Những
Cỗ Quan Tài của Tĩnh Tâm
(DƯƠNG
NHƯ
NGUYỆN)
Đau
đớn thay phận đàn bà
(Nguyễn
Du)
Người
đàn bà đẹp đầu tiên tôi gặp trong đời
là bà ngoại tôi. Khi tôi có trí khôn th́ bà ngoại tôi đă ngoài
sáu mươi tuổi. Ở tuổi đó, người bà
vẫn thẳng, tóc dài gần chấm đất, tuy đă
muối tiêu nhưng vẫn c̣n óng ả, lướt thướt.
Bà có chiếc mũi dọc dừa, g̣ má cao, cặp môi mỏng
và cong, rất hiếm thấy trên những khuôn mặt phụ
nữ thuần túy Việt Nam.
Bà ngoại
tôi pháp danh là Tĩnh Tâm. Tên thật của bà là Hương
Quế. Xứ Huế đă đặt cho đàn bà những
cái tên đẹp lạ lùng: Dạ Khê, Tiểu Bích, Tú Thiềm,
Phiến Tuyết, vân vân.
Mọi
người chung quanh cho rằng bà ngoại tôi là một
người đàn bà khó tính, khắc nghiệt và lạnh lẽo.
Bà có một chứng bệnh không bác sĩ nào chữa
được. Đó là bệnh nóng cổ. Cổ bà nóng và
rát, làm bà ray rứt, khó chịu, ăn ngủ không được,
người đâm bẳn gắt. Bà ngoại tôi rất chiều
con cháu, nhưng hay la mắng, rầy rà gia nhân. Mẹ tôi là
con độc nhất của bà. Gả mẹ tôi cho ba tôi là
người Bắc, bà ngoại tôi luôn luôn mang nỗi buồn
phải xa đứa con một.
Tôi chưa hề
thấy bà ngoại tôi khắc nghiệt hay lạnh lẽo.
Bà ngoại thích coi cải lương, say mê. Nhiều khi xúc
động, khóc sụt sùi. Con người t́nh cảm ấy
không thể nào khắc nghiệt hay lạnh lẽo. Khi bà la
mắng người làm, giọng bà như độc thoại,
buồn như một điệp khúc than thở, không hề
có tính cách đay nghiến của một người chủ
thiếu ḷng nhân. Lúc về già, người độc nhất
mà bà cằn nhằn là ông ngoại tôi. Nhiều khi không duyên
cớ. Ông ngoại tôi người nhỏ bé, tính vui vẻ,
hồn nhiên. Bà con gọi đùa là Lăo Ngoan Đồng
như trong truyện kiếm hiệp. Khi bà ngoại tôi càu
nhàu, ông ngoại tôi chỉ phớt tỉnh, ngồi đọc
báo.
Mẹ tôi kể
cho tôi nghe cuộc đời bà ngoại. Bà chỉ có một
người chị gái. Hai chị em con quan xứ Huế,
gia đ́nh phong lưu trưởng giả. Người chị
gái, bà Ấm, lấy chồng đông con nên vất vả.
Bà ngoại tôi lấy ông ngoại tôi là con quan, được
đủ miếng ăn th́ lại phải chịu những
đau đớn khác.
Ngoài cảnh
làm dâu trong chế độ gia đ́nh phong kiến, bà ngoại
tôi là một người mẹ xấu số. Đẻ ba
con trai đều chết cả ba. Mẹ tôi th́ èo uột,
hay đau ốm. Bà ngoại phải đem cho chùa, đổi
tên, cho thần thánh khỏi bắt đi. V́ không có con trai,
bà phải cưới vợ hầu cho ông ngoại rất
nhiều lần. Mẹ tôi kể có lần bà phải nằm
giường sát pḥng hợp cẩn của ông ngoại và
người hầu trẻ. Ông ngoại tôi là một thứ
"ông phán" phong nhă, hào hoa, có không biết bao nhiêu vợ
hầu vợ lẽ. Không có con trai, bà ngoại tôi phải
nuôi con nuôi, hoặc con trai của những người vợ
hầu. Những người con trai này lớn lên (trừ
người con út) đều phụ công nuôi dưỡng của
bà ngoại tôi mà đi.
Thuở nhỏ
tôi không hiểu được ḷng ưu uất của
người vợ lớn là bà ngoại tôi, cũng như nỗi
cô đơn của bà. Ở tuổi thơ ấu, tôi không
hiểu được căn bệnh nóng cổ của bà.
Mẹ tôi bảo bà tưởng tượng ra bệnh. Tôi
th́ cho rằng bà nóng cổ v́ hay hút thuốc Cẩm Lệ.
Tôi lớn
lên trong ḷng thương và t́nh quyến luyến của bà
ngoại. Có lẽ tôi đă lây tính đa sầu, đa cảm,
hay khóc thương phận người của bà. Tuy trí óc
non nớt, tôi cũng biết bà ngoại là người hay
phiền muộn. Bà thích tôi ngồi coi cải lương với
bà, một điều mà bố tôi cấm đoán. Tôi tự
cho ḿnh là người bạn nhỏ của bà. Tôi tự
nguyện lớn lên sẽ làm cô giáo, mua nhà ở Huế cho
bà ngoại ở.
Tôi nhớ
măi có lần tôi bắt gặp bà ngoại tôi nhỏ lệ,
không phải v́ tuồng cải lương hay v́ giận ông
ngoại nước mắt bà thấm ướt mái tóc dài.
Tay bà run rẩy. Bà kể cho tôi nghe về một h́nh ảnh
mà lâu lâu bà vẫn thấy trong một giấc mộng
đă ám ảnh bà cả đời. Bà dặn ḍ tôi đừng
kể cho ai nghe, kể cả mẹ tôi.
Trong giấc
mộng ấy, bà ngoại tôi, người đàn bà đẹp
xứ Huế mang tên Tĩnh Tâm, ngồi một ḿnh bên một
ḍng sông tĩnh lặng. Có thể là ḍng Hương Giang, có
thể là con sông Bến Ngự, hoặc có thể là khúc sông
chảy qua làng Cồn. Trên ḍng sông, có những cỗ quan tài trôi từ
từ, lặng lẽ. Người đàn
bà ngồi đợi để vớt những cỗ quan
tài.
Giấc mộng chỉ đến đó thôi rồi bà ngoại
tôi tỉnh dậy.
Bàn tay nhỏ
bé của đứa cháu gái là tôi lau nước mắt cho
bà ngoại tuổi ngoài sáu mươi. Tôi không thấy sợ,
chỉ thương bà ngoại tôi nằm thấy ác mộng.
Cơn ác mộng lặng lẽ và im ĺm, không tiếng động.
Càng lớn,
tôi càng nhớ măi về giấc mộng của bà ngoại
tôi. Có lần tôi hỏi, "Ngoại có biết trong quan tài
có ǵ không?". Bà lắc đầu, không nói. Cái lắc
đầu của bà có nghĩa ǵ tôi không rơ. Bà không biết
trong quan tài có ǵ, xác của người thân, xác của
người lạ? Hay là bà lắc đầu v́ không muốn
trả lời câu tôi hỏi.
Tôi vẫn thắc
mắc măi tại sao bà ngoại tôi nằm mộng thấy
quan tài? Tại sao bà mang nhiều phiền muộn? Bà
tương đối là được sung sướng vật
chất và đời sống được bảo đảm.
Trong khi cả nước khổ cực theo chiến tranh,
theo nạn đói năm Ất Dậu, theo cuộc kháng chiến
chống Pháp và những ngổn ngang của lịch sử
th́ bà ngoại tôi vẫn may mắn làm người thiếu
phụ quư phái đất thần kinh.
Năm mười
lăm tuổi, tôi đủ thông minh để phỏng
đoán là những cỗ quan tài trong giấc mộng tượng
trưng cho những cái chết của ba người con
trai bà. Không có con trai là thảm kịch của cuộc đời
bà ngoại tôi. Có thể những cỗ quan tài ấy tượng
trưng cho nỗi đau khổ của bà khi phải chứng
kiến những cái chết của những đứa con
trai nhỏ v́ bệnh sài kinh. Chúng là sự hủy diệt sức
sống và lẽ an vui của đời bà. Không có con trai,
bà sớm mất tư thế trong gia đ́nh. Nghe chuyện,
tôi cảm thấy bất măn cái vô lư, vô nhân của một
xă hội chuyên chế đă gây nên sự đau buồn cho
bà ngoại. Đồng thời, giấc mộng của bà
làm tôi suy nghĩ đến cuộc đời của những
phụ nữ Việt Nam khác trong ḍng họ tôi.
Trái với
bà ngoại tôi, bà nội tôi không có một cái tên quư phái. Bà nội
tôi là con một ông cụ đồ hay chữ. Bà thấp
lùn, mặt tṛn trịa, phúc hậu, tính t́nh đơn giản,
nhu ḿ, không bao giờ bẳn gắt. Lấy ông nội tôi là
người chủ ruộng, bà nội tôi phải làm việc
vất vả, quán xuyến việc đồng áng, nhà cửa.
Rồi hai ông bà bỏ hết của cải, ruộng
vườn di cư vào miền Nam. Lúc mới vào Sài G̣n, bà
tôi phải đi gánh nước thuê, hằng ngày phải dậy
từ ba giờ sáng đi bán xôi rong để nuôi gia
đ́nh cho đến khi bố tôi được bổ
đi dạy. Bố tôi bảo bà nội lùn xủn v́ suốt
đời phải gồng gánh bưng xách. Những gồng
gánh bưng xách đă hủy diệt sức lớn trong
xương cốt của bà từ thuở c̣n là thiếu nữ.
Càng về
già, bà nội tôi càng say sưa kể lể những chuyện
quá khứ ở miền Bắc Việt Nam. Bà là nạn nhân
của tục tảo hôn. Bà bị gả cho một cậu
bé trai lên bảy. Buồn tủi, bà trốn về bên nhà cha
mẹ . Rồi sau, bà lấy ông nội tôi là con nhà địa
chủ. Bà phải làm dâu, cũng phải để ông nội
tôi lấy vợ bé, và phải tảo tần sương
gió. Sinh đẻ cả hơn mười lần, chỉ
nuôi được năm. Trong cuộc chiến tranh Việt
Pháp, người con gái đầu ḷng của bà, cô cả chị
bố tôi, bị tử nạn năm hai mươi tuổi.
Cô cả là người phụ nữ học thức, làm
nghề y tá, nói tiếng Pháp thạo.
Ngày c̣n là học
sinh ở Việt Nam, tôi vẫn suy nghĩ măi, không hiểu
tại sao trong cuộc đời bà nội tôi cũng có những
cái tang đau khổ, những biến cố đánh nặng
vào đầu óc, vậy mà bà nội tôi không mộng thấy
quan tài. Hay là bà nội tôi cũng có nằm mộng đấy,
mà không kể lể, khóc thương?
Chiếc quan
tài ám ảnh tuổi thơ của tôi cùng với h́nh ảnh
những người đàn bà khác trong họ. Tôi có người
cô họ, tên Oanh, năm hai mươi hai tuổi th́ chồng
chết trận. Cô than khóc, vật vă, gào thét, vất vưởng,
mắt lạc thần cả mấy năm sau đó. Trong họ
hay bảo: cô khật khùng v́ đau khổ. Tôi có người
d́ họ, tên Thanh, chồng chết đă lâu. Bà ngồi bán
nón ở chợ Đông Ba, Huế để nuôi con. Đứa
con trai của bà chết trận. Quan tài của con chở về,
bà cũng khóc lóc, vật vă, khật khùng như cô Oanh. Chứng
kiến nỗi đau khổ của họ, tôi vẫn tự
hỏi không biết rồi họ có nằm mộng thấy
những cỗ quan tài trôi lềnh bềnh trên sông như bà
ngoại tôi?
Cũng
năm mười lăm tuổi, tôi đọc cuốn
Phái Thứ Hai (Deuxième Sexe) của nhà văn Pháp Simone de
Beauvoir, t́nh nhân của triết gia Jean Paul Sartre. Trí óc tôi
chưa đủ phát triển để hấp thụ hết
cái thuyết tranh đấu cho nữ giới trong tác phẩm
của de Beauvoir. Nhưng tôi đă đủ lớn không
để nhận thức rằng trong tác phẩm của
nhà văn nữ này, không có cái ám ảnh đau thương
của những cỗ quan tài như trong giấc mộng của
bà ngoại, không có những gồng gánh, bưng xách đến
lùn cả người như trong đời bà nội tôi, cũng
không có những cỗ quan tài bọc cờ và những
cơn vật vă, khật khùng của cô Oanh và d́ Thanh. Những
phụ nữ Âu Mỹ tranh đấu để được
b́nh quyền. C̣n những phụ nữ trong gia đ́nh tôi phấn
đấu để sống c̣n, và sống là sống cho
người chứ không phải cho ḿnh. Tôi tự hỏi tại
sao trên mặt đất này mà những mẫu người
đàn bà được Simone de Beauvoir phân tích là tác phẩm
của trí tuệ và ư thức, c̣n những người
đàn bà thân yêu trong đời tôi là tác phẩm của
nước mắt chảy ngược vào ḷng?
Tháng tư
năm bảy lăm, bố tôi mang vợ con, cha mẹ và
anh em vào phi trường Tân Sơn Nhất để đợi
máy bay sang Mỹ. Dĩ nhiên là ông bà ngoại tôi ở lại
Sài G̣n chứ không thể nào theo con gái và gia đ́nh con rể.
Cuộc ly biệt quá ngắn ngủi, vội vă. Để
tránh xúc động, ông ngoại tôi lánh mặt con gái, con rể,
và các cháu. Mẹ tôi cũng tránh vương vấn chia tay với
ông bà ngoại và tôi cũng thế. Tôi nhớ mẹ tôi gọi
bà ngoại vào trao tay ḥm ch́a khóa thay thế lời từ biệt.
Bố tôi
dùng xe hơi chở gia đ́nh vào phi trường. Không hiểu
v́ sao, tôi t́nh nguyện lái Honda PC theo sau. Tôi nhớ măi h́nh ảnh
bà ngoại tôi đứng ngơ ngác bên cửa sổ sân
nhà, không dám hỏi chuyện để tránh xúc động
khi những người thân của bà đang tíu tít sửa
soạn cho cuộc hành tŕnh vô định. Bà đội nón
lá như lúc đi chợ, tóc muối tiêu búi đàng sau,
đôi mắt buồn như muốn khóc.
Đó là lần
cuối cùng tôi nh́n thấy bà ngoại tôi. Bây giờ tôi
đă lớn, tôi không làm cô giáo. Tôi không ở Huế và bà ngoại
tôi đă chết.
Một buổi
chiều mùa hạ năm bảy chín, tôi theo một người
bạn trai Mỹ làm nghề phó nḥm, muốn chụp ảnh
tôi để "lăng xê" tôi làm người mẫu.
Tôi gọi điện thoại về nhà, th́ bên kia đầu
dây mẹ tôi tức tưởi: "Con ơi, bà ngoại
chết rồi!". Tự nhiên trong bụng tôi đau nhói
như có mũi dao đâm. Tôi không khóc nhưng lần đầu
tiên trong đời, tôi có cảm giác gọi là "đau
như đứt ruột".
Bà ngoại
tôi chết trong đau đớn v́ bạo bệnh mà không
đủ thuốc men. Bà mất đi không một lần
thấy lại đứa con gái thân yêu, con rể, và các cháu
ngoại, nhất là đứa cháu đă chia sẻ những
giọt nước mắt với bà.
Cái chết của
bà ngoại làm tôi thấm thía thêm ư nghĩa "sinh ly tử
biệt". Lần cuối cùng nh́n bà ngoại buổi chiều
tháng tư năm bảy lăm, khi bà tần ngần đứng
bên cửa sổ nh́n con cháu ra đi là ư nghĩa nỗi khổ
"sinh ly". Và tin bà chết ở bên kia bờ đại
dương là ư nghĩa niềm đau "tử biệt".
Tôi tự an ủi nghĩ rằng tôi không phải là người
độc nhất thấm thía cái đau sinh ly tử biệt.
Mà đó là cái đau chung của cả một dân tộc kém
may mắn trên bản đồ thế giới. Nô lệ và
chiến tranh. Một cơn lốc chính trị xoay chuyển
cả nguồn gốc của một văn hóa nghèo, chậm
tiến. Trong phần tư thế kỷ mà hai lần di tản
cả triệu con người, vượt đường
trường, vượt đại dương.
Tôi vẫn tự
hỏi trong thời gian chúng tôi ở Mỹ, và bà ngoại sống
thiếu thốn ở Việt Nam, không biết bà có nằm
mộng thấy những cỗ quan tài trôi sông, và bà có thấy
những ǵ bên trong cỗ quan tài đó ? Điều đó bà
chưa hề hé môi chia sẻ với tôi. Hay với bất
cứ ai, kể cả chồng con.
Năm một
chín chín mươi, tôi có một hồi rảnh rỗi trong
nghề nghiệp để đọc lại văn
chương Việt Nam. Lần đầu tiên, tôi ngồi
đọc hết mấy ngàn câu Chuyện Kiều, để
ngẫm nghĩ về nước mắt, định mệnh,
và sự phấn đấu của cô Kiều, về thân phận
người đàn bà mà Nguyễn Du thương xót như
thương xót chính thân phận tài hoa kẻ sĩ, và nỗi
cô đơn tột độ của người thức
giả:
Bất tri tam bách
dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp
Tố Như
Cũng
năm đó, vô t́nh tôi đọc một truyện ngắn
của bà Bùi Bích Hà, làm tôi nhớ giấc mộng của bà
ngoại. Tôi không biết là truyện có thật hay không? Nhà
văn kể lại truyện của một người
đàn bà Việt Nam đi vớt xác con trên đường
đi vượt biển. Truyện làm tôi bàng hoàng, nhắc
tôi nhớ h́nh ảnh người đàn bà chịu đựng,
ngồi một ḿnh chờ những cỗ quan tài lềnh bềnh
trên sông. Những cỗ quan tài của Tĩnh Tâm.
Tôi đi t́m
một cuốn sách tâm lư giải mộng của Tây
phương. Trong cuốn sách đó, tác giả bảo nằm mộng
thấy quan tài là cảm giác bất an của người bị
đe dọa bởi thiên tai, đại họa, sự trừng
phạt vô cớ của định mệnh, hoàn cảnh, ở
ngoài khả năng và quyền hạn của con người,
không đo lường được.
Cuối
năm đó, có lần tôi ra đứng bên bờ Đại
Tây Dương, ngắm tượng Nữ Thần Tự
Do khi thành phố Nữu Ước lên đèn. Gió lành lạnh.
H́nh ảnh người phụ nữ cầm chiếc
đuốc soi bờ đại dương sừng sững
một ḿnh tự nhiên làm tôi nhỏ nước mắt.
Tôi không biết
ḿnh nhỏ nước mắt v́ ai, cho ai. Tôi đâu dám bắt
chước con người tài tử Nguyễn Du khóc
người ba trăm năm trước để hỏi
người ba trăm năm sau. Có lẽ tôi khóc v́ tôi nhớ
lại cuộc di cư ngày nào. Tôi nhớ đến khuôn mặt
đẹp và ánh mắt sầu muộn của bà ngoại
tôi. Giấc mơ hồn nhiên của tuổi thơ, sẽ
làm cô giáo nuôi bà ngoại ở Huế, tôi đă bỏ mất.
Bà không c̣n chỉ là bà ngoại, mà là h́nh ảnh Tĩnh Tâm,
người phụ nữ sinh trước tôi hai thế hệ.
H́nh ảnh bà mang tôi về tuổi thơ xứ mẹ. H́nh
như tôi khóc v́ trong ḷng tôi cũng mang h́nh ảnh những cỗ
quan tài như trong giấc mộng của Tĩnh Tâm. V́ tôi
mang nặng một nơi chốn đă đi vào tiềm thức
tôi, một nơi chốn mà thân phận đàn bà là tiếng
kêu rên siết trong những tập tục và thành kiến
văn hóa bóp kẹp con người, nơi chốn của
một cuộc chiến tranh tức tưởi, và những
hỗn loạn lịch sử vời vợi thương
đau, đă gây nên sự phá sản, không phải chỉ vật
chất, kinh tế, mà e c̣n lan sang địa hạt tinh thần.
Tôi tự hỏi
có người phụ nữ Việt Nam nào nhạy cảm,
là nạn nhân của xă hội chiến tranh đó, mà không
mang trong ḷng những cỗ quan tài của Tĩnh Tâm? Tôi may
mắn sinh ra trong một thời đại không phải gồng
gánh, bưng xách như bà nội tôi, không phải cưới
vợ hầu cho chồng như bà ngoại tôi, không phải
là nạn nhân của tục tảo hôn, không phải tủi
sầu v́ không có con trai. Tôi may mắn không phải đi vớt
xác con, đi nhận xác chồng, xác con trai như những
người bất hạnh của cố hương đầy
đau khổ.
Tôi tin vào thuyết
tiềm thức tập thể của nhà tâm lư học Carl
Jung. Cho nên tôi đứng đó, đối diện tượng
Nữ Thần Tự Do, bên bờ biển Đại Tây
Dương, là một người đàn bà di dân đến
từ nước Việt Nam nhỏ bé, trước ngưỡng
cửa thế kỷ hai mươi mốt, nhớ đến
hương hồn của bà ngoại và nghe tiếng kêu khóc
của những người đàn bà Việt Nam xấu số.
Tôi đến Mỹ khi c̣n là đứa bé gái hăm hở
trước cuộc đời. Cuộc "di tản"
đă cho tôi lối thoát và cơ hội để áp dụng
sự phân tích của Simone de Beauvoir vào đời sống của
chính ḿnh. Nhưng tôi vẫn nhỏ nước mắt,
hướng về Tây phương và quay lại Đông
phương, thường tự hỏi mỗi nơi sẽ
đem lại những ǵ cho tính nhạy cảm và cái tiềm
thức văn hóa trong tôi. Nước mắt tôi vẫn nhỏ,
cho dù bề ngoài tôi cứng rắn, v́ tôi đă nghe, đă chứng,
đă xót xa trong ḷng về những cỗ quan tài của Tĩnh
Tâm.
Dương
Như Nguyện
Mùi
Hương Quế
(Diễm Kiều Trinh sưu tầm
và chuyển)