ tôi có được
cái cảm giác thật gần gũi với bố như
tôi đă luôn luôn có với mẹ. Nếu có thấy chút nào gần
ông th́ cái gần ấy chỉ trên phương diện tâm hồn.
Bố tôi có gương mặt tây phương, mang nhiều
nét đặc thù di truyền từ bà nội tôi. Ông có một
phong thái hài ḥa rất thanh nhă trong cách cư xử nó cho
người ta biết, chỉ qua dáng ngoài, cái chiều sâu của
con người ông. Bố tôi rất ít nói. Lúc nào cũng thấy
ông lắng nghe với một cái nh́n sâu và đằm thắm.
Ông lại rất chuộng sự yên tĩnh, ngăn nắp
và sạch sẽ. Những ǵ tôi biết về ông khiến
tôi hiểu v́ sao ông sống được và thích hợp
trong một gia đ́nh như bác Thụy và không thể nào sống
bên những bồ cau với mẹ tôi được.
Năm 1954, đất nước
chia đôi, mẹ và các anh tôi lục tục vào Nam. Mẹ
tôi mua căn nhà số 39 chợ An Đông để ở
và lấy chỗ buôn bán. Vào Nam mẹ tôi chuyên bán sỉ cau
khô chứ không bán cau khô lẫn cau tươi như ở
ngoài Bắc. Nguồn cung cấp cau chính của hiệu Cẩm
Lợi là tỉnh Quảng Nam v́ cau là thổ sản của
tỉnh này. Mẹ tôi tiếp tục giao dịch với các
hiệu Phước Xuân, Phước Hiên ở Hội An,
nơi mà bà đă mua bán từ những năm đầu của
thập niên 1940. Vào Nam mẹ tôi lại thêm một thị
trường cung cấp mới là tỉnh Bến Tre. Bà ít
có dịp ra Trung như dạo c̣n ở Hà Nội trước
khi di cư, nhưng bà lại thường xuyên liên lạc
với các bạn hàng ở Bến Tre, đặc biệt
là bà Thái Nguyên, có khi mẹ tôi xuống ở lại đó
nhiều ngày. Nhà của các bạn hàng thường ở miệt
vườn, cách xa thành phố, phải đi ghe xuồng mới
tới. Sau này t́nh h́nh ở tỉnh Bến Tre mất an
ninh, chúng tôi cảnh giác mẹ tôi là các bạn hàng cau ở
tỉnh đó nằm sâu trong mật khu của Việt Cộng
nhưng mẹ tôi không bao giờ tỏ vẻ sợ hăi. Mẹ
tôi không bán cau lẻ. Mua cau khô về, mẹ tôi xấy khô,
đóng bao, và bán lại cho các đại lư, thường là
những người Hoa ở trong Chợ Lớn. Một
trong những đại lư mà mẹ tôi đă giao hảo tốt
đẹp là ông Cơ Tấn. Chúng tôi xem ông Cơ Tấn
như người nhà. Sự giao dịch với ông Cơ Tấn
gắn liền với đời buôn cau của mẹ tôi,
kéo dài từ thập niên 40 cho đến có lẽ sau cả
biến cố tháng Tư năm 75.
Cái sập gụ, tủ chè,
két bạc và cái cân được chở từ ngoài Bắc
vào. Tôi trở về với những bồ cau và làm quen lại
với mùi diêm sinh đă làm tôi ho sặc sụa trong những
năm tháng cũ ở Hà Nội. Cau mốc được
tẩy trắng bằng khói diêm sinh. Trong một ṿng nan cuốn
tṛn, những cái sàng cau lớn xếp chồng nhau ủ
trong vải bố, dưới là cái ḷ nhỏ đốt
diêm sinh, khói xanh từ những kẽ vải bốc ra tỏa
khí độc khắp nhà. Tôi thoát được mấy
năm xa lánh cái không khí bụi bặm ồn ào của chợ
An Đông khi tôi theo chân bố tôi lần thứ hai lên sống
trên Đà Lạt. Mấy năm sống trên cao nguyên với
bố tôi là thời gian thần tiên nhất trong đời
tôi. Năm 1958 khi bố tôi quyết định "xuống
núi" về Sài G̣n làm báo, tôi cũng theo chân ông về sống
với mẹ tôi ở chợ An Đông cho đến tháng
tư năm 1975.
Nghĩ lại tôi thấy tội
nghiệp mẹ tôi vô cùng. Những người con của
bà, trừ anh cả tôi đă sang du học bên Pháp từ hồi
c̣n ở Hà Nội, tuy ở gần bà nhưng không ai giúp bà
đúng mức trong việc buôn bán. Nhà có thuê người làm
cau nhưng họ chỉ cáng đáng những việc nặng
như khuân vác, xấy cau, c̣n việc giấy tờ, sổ
sách, thư từ, mẹ tôi rất cần người
giúp. Mẹ tôi lại chiều con trai nên ngại nhờ con.
Mà đôi lúc có nhờ th́ chúng tôi lại làm với sự miễn
cưỡng, thậm chí c̣n gắt gỏng. Đối với
con gái, nhất là bà chị cả tôi, th́ mẹ con không hợp
tính. Cứ nói chuyện được dăm ba câu th́ hai
người lại căi vă. Chị kế tôi hợp với mẹ
tôi hơn th́ sau này đi Pháp và ở luôn bên đó. May mắn
cho mẹ tôi là trong những năm của thập niên 70 bà
có hai người con dâu ở gần là chị Triệu và
nhà tôi. Mẹ tôi tín nhiệm và cưng chiều hai nguời
con dâu có lẽ c̣n hơn con đẻ. Chị Triệu và
nhà tôi, ngoài việc giúp mẹ tôi trông coi sổ sách và các công
việc buôn bán khác, lại thường ngồi rủ rỉ
tâm t́nh với bà. Đây là điều hết sức quí
đối với mẹ tôi v́ bà rất ít có được
những phút tâm t́nh thân mật như thế đối với
những người con. Tháng sáu năm 2005 vừa qua vợ
chồng tôi qua bên Montreal dự đám cưới đứa
con của anh Triệu tôi, một đêm thức giấc nửa
khuya tôi nghe hai người con dâu của mẹ tôi ngồi
trong bóng tối rù ŕ nói chuyện, hai người nhắc
đến những kỷ niệm xa xưa với mẹ
tôi hồi c̣n ở chợ An Đông trên ba mươi
năm về trước. Tôi nghe được câu nói:
"Mợ đối với con dâu thật không có một
điểm ǵ để chê trách".
Trong những lần giúp mẹ
tôi tính toán sổ sách tôi ngạc nhiên về trí thông minh của
bà. Mẹ tôi thuộc thế hệ xưa không được
đi học nhiều, tŕnh độ có lẽ chỉ ngang
mức tiểu học. Bà viết những câu văn không
thành cú, chữ viết lại nguệch ngoạc như gà bới.
Để tính tiền cau - những con số thành thường
lớn đến mấy trăm ngàn - chúng tôi phải lấy
giấy bút cặm cụi làm những con tính nhân chia. Thế
mà chỉ liếc qua giá thành là bà đă gật gù đồng
ư hoặc bà nói: "Con tính sai rồi, tính lại đi!"
Trăm lần như một mẹ tôi nói đúng! Tôi tự
hỏi với cái trí thông minh ấy cộng với sự
lanh lẹ của bà nếu mẹ tôi ra sinh ra trong một
hoàn cảnh khác hoặc một thế hệ khác được
ăn học th́ tôi không biết là bà sẽ tiến xa đến
đâu.
Mẹ tôi viết thư cho những
bạn hàng cau bao giờ cũng nhập đề bằng
câu: "Tôi có lời hỏi thăm bà được mạnh
khỏe tôi mừng ..". Biết như thế mỗi lần
viết thư cho bà chúng tôi viết sẵn trước, khi
bà vừa đọc xong câu đó th́ chúng tôi nói ngay: "Con
viết xong rồi, mợ đọc tiếp đi!".
Người mà mẹ tôi viết thư giao dịch nhiều
nhất ở Hội An là bà Phước Xuân mà chúng tôi c̣n gọi
là cô Năm Dung. Trong ba mươi năm giao dịch buôn cau
với hiệu Phước Xuân chúng tôi đă viết đến
cả mấy trăm lần câu Kính gửi bà Phước
Xuân .. Tôi có lời hỏi thăm bà được mạnh
khỏe tôi mừng .. Chính tôi đă dán không biết bao nhiêu
con tem để gửi về địa chỉ hiệu
Phước Xuân số 37 đường Nguyễn Thái Học
ở Hội An. Những lá thư đưa tôi về một
thành phố mà từ hồi tấm bé tôi đă nghe nói tới
nhiều lần. Hội An. Làng Cẩm Phô. Họ Nguyễn
Tường. Chốn ấy mơ hồ trong tâm tưởng
tôi như một miền quê hương hư ảo.
Năm 1964, một năm sau
khi bố tôi qua đời, lần đầu tiên tôi có dịp
đến tỉnh Quảng Nam thăm thành phố Hội
An. Cảm tưởng đầu tiên của tôi ra sao nhỉ?
Khi đến một nơi đă được nhắc
nhở hoài trong quá khứ? Thay v́ bắt gặp một quê
hương trong tâm tưởng, tôi bàng hoàng nh́n thấy một
Hà Nội xưa cũ của tôi. Một Hà Nội lồng
vào Hội An trong từng căn nhà, từng con phố. Từ
căn nhà từ đường của ḍng họ ở gần
chùa Cầu tôi rảo bộ trên đường Nguyễn
Thái Học để t́m hiệu Phước Xuân bỗng thấy
ḿnh lạc vào phố Mă Mây vào ngơ Phát Lộc vào những con
phố cổ mà tôi đă ĺa xa mười ba năm trước.
Trên đường tôi đi qua chùa Cầu thằng bạn
cũ Đỗ Bá Viễn vẫn nhỏ bé như ngày nào
giơ tay chào tôi, tôi nh́n lại căn nhà xưa của ḿnh ở
phố Hàng Bè và tất cả Hà Nội từ từ hiện
ra. Rưng rưng. Bé nhỏ. Thân thương. Tôi ra đi
khi tôi c̣n là cậu học tṛ tiểu học, tôi trở về
"Hà Nội" đă là một giáo sư. Mười ba
năm đủ xa để Hà Nội trở thành kỷ
niệm. Đất nước chia đôi càng khiến ngày
về trở thành vọng tưởng, khiến đường
về trở thành thiết tha.
Mấy ngày ở Hội An tôi ở
nhà cô Năm Dung. Người con trai của cô tên là Tinh dẫn
tôi đi chơi thành phố. Chúng tôi đạp xe đến
cửa Đại tắm và ăn đồ biển trong những
quán lá dưới bóng rợp lưa thưa của hàng cây
thùy dương. Chiều đến chúng tôi ngồi trên sân
thượng sau nhà nh́n con đường Bạch Đằng
và ḍng sông Thu Bồn lấp lánh ánh nắng. Bên kia sông nơi
mà suốt đời tôi chưa từng đặt chân tới
có làng Cẩm Phô. Nơi đó mới là chính quê của họ
Nguyễn Tường. Nơi đó mới thực sự
là miền quê hương hư ảo của tôi.
oOo
Bốn mươi năm
đă qua kể ngày tôi đặt chân lần đầu xuống
đất Quảng Nam. Bốn mươi năm sau tôi trở
về Hội An với một tâm cảnh khác. Đă bao
nhiêu nước chẩy qua cầu. Từ dạo đó. Tôi
trở về lần này trên chuyến tàu hỏa mang theo ba
b́nh tro của những người tôi yêu thương nhất.
Đó là bố mẹ tôi và người chị cả. Nếu
đường về quê cũ của bố tôi và người
chị cả từ Sài G̣n đi Hội An tương đối
gần th́ con đường của mẹ tôi đi thật
dài, dài đến nửa ṿng trái đất. Tháng Tư
năm 1981 anh Việt tôi từ bên Pháp trở về Việt
Nam d́u mẹ tôi lên máy bay sang Pháp chữa bệnh. Mẹ tôi
mất ở Paris, cùng năm. Hai mươi năm sau,
năm 2001, cũng vào tháng Tư anh Việt lại ngồi
trên máy bay trở về Sài G̣n nhưng lần này tay anh mang
b́nh tro người mẹ. B́nh tro của ba người
được chôn cất ngày 28 tháng Tư năm 2001 tại
nghĩa trang riêng của họ Nguyễn Tường ở
Hội An.
Cả cuộc đời buôn
cau của mẹ tôi, bà Cẩm Lợi, gắn liền với
chiếc sập gụ. Bà sống trên nó. Bà ngủ trên nó.
Đó là một cái sập quư làm bằng gỗ lim màu nâu
bóng, rắn chắc và chạm trổ. Mặt sập cao
hơn đầu gối của tôi bây giờ. Thuở ấu
thơ ở Hà Nội bàn tay nhỏ bé của tôi thường
mân mê bốn cái chân sập bóng loáng nổi phồng lên phía
trên và eo thắt lại ở phía dưới. Ngón tay nhỏ
bé của tôi thường sờ dọc theo con đường
rănh có trạm những hạt gỗ nổi trông như chuỗi
tràng hạt gỗ màu nâu bóng của mẹ tôi. Cái sập gụ
ấy từ Hà Nội theo mẹ tôi vào Nam. Rồi cái sập
ấy lại từ Sài G̣n theo mẹ tôi sang Pháp. Nay mẹ
tôi trở về Hội An. Cái sập để lại ở
Paris được trưng như một cổ vật
trong pḥng khách của một người chị họ.
Mẹ tôi không cần chiếc
sập gụ ấy nữa. Bà xa rời nó như xa rời
cuộc đời nhọc nhằn. Bà Cẩm Lợi đă
trả xong cái nghiệp mà chúng tôi kính cẩn ghi ơn. Bây giờ
nằm vĩnh viễn bên chồng, mẹ tôi măi măi là bà Tam
của chúng tôi.
Mùa Hạ, năm
2005.
Nguyễn
Tường Thiết
(hoiphunutudo sưu tầm, Billy và KOP chuyển)