Chở
Củi Về Rừng
(Tác giả : Nguyễn Thế Bài)
Tác giả là cư dân
North Carolina, chỉ vừa định cư tại Mỹ
hai năm sáu tháng. Bài viết về nước Mỹ đầu
tiên của ông kể về hoàn cảnh một người
đến Mỹ khi tuổi đă 60, thân mang bệnh tật,
tự chọn cho ḿnh cách sống theo kiểu một loài
chim đầm lầy vùng sông Nile Ai Cập, là "làm vệ
sinh răng miệng cho cá sấu". Sau đây là bài viết
thứ hai của ông.
* * *
Hai hăng ANA của
Nhật Bản và Korean Air của Hàn Quốc được
nhiều người Việt ưa chuộng, khi rời hoặc
về Việt Nam, dù giá vé nhỉnh hơn các hăng khác một
ít, đơn giản là v́ số hành lư kư gửi được
mang theo gấp đôi: bốn thùng năm chục cân Anh,thay
v́ chỉ có hai. Biết bao nhiêu hàng hoá, quà cáp muốn mang
đi hoặc đem về.
Hai vợ chồng
chúng tôi đặt chân lên đất Mỹ vào Ngày Tổng
Thống năm 2011. Phi cảng Dulles rộng mênh mông. Khách
thưa thớt, ngược với sự tưởng
tượng của chúng tôi về một phi trường tấp
nập phi cơ lên xuống và những ḍng người chen
chúc, hối hả. Trời mùa đông u ám, mưa lất phất,
ẩm ướt. Mỗi người kéo chiếc va-li nặng,
vai quàng chiếc xách to quá khổ phải nhiều lần
năn nỉ, giải thích mới được nhân viên
phi trường Tân Sơn Nhất không bắt cân và phải
gửi hành lư kèm chi phí quá trọng lượng không nhỏ.
Chúng tôi nắm
tay nhau đi tới bàn làm thủ tục nhập cảnh,
như để động viên nhau, rằng hăy can đảm
bỏ lại sau lưng quá khứ, những thói quen cũ,
để cố gắng hoà nhập vào xă hội mới,
đất nước mới, nếp sinh hoạt mới
xa lạ và chắc chắn là nhiều thử thách, tin rằng
ba mươi hai năm hôn nhân hạnh phúc (mà hai con trai và con
dâu mới c̣n ở lại Việt Nam, mới mừng kỷ
niệm trước ngày tiễn Bố Mẹ lên đường)
và sự hiện diện của anh em, con cháu, nhất là của
con gái rượu, sẽ giúp chúng tôi trụ lại, đứng
vững và xây dựng cuộc sống mới ở nơi nầy.
Cuộc kiểm
tra hành lư kư gửi phải có: bốn thùng hàng tổng cộng
gần một trăm kí-lô được khui ra. Không có ǵ bất
hợp lệ, ngoại trừ mấy bịch khô ḅ, lẽ
ra bị tịch thu (và sau nầy mới biết là có thể
bị phạt không nhẹ), nhưng có lẽ v́ là Ngày Lễ
Nghỉ, cho nên Cô nữ nhân viên hải quan da đen cảm
thông bỏ qua, sau khi chúc mừng chúng tôi tới nước
Mỹ với nụ cười thật tươi. Thủ
tục nhập cảnh mau lẹ, việc kiểm tra hải
quan có t́nh có lư và không cứng nhắc nguyên tắc, đă khiến
chúng tôi nhẹ nhỏm trong ḷng và bắt đầu thấy
có cảm t́nh với quê hương mới nầy.
Sau khi ghé
"Phở 75" và được Chủ Tiệm vốn
vừa là bà con vừa là thông gia, đăi một chầu phở
trong những chiếc tô mà kích thước khổng lồ
được nh́n thấy lần đầu, chúng tôi theo
anh chị về nhà. Con gái chúng tôi từ Greensboro lên đón
Bố Mẹ, cho biết sẽ ở khách sạn hôm nay và
trở về nhà sáng sớm mai để làm việc. Nó sẽ
đón chúng tôi sau thời gian ở chơi với Cậu Mợ.
Quà cho Anh Chị, con cháu nằm ở túi xách và va-li kéo, cho
nên con gái và chàng rể tương lai chở tất cả
bốn thùng hàng về trước. Và chỉ vỏn vẹn
hai tuần lễ ở nhà anh vợ, chúng tôi nhận ra những
thứ ḿnh lo toan mua sắm nhiều ngày ở Việt Nam, rồi
́ ạch mang theo và giữ ǵn như những báu vật, hoá
ra nhiều thứ đúng là "chở củi về rừng",
trong khi nhiều thứ vứt bỏ lại để sang
đây mua hoặc sắm mới, lại hết sức cần
đến.
Mấy tuần
lễ trước ngày ra đi, là thời gian bận rộn
suốt ngày đêm cho việc lên kế hoạch mua sắm,
theo suy nghĩ và sáng kiến riêng, cũng như theo gợi
ư hoặc nhắn nhủ của con gái, khộng quên tham khảo
kinh nghiệm những người đi trước. Các buổi
tối là thời gian hai vợ chồng và hai con trai cùng nàng
dâu mới thảo luận sôi nổi thứ ǵ nên mua, thứ
ǵ bỏ lại. Những thứ mang theo đại loại
có thể chia làm ba nhóm: thực phẩm, quần áo và thuốc
men. Ngoài những thứ mà con cái cho là "của hiếm"
ở Mỹ như các loại kẹo Thái hoặc đặc
sản của các vùng ở Việt Nam, như bánh xoài, bánh
tráng, bánh sữa, th́ các bánh kẹo mang hơi hướng Âu
Mỹ như sô-cô-la, đều bị loại khỏi danh
sách mua sắm để mang đi. C̣n lại ba nhóm hàng nêu
trên, trong đó không có lư do ǵ mang theo thuốc chữa bệnh
vào một đất nước đứng đầu về
y khoa.
Ngay từ
khi hàng hoá được phép gửi về cho thân nhân, những
lọ thuốc, những chai Tylenol hấp dẫn đă có mặt
ở Việt Nam (mà công hiệu được cho là như
thần, dù chỉ là biệt dược của Acetaminophen
rẻ và đầy dẫy ở Việt Nam), cùng với vô
số loại "vai-ta-min" (vitamin hoặc thuốc bổ,
theo cách gọi của Việt Nam). Lọ dầu xanh Con Ó là
thứ duy nhất được đánh dấu "x",
nghĩa là mang theo, dù đă dùng cả năm, chỉ c̣n một
phần ba và định để lại cho con dâu,
nhưng nó nói Bố Mẹ cần dùng khi cảm lạnh hoặc
đau bụng. Cho tới nay, dầu xanh Con Ó là quà tặng
giá trị không thể thiếu khi Việt kiều Mỹ về
thăm quê hương. Bỏ tiền mua dầu Con Ó hoặc
bất cứ thứ ǵ khác liên quan đến thuốc men,
để mang sang Mỹ, đều là "chở củi về
rừng". Con dâu tôi bảo: "Bố cứ lo ḅ trắng
răng". Không biết nó hiểu câu châm ngôn nầy ra sao!
Chúng tôi vẫn nghĩ lúc trở trời hơi gió hoặc
lúc bị một vài vết thương nhỏ, chỉ cần
ra đầu ngơ mua thuốc men, băng bông cần thiết,
với giá rẻ mạt và có đủ bất cứ thuốc
ǵ ḿnh cần. Hoá ra sự thể hoàn toàn khác! Những
pharmacy độc lập (tiếng là pharmacy - hiệu thuốc,
nhưng luôn bán kèm lắm mặt hàng chẳng dính dáng ǵ với
thuốc) hoặc nằm trong các siêu thị (như Walmart,
K-Mart, ..), th́ chỉ bán băng bông và một số thuốc
cảm và "vai-ta-min". Đụng tới kháng sinh hoặc
các thuốc đặc hiệu chữa bệnh, là phải
có toa bác sĩ và muốn có đơn thuốc, th́ phải
đi khám bác sĩ hoặc của bệnh viện: tiền
khám bác sĩ hoặc tiền bệnh viện luôn là nỗi
ám ảnh của bất cứ người dân Mỹ nào, kể
cả khi được bảo hiểm chi trả đến
80%. Đâu phải bỗng dưng bảo hiểm mở hầu
bao giúp đỡ "free" (miễn phí). Tiền bảo
hiểm, nếu không do công ty, hăng xưởng trích
lương trả, quả là gánh nặng quá sức. Vốn
bị phản ứng với gần như tất cả mọi
kháng sinh, một vài thứ thuốc "hộ mệnh"
hiếm hoi c̣n lại, như Lincocin và Chloramphenicol (thường
gọi là tyfo) lại không thể mua mà không được
bác sĩ khám và kê toa. Lẽ ra tôi phải t́m hiểu kỹ
hơn về y tế Mỹ, chứ không nên có suy nghĩ sai
lầm rằng "đem thuốc sang Mỹ, sẽ bị
người ta cho là thần kinh có vấn đề, là
"chở củi về rừng".
Hầu hết
các thuốc quảng cáo trên truyền h́nh và mua, bán "không
cần toa bác sĩ" (kể cả cá loại giúp "tăng
ham muốn" và "giữ hạnh phúc"), đều
là dược phẩm chức năng, chủ yếu pḥng bệnh
hơn là chữa bệnh. Hệ thống Nuskin - bán hàng
đa cấp, thường bị coi là "cấp dưới
nuôi béo cấp trên" - hoạt động rất mạnh
mẽ, nhất là trong các cộng đồng người
Việt. Một anh bạn khuyến cáo tôi:"khi gặp một
tay "nuskin", phải nhớ may hoặc lấy kim cài
chặt hầu bao lại, kẻo khó ḷng cưỡng nỗi
những lời quảng cáo và mời mọc nghe thật
chí lư, bùi tai và hấp dẫn". Có lẽ nhiều người
đă không biết hoặc coi thường lời khuyến
cáo nầy.
Sau mười
tháng ở Mỹ, vừa nhớ nhà, vừa nôn nóng đón
cháu nội đầu ḷng, chúng tôi về thăm lại quê
hương lần đầu, cũng là lập kỷ lục
sang Mỹ chưa đầy năm đă về Việt
Nam. Trong hai thùng hành lư (hăng United Airlines chỉ cho bằng ấy),
không hề có một viên thuốc nào, bằng không hai đứa
con trai và con dâu sẽ không bỏ qua câu: chở củi về
rừng. Nhưng đúng là chúng tôi vẫn phạm vào điều
ấy, cho dù là v́ thiện ư và t́nh thương: trong hai thùng
và hai va-li kéo to lớn, cùng với hai xắc lèn chặt, phồng
to, hơn một nửa là quần áo đủ kiểu,
đủ màu, dư cho cháu bé mặc tới hai tuổi, thời
gian Ông Bà Nội là chúng tôi, sẽ trở về thăm lại.
Gần một nửa hành lư c̣n lại là bánh kẹo các loại
và một số thực phẩm mà chúng tôi nghĩ là hiếm
quư ở Việt Nam, cho dù hàng ngoại từ hàng chục
năm nay bày bán ê hề khắp những dăy phô, cửa hàng,
siêu thị ở Sàig̣n.
Cả quần
áo đủ cho đứa cháu nội chưa ra đời
mặc vài năm chưa hết, lẫn bánh kẹo và thực
phẩm đắt tiền thứ "xịn", dù mấy
đứa con trai và nàng dâu không nói ra thành lời, nhưng
nh́n cặp mắt và nụ cười cố che dấu của
chúng, vợ chồng tôi không khó nhận ra: chở củi về
rừng! Cái chúng thích là các thế hệ điện thoại
di động đời mới, th́ con gái chúng tôi đă mua
gửi người cầm về trước đó. Bánh kẹo,
trái cây ngoại sắp đầy quầy kệ, tràn ứ
trong các siêu thị, giá rẻ không thua hàng chính quốc. Vô số
thứ từ các nước Châu Âu, Châu Á, .. có t́m mỏi mắt
cũng không dễ thấy ở Mỹ.
Con dâu tôi mở
các lô quần áo và giả vờ kêu lên: "Bố Mẹ xem
nè: cái nầy made in Pakistan; bộ nầy made in China; cái nầy
made in cả ở Việt Nam luôn!". Tệ một nỗi:
không kể hàng gia công phải theo mẫu mă, kích cỡ ấn
định, may bán quần áo cho Mỹ chỉ có một số
"size" nhất định, rất khó phù hợp cho
người dân Việt Nam. Hơn nữa, khí hậu ở
quê hương thay đổi theo mùa và theo vùng miền. Ở
một chốn như Sàig̣n nóng ẩm gần như quanh
năm, sẽ rất dễ gây ngạc nhiên khi thùng th́nh
trong y phục chống lạnh. Không phù hợp hoặc hay
ho ǵ khi muốn ăn diện trái thời trang để
khoe nhà ḿnh có Việt Kiều. Chúng tôi vớt vát vài câu,
như "có thể đem bán cho những người sùng
ngoại rồi mua đồ Việt Nam" hoặc "chọn
đem biếu con cái những mối làm ăn hoặc quà
sinh nhật, đầy tháng, thôi nôi, cũng rất tiện
và sang". Một giải pháp hay và nhận được
100% phiếu thuận. Vợ tôi được dịp hài tội
con dâu, v́ nó đă đem bao nhiêu quần áo của mẹ chồng
để lại cách đó gần một năm, đi biếu
khắp nơi, cũng v́ nghĩ rằng "mẹ sang bên
Mỹ thiếu ǵ qần áo mới, chứ ai lại đi
ăn bận đồ Việt Nam". Nó không biết rằng
đó cũng là suy nghĩ cách đây gần một năm của
bà mẹ chồng, khi bỏ lại tất cả ở Việt
Nam, để rồi sang Mỹ không t́m ra "size" hoặc
chất lượng, kiểu dáng, màu sắc áo quần vừa
ư. Đồ bộ bận khi lo bếp núc hoặc vườn
tược không thể t́m thấy ở Mỹ. Càng khó t́m vải
thích hợp ở đất nước nhập hàng dệt
may từ gần như mọi quốc gia trên thế giới.
Mỗi lần đi "shopping", tới lui mất nhiều
thời giờ chọn cho được một bộ tạm
ưng ư, lại tiếc hùi hụi bao nhiêu quần áo bỏ
lại Việt Nam. Nếu không ngại tiếng "chở
củi về rừng", th́ đă không gặp những
điều dở khóc dở cười!
"Ăn Bắc,
mặc Nam", người ta thường ví như thế.
Dân sành điệu Sài-g̣n (Nam) ăn mặc thời thượng
không thua bất cứ dân tộc nào trên thế giới, kể
cả những "mốt" kinh dị. Người Hà-Nội
lại tinh tế trong ẩm thực. Nói chung, dân miền
Trung chúng tôi, nhất là vùng Nghệ Tĩnh vốn đất
đai nổi tiếng "chó ăn đá, gà ăn sỏi",
luôn chọn "chặt to kho mặn", "ăn chắc,
mặc bền". Người Huế có thể kể là
ngoại lệ: ngày trước, các vua chúa ở Cố
Đô sống nhờ các đặc sản từ các địa
phương trong nước tiến cống, từ ngũ
cốc đến các thứ sơn hào hải vị, chứ
đất Huế cũng rất nghèo. Đất nghèo, của
ăn hiếm, nhưng tâm hồn người Huế giữ
thanh cao, sĩ diện, do vậy luôn t́m cách chế biến
các món hết sức cầu kỳ, đẹp mắt. Dần
dà trở thành văn hoá ẩm thực đặc thù của
Sông Hương Núi Ngự. Dân Nhật Bản hoặc Hàn Quốc
cũng thế: món ăn, thức uống được
nghiên cứu và chế biến công phu, chỉ v́ đất
đai canh tác hiếm hoi và ít màu mỡ, không đủ để
nuôi người dân, trong khi chế độ vua quan, lănh
chúa, Shogun, luôn gây chiến và hưởng thụ. Ngoài Huế
ra, tất cả các vùng Miền Trung, gồm cả Tây
Nguyên, đều nghèo. Đời sống cơ cực, bán
lưng cho trời, bán mặt cho đất, khiến họ
phải tằn tiện và an ủi nhau: ăn để sống,
chứ không phải sống để ăn.
Cha tôi thọ
đúng một trăm tuổi. Cụ vào Nam sum họp với
gia đ́nh giữa năm 1976, tức là măi một năm sau
ngày Miền Nam thất thủ. Cụ bị quy là địa
chủ và tất nhiên bị đấu tố, cho dù hai mẫu
ta ruộng đất (mẫu Bắc Bộ = 3.600 m2; mẫu
Trung Bộ = 4.700 m2) là do Cụ và cả nhà tằn tiện,
dành dụm mua dần mỗi năm một vài sào mà có.
Nhưng bằng ấy đă đủ để chính quyền
cộng sản không cho Cụ di cư vào Nam năm 1954 -
1955.
Năm 1969,
Cha tôi tổ chức vượt biên. Cụ luôn hănh diện
ḿnh là người đầu tiên làm thuyền nhân trốn
chạy chế độ cộng sản. Cuộc vượt
biên thất bại một cách lăng nhách: thuyền chạy tới
Cửa Tùng (Bến Hải), th́ những người trong
đoàn (anh ba tôi và mấy người họ hàng), thấy
trên bờ có ánh đèn điện sáng trưng, đă đề
nghị nghỉ lại một đêm, tắm rửa sạch
sẽ, chuẩn bị cập bến Miền Nam tự do
vào sáng sớm mai, đinh ninh rằng thuyền đă đến
nơi, chứ Miền Bắc làm ǵ có điện đóm
sáng rực như thế. Trời c̣n sương mù, cha tôi
và mọi người đă thấy những họng súng dí
vào người và tiếng hô bắt đầu hàng của
dân quân Vĩnh Linh. Bị trói gô, đánh đập và giải
về lại Hà Tĩnh tống ngục với tội danh
"phản động", cả đoàn mới ngớ
người ra: họ vẫn ở bên kia bờ sông Bến
Hải, phần đất miền bắc cộng sản
và nếu không chủ quan, lầm lẫn tai hại, th́ chỉ
cần vài phút căng buồm, thay v́ thảnh thơi ngủ
nghỉ qua đêm, cha tôi và anh em đă đến được
bến bờ tự do. Câu đầu tiên Cụ nói khi nghe
tin Miền Nam thất thủ: "chạy trời không khỏi
nắng".
Một tuần
trước ngày nhắm mắt từ trần, ra đi một
cách thanh thản, Cụ vẫn thích nhai bắp rang và ăn
cà muối, những trái cà pháo ngâm cả hai ba năm trời
vẫn trắng xoá, tṛn trĩnh, nh́n hết sức hấp
dẫn, nhưng anh em chúng tôi không ai có thể cắn ăn
được, v́ quá mặn. Có lẽ lối sống và
ăn uống ấy đă thành nếp và có tính "di truyền",
ngay cả khi điều kiện kinh tế của chúng tôi
không tồi.
Thức
ăn Mỹ cũng hoặc quá ngọt hoặc quá mặn,
nhưng chẳng thấm vào đâu so với những trái cà
muối của cha tôi. Một tuần trước ngày lên
đường, vợ tôi và con dâu kê một danh sách dài những
hải sản được phép mang theo và cho là sẽ
không có trên đất Mỹ: các loại cá khô, mực khô,
tôm khô, mỗi thứ cả chục kí-lô, được chọn
lựa kỹ càng những loại thượng hạng
(hay được chủ hàng bảo đảm như thế).
Do chưa đi liền, nên ngày ngày phải bỏ tủ lạnh
hoặc đem phơi nắng. Thằng Út lắc đầu:
"Vẫn c̣n một thứ mẹ quên mua và chắc chắn
bên Mỹ không thể c". Nghĩ rằng Thằng Út nói
đến khô ḅ, loại hàng cùng với trái cây, không
được mang vào đất Mỹ, vợ tôi cười
to, tay cầm mấy gói khô mực đưa lên: "Đây
nè, con trai.Vỏ khô mực, ruột khô ḅ". Mấy gói ḅ
khô nếu không phải đúng Ngày Tổng Thống, lễ
nghỉ, khiến cô hải quan dễ thông cảm hơn, e
rằng đă khiến chúng tôi gặp rắc rối.
Nhưng Thằng Út lắc đầu: "Mẹ quên khô
chó! Không có chó, không có khô chó, Bố không trụ lại nước
Mỹ quá sáu tháng đâu". Mỗi tuần ít là một lần,
vợ chồng tôi mua cả đùi chó về nấu các món
theo ư ḿnh. Bạn bè ở Mỹ thỉnh thoảng gọi về
thăm hỏi, biết tôi mê "cờ tây", "nai
đồng quê", luôn đe doạ rằng "sang Mỹ
mà vẫn giữ cơn ghiền thịt chó, th́ sớm
đi tù". Nghe Thằng Út nói vậy, vợ tôi ngẩn
người, tưởng thật, trong khi cả nhà cười
rộ. Con dâu ngưng cười, nói với mẹ chồng:
"Chú Tèo đùa mẹ đấy. Khô ǵ cũng có, trừ
khô chó chưa ai nghe hoặc thấy bao giờ!". Hai thùng
gần năm chục kí-lô lèn chặt những bao, gói
được gọi là hải sản, có thứ
được ngụy trang rất kỹ. Vợ chồng
chúng tôi trân trọng chúng, không chỉ coi như gợi nhớ
quê hương, mà c̣n giúp giữ hương vị cho các bữa
ăn ở trên đất Mỹ.
Cho tới
hôm nay, khi viết những hàng nầy, tôi vẫn không làm sao
ăn được thức ăn Mỹ. Những tháng
ngày nằm bệnh viện, ban đầu đói lả, dù
ngày ba bữa nhân viên vẫn mang thức ăn đến tận
giường, có đủ thứ tráng miệng và nước
uống theo ḿnh chọn và "order" (gọi món) qua
điện thoại. Mỗi bệnh nhân một pḥng, đầy
đủ máy móc và màn h́nh, nhưng đặc biệt là có
"menu" (thực đơn), để bệnh nhân trực
tiếp đọc cho nhân viên nhà bếp ghi hoặc gián tiếp
gọi điện thoại cho nhà bếp. Chỉ nửa giờ
sau khi gọi, bệnh nhân đă được phục vụ
chu đáo. Nhưng lần nào gọi xong và nhận khay thức
ăn, tôi cũng gần như để nguyên, ngoại trừ
mấy lon nước "diet" (chế độ ăn
kiêng) hoặc cà-phê hay là trái cây. V́ thế vợ tôi phải
nấu cơm, cháo và các món Việt Nam ở nhà, rồi
đưa vào bệnh viện.
Đến
lượt các bác sĩ, y tá ngạc nhiên v́ thấy món
ăn Việt Nam đơn sơ, ít thịt, nhiều rau và
luôn có canh. Những thức rau luộc luôn cần nước
mắm, là thứ mùi mà hầu như không có y tá hay bác sĩ
nào quen ngửi thấy. Họ lịch sự rút lui ngay khi
thấy và ngửi phải mùi lạ. Chất nước
(canh, lẩu) gần như không có trong thực đơn hằng
ngày của người Mỹ. Riêng tôi, mỗi tuần nhiều
lần đi ngang qua các cửa hàng fast food, các subway hoặc
các tiệm buffet Mỹ hoặc Mễ, không hề thấy
muốn thử các món bán ở trong đó. Cơm, canh, rau củ
quả, chút thịt heo và cá đă quá đủ cho những
bữa cơm thuần Việt Nam. Ở đây thịt gà
(dù không thơm ngon bằng thịt gà quê nhà) rất rẻ
và thịt ḅ không đắt.
Một anh bạn
quê Kiên-Giang, kể rằng anh có đứa em, từ ngày
sang Mỹ đến nay vẫn lận đận nghèo khổ.
Thức ăn thường xuyên trên bàn là thịt gà. Mỗi
bữa cả rỗ thịt gà. Vợ chồng và bốn
đứa con chăm chỉ ăn hết, chưa hề
nghe than là ngán. Vợ chồng tôi vẫn trung thành với
cơm, cháo và món ăn Việt. Con gái tôi và chàng rể dường
như cũng quen dần, v́ được chúng tôi "tuyên
truyền" rằng thức ăn Việt tuy đạm
bạc, nhưng cung cấp đủ chất bổ, không
gây béo ph́ và tăng cholesterol như thức ăn Mỹ.
Cám ơn các
cộng đồng người Việt, năng nổ và
năng động, đă không chờ đợi lâu khi
đă tạm an cư, để t́m cách du nhập, chế
biến, nuôi trồng các loại lương thực, thực
phẩm khô sống của dân tộc Việt Nam, cho ra những
món ăn Việt chẳng khác nào như đang ở Hà-Nội
với các món phở hoặc chả cá, như đang ở
Huế với các món bún ḅ cay xè, thơm phức, như
đang ở Xứ Quảng với món ḿ Quảng, như
đang ở Nha Trang với món bún cá và đủ loại hải
sản tươi sống hoặc phơi khô. Các món ăn
và ăn chơi thuộc các vùng Đông Nam Bộ, Sàig̣n, Miền
Tây, đều bày bán tại các tiệm ăn, nhà hàng của
người Việt. Muốn chế biến bất cứ
món ăn ǵ, chỉ cần ra các siêu thị Á Châu (chợ Việt
Nam, chợ Hàn quốc, chợ Tàu) là có đầy đủ.
Không hề thiếu bất cứ loại gia vị nào. Lần
nữa, tôi lại "chở củi về rừng"!
Ngoài mấy gói khô mực đắc dụng và đắt
khách lúc ban đầu, v́ có sẵn để đăi anh em, bạn
bè tới chào thăm (về sau nhiều người đi
chơi Cali mua gửi tặng), c̣n các loại "khô"
khác chỉ có vợ chồng tôi ăn. Con gái và con rể
không "quen" dùng, nhất là mỗi khi chiên, nướng,
mùi bay bám nồng nặc. Đến nay, số hải sản
khô các loại đem theo từ Việt Nam vẫn c̣n khá nhiều,
thỉnh thoảng phải đem phơi nắng tránh mốc
meo. Những thứ "khô" nầy, không chỉ vô khối
ở Cali, mà không bao giờ thiếu ở các vùng có cộng
đồng người Việt sinh sống. Thực phẩm
Việt cũng như nghề làm "nail": ở đâu
có người Việt, ở đó có tiệm "nail"
và ở đó có thức ăn Việt!
Chúng tôi
đang dự tính về thăm con cháu vào kỳ Tết tới
đây, khi sức khoẻ c̣n cho phép và khi con gái chưa có
"baby". Chuyến đi Việt Nam và về lại Mỹ
không cần chọn lựa hăng bay và cũng chẳng mất
công, tốn sức mua sắm bất cứ thứ ǵ: từ
bánh kẹo, quần áo cho chuyến về thăm Việt
Nam, cho đến các loại khô hải sản mang theo sang Mỹ
Bài học
"chở củi về rừng" luôn đáng nhớ
cho chúng tôi, cho chúng ta!
Greensboro,
North Carolina, 2013
Nguyễn Thế Bài
(Diễm Xưa sưu tầm và chuyển)