Home | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | LINKS | HU'U~ ÍCH | HU'U~ ÍCH [tt] | HU'U~ ÍCH 1 | HU'U~ ÍCH 2 | HU'U~ ÍCH 3 | HU'U~ ÍCH 4 | HU'U~ ÍCH 5 | HU'U~ ÍCH 6 | HU'U~ ÍCH 7 | HU'U~ ÍCH 8 | HU'U~ ÍCH 9 | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | SUY NGÂM~ 7 | SUY NGÂM~ 8 | SUY NGÂM~ 9 | SUY NGÂM~ 10 | SUY NGÂM~ 11 | SUY NGÂM~ 12 | SUY NGÂM~ 13 | SUY NGÂM~ 14 | CU'̉'I CHÚT CHO'I | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | SU'U TÂ`M TÊ'U | LA./KINH DI. !!! | THÚ VI. | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | DANH NHÂN | TH̉'I SU'. | TH̉'I SU'. [tt] | TÔN GIÁO | TÀI T̀NH

TA.P GHI 14

 

Ba mùa thu

(TU QUANG TTT)

 

 

Từ cuối thập niên 40 tôi rời nơi cư trú ở vùng bất an , về thành phố Huế  ăn nhờ ở đậu, sống bằng việc dạy kèm .

 

Năm 1952 tôi đỗ Tú Tài phần thứ nhất tại Huế  . Năm đó một số trường trung học mới được thiết lập tại nhiều thành phố  . Nghe tin trường Trung Học Vơ Tánh được mở  ở Nha Trang , tôi muốn xin tới đó dạy học , để dành lợi tức , vài năm sau đi học trở lại . Khổ thay , lúc ấy tôi chưa tṛn mười tám tuổi , mẹ tôi lại không đành ḷng thấy con bị gián đoạn việc học. Bởi vậy, tôi không thực hiện được dự tính này .

 

Năm 1955 , đang học tại Saigon , gặp lúc quân chính phủ đụng độ với lực lượng B́nh Xuyên , tôi bị mất trọn áo quần , sách vở . Vô kế khả thi , tôi về Huế xin dạy học . Không đến  được Vơ Tánh khi trường này mới mở, nhưng h́nh như tôi có tiền duyên với loại trường tân lập , nên lần này được bổ nhiệm làm "giáo sư Trung Học Đệ Nhất Cấp khế ước" tại trường Trung Học Thành Nội mở ở Quốc Tử Giám trong kinh thành Huế . Về sau trường đổi tên là Trung Học Hàm Nghi (danh xưng này do tôi đề nghị trong phiên họp giáo sư chọn đặt tên chính thức cho trường, theo chỉ thị của Bộ Quốc Gia Giáo Dục, vào năm 1956).

 

THU HÂN HOAN

Thực hiện đúng  ư định của ḿnh , năm 1958 tôi nghỉ dạy , trở lại theo học ngành Sư Phạm và Văn Khoa . Sau khi tốt nghiệp tôi được bổ nhiệm về chính nơi ḿnh đă chọn lựa ngày trước là trường Trung Học Vơ Tánh ở Nha Trang , phụ trách môn Sử Địa .

 

Đến Nhatrang vào một sáng mùa Thu 1961 bằng đường xe lửa , ḷng tôi rộn ră niềm vui với thiên chức "Nghề Thầy". Tại đây , vị hiệu trưởng vừa là thầy cũ dạy tôi môn toán ở trường Khải Định, vừa là thượng cấp cũ khi tôi dạy học ở trường Hàm Nghi . Đó là giáo sư Lê Nguyên Diệm . Là thầy rồi là cấp điều khiển , cụ Diệm hiểu rơ cá nhân tôi . Từng được thụ giáo rồi được cộng sự với cụ suốt mấy năm ở Huế , tôi cũng hiểu rơ về Cụ . Chuỗi ngày dạy học của tôi ở miền đất duyên hải này trôi qua êm đềm , b́nh thản , phẳng lặng . Bởi yêu mến trường Vơ Tánh, quyến luyến thành phố Nha Trang, tôi từ chối các chức vụ điều khiển giáo dục mấy lần được bổ nhiệm  ở vài địa phương khác . Thích cuộc sống b́nh thản , tôi không gia nhập một đảng phái chính trị nào.

 

Trường Vơ Tánh nói riêng , thành phố Nha Trang nói chung đă để lại trong tôi nhiều dấu ấn đẹp , nhiều kỷ niệm trân quí : thân ái với học sinh , giao hảo cùng phụ huynh , ḥa đồng với đồng nghiệp . Ngoài thời gian phục vụ ở nhiệm sở Vơ Tánh , tôi được nhiều tư thục ưu ái kêu gọi hợp tác , mỗi trường một số giờ hàng tuần : Hưng Đạo , Văn Học , Hàn Thuyên , Văn Hóa Quân Đội .. Qua mỗi niên khóa , tôi hân hoan  trang trải tâm t́nh cùng các thế hệ đàn em về niềm  tự hào của  lịch sử tổ quốc , về gương sáng của các đấng tiền nhân , về những cuộc chiến đấu cam go hào hùng để bảo tồn nền tự chủ của đất nước ;  chia sẻ cùng giới trẻ những buồn vui qua quá tŕnh dựng nước , giữ nước  chống xâm lược từ các phương Bắc , phương Tây . Với tôi , lịch sử phải được sử dụng làm sống lại quá khứ một cách trung thực , khẳng định niềm tự hào dân tộc , đề cao t́nh yêu quê hương , t́nh yêu Tổ Quốc . Lịch sử không thể bị bóp méo nhằm mục đích tuyên truyền phục vụ một phe phái chính trị nào .

  

Thu đau xót

Chọn Nha Trang làm nơi định cư  sống trọn cuộc đời, tôi dự tính sẽ xin nghỉ hưu trước hạn tuổi 55 để đọc sách , nghiên cứu, học hỏi thêm thật thấu đáo rồi viết lách .

Cuộc sống đang b́nh thản trôi xuôi như một ḍng suối mát , đột nhiên phũ phàng va chạm một trở lực khó thể vượt qua .

 

C̣n ǵ xót xa hơn khi lịch sử không được tŕnh bày thực hiện theo đúng sứ mạng của nó. Quá khứ chiến đấu kiêu hùng bằng xương máu của tiền nhân chống kẻ thù xâm lược truyền kiếp, đă v́ một lư do chính trị , chẳng những không được đề cao mà c̣n bị che giấu , đến nỗi có t́nh trạng người dạy sử không biết tướng Trần B́nh Trọng là ai . Câu "ta thà làm quỷ nước Nam , không thèm làm vương đất Bắc" đă một thời bị không ít kẻ tưởng lầm là luận điệu tuyên truyền chia rẽ Bắc Nam từ một thế lực thù địch!!!

 

C̣n ǵ chua chát hơn khi hào quang chói lọi từ các vĩ nhân xưa như Ngô Quyền , Lư Thường Kiệt , Trần Quốc Tuấn .. bỗng dưng bị lu mờ che khuất đằng sau những ngôi sao huyền thoại thời thượng như súng trường bắn hạ được máy bay rải thảm ,  thân người đủ sức thay giá súng hay lấp lỗ châu mai ..

 

Không thích nghi được với "quan niệm lạ" về sử học , mùa thu 1977  tôi ngậm ngùi rời bỏ căn nhà độc nhất đầy ắp kỷ niệm do chính ḿnh tạo lập trên khu đất tạm chiếm  , xót xa chia tay thành phố biển thùy dương cát trắng hiền ḥa .

 

Trường Vơ Tánh từ ngày thành lập tới nay được tṛn một ṿng hoa giáp 60 năm , nhưng thực sự chỉ hưởng được 23 tuổi thọ (1952-1975) và cá nhân tôi chỉ được sống với trường vỏn vẹn 15 niên khóa  (1961-1975).

 

Hân hoan đến Nha Trang bằng đường sắt vào một sáng thu thơ mộng rồi ngậm ngùi rời Nha Trang bằng đường thủy vào một đêm thu se lạnh hạ huyền.

  

Thu ngm ngùi

Cả gia đ́nh tôi do định mệnh an bài , cùng đi  du học tập thể ngoài ư muốn tận một quốc gia miền Bắc Mỹ châu .

Hơn ba thập niên qua , tôi cật lực vật lộn với cuộc đời . Từ một nhà giáo gần hai mươi năm trong nghề, tôi quay trở lại đời sống một sinh viên mà các giáo sư giảng dạy có đôi người ngang tuổi em , tuổi cháu .

 

Từ một người dạy sử  tôi trở thành chuyên viên kỹ thuật kiểm phẩm ngành chế tạo máy bay rồi máy giấy . Sống nhờ vả xứ Gia Nă Đại nhưng lại đi làm thuê cho công ty người Phần Lan . Đinh mệnh thật trớ trêu kỳ lạ !!!

 

Thành phố Montréal của  "Canada đất lạnh t́nh nồng" đă cưu mang gia đ́nh tôi trong hơn ba thập niên qua . Tôi sống nơi đây lâu hơn bất cứ nơi nào trên quê hương mẹ . Mỗi độ thu về , nh́n rừng lá đổi màu , ngắm di điểu từng đàn bay về phương nam trốn lạnh , tôi  nghẹn ngào thấy tóc ḿnh pha thêm sắc trắng , để đêm đêm ngậm ngùi "cử đầu vọng minh nguyệt, đê đầu tư cố hương" .

 

Ba mùa thu đặc biệt đi qua đời tôi : thu 1961 hân hoan , thu 1977 đau xót và thu 2011 ngậm ngùi .

 

Chiều thu nay , một ḿnh trên ghế đá công viên, ngắm lá phong úa vàng tơi tả rụng , tôi mường tượng thấy lại những cánh lá  bàng xào xạc rơi trên đường làng quạnh quẽ ở quê nhà. Tôi ngẩn ngơ mơ ước một mùa thu thứ tư sẽ đến theo chu kỳ vần xoay của lịch sử trong tiến tŕnh tạo vật biến thiên để có một ngày đẹp trời  được trở lại nơi xưa . Ngày ấy tôi về , không phải để thỏa măn ham muốn những lạc thú riêng tư , cũng  không phải để phô trương với bạn bè giúm kiến thức thô thiển học hỏi ở xứ người hay khoe khoang với xóm giềng chút tiện nghi vật chất lượm nhặt từ đất khách , mà là để trả về cho Việt Nam , cho Nha Trang , cho đất nước ..  một h́nh hài , một tâm hồn từ bao lâu nay đă và đang miệt mài  đi kiếm t́m cái mục tiêu thiêng liêng cao quí nhất trong đời , mục tiêu đó chính là "t́nh quê hương , t́nh dân tộc , t́nh người " .

 

Montréal , Thu 2011

Tuệ Quang Tôn-thất Tuệ

 

 

Thu nhớ

 

Nắng chếch mây nghiêng đối cảnh hồ,

Chiều thu viễn xứ vọng thành đô.

Sông Hương nước biếc giờ đâu nhỉ!

Hồ Tĩnh sen hồng nay ở mô?

Mấy độ thăng trầm c̣n luyến nhớ,

Bao phen tang hải vẫn mong chờ.

T́nh quê xao động lan trong gió,

Trời nước buồn tênh sóng nhấp nhô.

 

Hồ Champlain ,Venise en Québec.

Tue Quang TTT

26 / 9 / 2002

 

 

Thu muộn

 

Vẫn chửa khai thông được lối về,

Nỗi buồn ray rứt chấn sơn khê.

Thềm hoang sớm nắng ngồi thương nước,

Bến vắng chiều mưa đứng nhớ quê.

Rộn ră muôn người vui hỉ lạc,

Âm thầm một kẻ nghẹn đau tê.

Không gian vừa chuyển sang thu muộn,

Lá úa vàng rơi rụng bốn bề.

 

Tuệ Quang TTT

 

 

 

                                                            Nỗi buồn

 

                                                            Ngơ ngác chiều thu lạc xứ người,

                                                            Ḷng buồn da diết tỏ cùng ai!

                                                            Nhớ về xóm cũ thêm chua xót,

                                                            Nghĩ tới thôn xưa  luống ngậm ngùị

                                                            Đau thấy quê hương c̣n thống khổ,

                                                            Thương nh́n vận nước măi chơi vơị

                                                            Tâm t́nh lai láng hồn thơ nghẹn,

                                                            Tri kỷ t́m đâu để ngỏ lời !

 

                                                                    Montréal , 13/10/2005

                                                                       Tuệ Quang TTT

 

Thu chiếc bóng

 

Mấy chục năm rồi, lâu thế a!

Đường về kiếm măi vẫn chưa ra.

Xứ người bao độ tê gan ruột,

Đất khách từng phen buốt thịt da.

Xóm cũ thôn xưa đành cách trở,

Thân bằng quyến thuộc phải chia xa.

Công viên lá đổ mùa Thu tới,

Chiếc bóng âm thầm ta với ta!

 

Montréal, 31/8/2009

Tuệ Quang

 

Buồn Thu

 

Thu len lén đến bên thềm,

Lá vàng xào xạc từ đêm nguyệt rằm.

Thu buồn từ cơi xa xăm,

Từ thuyền tách bến biệt tăm quê nhà .

 

Mái đầu từ tuyết sương  pha,

Phiêu linh từ độ bôn ba nẻo đời.

Bềnh bồng như áng mây trôi,

Mảnh hồn du tử xứ người lênh đênh.

 

Nghe chừng giữa cơi buồn tênh,

Dạt dào biển hận mông mênh thành sầu .

Ngh́n năm sau, vạn năm sau

Phải chăng vẫn măi một màu thu xưa!

 

Lá vàng xuyên lớp bụi mưa ,

Gió khơi ư nhạc, nàng thơ gọi t́nh.

Niềm vui nào rất mong manh,

Nghe chừng ước vọng tan thành hư không.

 

Giữa thăm thẳm của ngh́n trùng,

Gót chân rong ruổi măi không hẹn về !

Đă quên chăng những hẹn thề,

Thu không bát ngát trời quê hướng nào ?

 

Đàn ngỗng trời bay về đâu ,

Bỏ quê hương có nghẹn ngào hay chăng!

Thân ta rốt cũng cầm bằng,

Lênh đênh một cánh lá vàng chiều thu .

 

Thu 2011

Tuệ Quang T.T.Tuệ

 

 

   Đong từng nỗi đau

 

                                                            Nghe chừng đến độ thu tàn,

Theo nhau từng chiếc lá vàng rụng rơi.

 Mây giăng giăng kín khung trời,

Rồi tách xa chẳng một lời chia tay.

 

                                                            Từ ta lưu lạc chốn này,

Lẻ loi sống những tháng ngày cô đơn.

                                                            Hiên ngoài gió lộng từng cơn,

Trong hoang sơ thấy cơi hồn lâng lâng.

 

                                                            Lá vàng ĺa bỏ cội nguồn,

Trong ta trĩu nặng nỗi buồn tha hương.

                                                            Tháng ngày thương nhớ vương vương,

Ngồi đây nuối tiếc quăng đường xa xưa.

 

                                                            Giữa chiều thu lạnh gió mưa,

Rưng rưng chiếc lá ngẩn ngơ ĺa cành.

                                                            Mới hôm nào lá tươi xanh,

Muôn chim đua hót chuyền cành nhởn nhơ.

 

                                                             Giờ đây trời đất thay mùa,

Cây trơ trụi lá c̣n thừa dăm ba ..

                                                            Biết bao nhiêu bạn bè ta,

Không lời giă biệt đành xa nhau rồi.

 

                                                            Để ta riêng một góc trời,

Sống lênh đênh nốt quăng đời mênh mông.

                                                            Thân như chiếc lá cuối cùng,

Giữa chiều quạnh vắng đong từng nỗi đau.

 

                                                                      Tuệ Quang Tôn-thất Tuệ

                                                                                Montréal, 2008

 

Vườn xưa

 

Vườn xưa thoảng nhẹ hương lan,

C̣n nghe vang vọng tiếng đàn đêm mưa.

Ngọt ngào thay tiết điệu xưa,

Chỉ dư âm, cũng đủ vừa hoài mong.

Thuyền t́nh từ độ sang sông,

Người đi chất nặng khối ḷng tương tư.

Đường xa cát bụi mịt mù,

Gót phiêu bồng những chiều thu ngập ngừng.

Nghe ḿnh thương nhớ rưng rưng,

Trong tâm tư dậy điệp trùng tứ thơ.

Tháng năm ḷng những ước mơ,

Cánh buồm ngày cũ tách bờ lầm than.

Hăm lăm năm trót muộn màng,

Xa xôi mấy vẫn vô vàn nhớ nhung.

 

Tuệ Quang , 07/9/2000

 

Cảm thu

(Gởi bạn bè Khải Định, Huế )

 

Thu đă sang rồi  bạn ở đâu!

Nơi đây cây lá chớm thay màu,

Ḿnh ta thơ thẩn trên đồi vắng,

Để gởi hồn về thương nhớ nhau.

 

Thu đă sang rồi  bạn biết không?

Ở đây buồn héo cả tơ ḷng.

"Hồ trường" chưa cạn lưng lưng chén,

Mà sóng sầu lên đă điệp trùng.

 

Thu đă sang rồi  bạn có nghe!

Lá thu xào xạc rụng quanh hè.

Có mơ hồ thấy trong tiềm thức,

Tiếng gió trao t́nh qua khóm tre!

 

Áng mây nào lơ lửng tầng không?

Đem niềm thương nhớ  tới mênh mông!

Hồn quê măi đậm màu lưu luyến,

Dù muốn khuây nguôi cũng ngại ngùng.

 

Đồi Mont-Royal , 1980

 

Tuệ Quang TTT

 

      Trăng thu

 

                                                            Lá vội thay màu trời vào thu,

                                                            Đằng xa khói trắng hay sương mù?

                                                            Lắng nghe lá chậm rơi từng cánh,

                                                            Trôi bềnh bồng theo gió lăng du.

 

                                                            Chợt thấy thu sang lá úa vàng,

                                                            Cho niềm thương nhớ bỗng mênh mang,

                                                            Bên kia chốn cũ trăng về muộn,

                                                            Chắc hẳn ḷng ai đó nát tan!

 

                                                            Một thoáng dừng chân ḷng thiết tha,

                                                            Thương về quê cũ tháng năm xa,

                                                            Công viên vắng lặng buồn hiu hắt,

Đối bóng âm thầm ta với ta.

 

Cô tịch đêm nay trăng xứ người,

Thời gian từng phút hững hờ trôi.

T́m đâu thấy dáng mùa thu trước,

Để dệt nguồn thi cảm tuyệt vời.

 

Đêm vẫn mịt mờ trời mông lung,

Không gian th́ bát ngát vô cùng,

Tâm tư chừng thấy nhiều ray rứt,

Khơi dậy niềm đau chuyện núi sông.

 

                                                                                    1996

                                                 Tuệ Quang TTT

 

  

website counter