Home | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | LINKS | HU'U~ ÍCH | HU'U~ ÍCH [tt] | HU'U~ ÍCH 1 | HU'U~ ÍCH 2 | HU'U~ ÍCH 3 | HU'U~ ÍCH 4 | HU'U~ ÍCH 5 | HU'U~ ÍCH 6 | HU'U~ ÍCH 7 | HU'U~ ÍCH 8 | HU'U~ ÍCH 9 | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | SUY NGÂM~ 7 | SUY NGÂM~ 8 | SUY NGÂM~ 9 | SUY NGÂM~ 10 | SUY NGÂM~ 11 | SUY NGÂM~ 12 | SUY NGÂM~ 13 | SUY NGÂM~ 14 | CU'̉'I CHÚT CHO'I | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | SU'U TÂ`M TÊ'U | LA./KINH DI. !!! | THÚ VI. | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | DANH NHÂN | TH̉'I SU'. | TH̉'I SU'. [tt] | TÔN GIÁO | TÀI T̀NH

TA.P GHI 19

   

BUÔN GÁNH BÁN BƯNG

(Trần Mộng Tú)

 

 

"Trăm dân no đủ th́ trẫm lo ǵ không no đủ".

- Trần Thái Tông -

 

H́nh ảnh đẹp nhất của Việt Nam là h́nh ảnh những người buôn gánh bán bưng và những hàng quán bầy bán ngay trên vỉa hè, ngay lối đi trên đường phố, không có một trật tự nào, của cả ba miền Bắc, Trung, Nam.

 

Trong suốt một tháng ở Việt Nam, tôi thích nhất ngắm nghía những quang gánh, xe ba bánh, xe đạp, xe thồ bán hàng trên hè phố. Thích nghe những tiếng rao, tiếng mời chào của người bán hàng. Thỉnh thoảng xen vào đó tiếng một thanh niên mời đánh giầy, một cụ già, hay em bé bán vé số. Không về Việt Nam th́ làm sao được ngẩn người ra mà xúc động trước những h́nh ảnh này. Ta xúc động không v́ ngắm nghía h́nh ảnh, ta c̣n được nghe những mẩu chuyện của đời sống những người buôn gánh bán bưng này. Những người "Tha phương cầu thực" ngay trên chính đất nước ḿnh.

 

Ở Sài G̣n, trong một con hẻm khá sạch sẽ ở khu Tân Thái Sơn, khi chuông nhà thờ đổ bốn giờ sáng, tôi thức dậy, đứng trên hiên của từng lầu hai nh́n xuống. Hai vợ chồng ở nhà đối diện sửa soạn nồi bún ḅ bán ăn sáng. Người chồng lo xếp bàn ghế ra cả lối đi của ngơ; người vợ lo nồi bún. Một mẹt bún cao ngất ngưởng trắng tinh, một mẹt rau xanh ngắt cao không kém để bên cạnh. Ống đũa, ống tăm, chai ớt, hũ mắm, tô chanh cắt miếng, nồi nước lèo tỏa khói lên cao, mùi thơm tung hoành bay trong không gian. Tất cả săn sàng cho người khách đầu tiên. Họ chỉ bán từ bẩy giờ sáng đến chín giờ là hết nồi bún khổng lồ. Đây là chỗ ăn sáng tương đối tươm tất cho người trong xóm ghé ăn trước khi đi làm, giá một tô bún chắc là phải vừa túi tiền với người b́nh dân.

 

Đi xuôi xuống xóm một chút có bà bán bánh cuốn nóng, ngay trước cửa nhà ḿnh. Hàng của bà bầy trên mặt đất. Nồi tráng bánh bên trong, bát, đũa, mắm, ớt trên một cái bàn nhỏ bầy phía ngoài, ghế đẩu năm ba cái, người ăn ngồi chung quanh, chờ bà tráng bánh nóng, ăn ngay tại chỗ. Khách của bà phần đông là các cụ già, ăn cho lành bụng và con nít chín, mười tuổi ăn trước khi đi học. Không ra sớm th́ cũng tám giờ là sắp dẹp hàng. Nhưng đă có hàng rong đang cất tiếng rao chen vào rồi. Xôi, bánh gị, bánh khúc, bánh ḿ, đang được cắp bằng cái thúng nhỏ bên cạnh sườn hay thồ trên xe đạp, bà bán bún riêu, gánh nguyên một gánh, nồi, bát, rổ rá, kĩu kịt trên vai, ghé ngồi xuống đâu cũng được, kéo mấy cái ghế nhỏ mắc ở hai bên quang ra là thành ngay một tiệm ăn lưu động.

 

Vào trung tâm thành phố Sài G̣n th́ cũng không thiếu ǵ hàng quà vặt bầy ngay trên đường Đồng Khởi, Lê Lợi. Bàn thấp, ghế đẩu dành cho Tây Ba Lô và những người địa phương. Du khách Tây,Úc, Nga, Việt Kiều sáng giá cứ việc lách qua mấy hàng quà này, để vào những gian hàng mua bán, hay tiệm ăn, sang trọng đắt tiền. Những gánh trái cây th́ nhan nhản khắp nơi. Nhiều nhất là phía bên ngoài các chợ.

 

Mỗi miền, mỗi gánh quà, mỗi gánh hàng bán rong rau trái, mang một sắc thái riêng. Gánh quà của thành phố Sài G̣n coi tươm tất, đầy đủ hơn cả. Trái cây nặng trĩu, nồi bún, nồi chè trông bắt mắt người ăn. Người bán hàng đon đả mời, giọng nói tự tin, phấn chấn với món hàng ḿnh bán.

 

Ra đến Huế gánh hàng vơi đi thật rơ ràng. Hai cái thúng chỉ có trơ một, hai nải chuối, hoặc mấy mớ rau, mấy củ khoai luộc, trông cũng bé lắm. Người bán hàng ôm ốm, giọng nói nhỏ nhẹ như mấy củ khoai gầy trên cái mẹt thấm nước mưa, cái mẹt cũng tưa ra, không được nguyên lành. Mấy con cá to nhất chỉ bằng cườm tay đứa trẻ lên ba, thoi thóp thở trong cái thau nhôm móp mép, người bán hàng gầy guộc, co ro ngồi dọc bên bờ sông Hương. Thương cho cả con cá lẫn người ngồi bán dưới mưa. Đi xa hơn nữa lên đến B́nh Điền, khu Kinh Tế Mới, cách Huế chừng 20 cây số, th́ chỉ thấy những quán chợ xiêu vẹo, không thấy hàng rong nữa. Nghèo quá, chắc không có ai ăn hàng vặt!

 

Ở Hà Nội, một giờ sáng có tiếng rao "Bánh khúc nóng đây", tiếng rao hàng xa dần, xa dần rồi lẫn vào tiếng xe tải chạy trong đêm. Ngày không biết bắt đầu từ mấy giờ cho những người bán rong, chỉ biết khi tỉnh dậy, xuống đường th́ các hàng quà đă đầy hai bên phố.

 

Hà Nội không biết có phải là nơi hàng rong nhiều nhất Đông Nam Á không? Chỉ thấy chỗ nào cũng có gánh, có thúng, có mẹt. Họ gánh trên vai, cắp ngang hông hay thồ trên xe đạp. Cái xe đạp này ngoạn mục lắm! Ta không nh́n thấy khung, yên, hay thậm chí cả hai bánh xe. Chỉ thấy một người bé nhỏ cầm tay ghi (tay lái) thồ xe đi theo ḿnh. Không thấy thân xe, v́ tất cả một cửa hàng hoa, một sạp trái cây, một tiệm bán bát đĩa, hay hiệu bán quần áo phủ trùm lên cái xe đó. Đôi khi ta đứng ở phía bên kia, ta không nh́n thấy cả người đang thồ xe nữa. Chen vào những người bán thức ăn, hoa trái, quần áo, bát đĩa có những người chỉ có quang gánh với một xấp giấy, báo, thùng cũ xé ra, hoặc quang gánh của một hũ dưa chua, một hũ cà muối, vài miếng đậu hũ.

 

Những bạn hàng ngồi nguyên một chỗ cũng chật vỉa hè, đi đến đâu cũng phải nh́n xuống chân, phải lách hoặc phải đi ṿng xuống đường xe chạy. Ngay trên miệng cống một hàng bánh cuốn có tiếng là ngon, bầy la liệt thúng mủng, bát đĩa, một chậu nước nhỏ đựng nước rửa bát. Hai ba chồng bát đĩa dơ cao ngất ngưởng, chờ nhúng vào đó. Người ngồi, kẻ đứng hân hoan gọi phần ăn uống. Sát đó một tiệm sửa xe gắn máy cứ việc gơ gơ, đập đập, thử đề máy xe. Mùi dầu, mùi xăng xả vào những đĩa bánh và khách ăn mù mịt. Chung quanh những rác là rác. Rác ở đâu ra nhanh thế. Lúc năm giờ sáng, tôi ngó ra đường hai bên phố sạch bong, phu rác đă quét sạch tối qua. Bây giờ mới khoảng chín giờ sáng, đứng giữa phố có thể hát được bài ca "Hà Nội .. rác".

 

Những thanh niên đánh giầy, cũng được coi như người bán hàng rong. Cửa hàng của họ vỏn vẹn một cái túi nhỏ. Trong đó có một đôi dép cao su, kim chỉ, dao kéo, đế giầy và xi đánh giầy. Ai biết đâu c̣n món ǵ quan trọng hơn cho cái tiểu công nghệ này cất ở trong cái túi nhỏ đó. Họ tinh mắt lắm, liếc nh́n rất nhanh xuống đôi giầy họ biết ngay khách là Việt Kiều, là Đại gia (tiếng chỉ những ngưới giầu nổi ở Việt Nam bây giờ) hay là những quan chức nhà nước.

 

 Khi được khách bằng ḷng, họ đưa cho khách đôi dép cao su, cầm đôi giầy của khách lên, đề nghị.

 "Con sẽ làm cho chú một đôi giầy mới, giầy của chú đắt tiền nên c̣n tốt lắm!"

 

Thế là chưa đợi bằng ḷng giá cả (Phần đông người đă bằng ḷng cho đánh giầy không có hẹp ḥi với giá) anh lật ngay đế giầy lên, cắt cắt, khâu khâu, rồi đánh xi. Tất cả không quá 15 phút. Một đôi giầy mới tinh ngay trước mặt khách.

 

 Ông anh cùng đi với tôi, vừa ngắm nghía anh làm vừa hỏi chuyện, anh cho biết cũng như phần đông những người buôn gánh bán bưng ở cả ba miền. Họ đến từ Nam Định, Thái B́nh, Thanh Hóa, Quy Nhơn, Cà Mau, Rạch Giá v.v để kiếm tiền gửi về quê. Do đó mà dân số Sài G̣n, Hà Nội tăng lên vùn vụt. Anh ở Thái B́nh lên Hà Nội, vợ con ở lại quê nhà. Tết anh về quê một lần, v́ ở quê muốn làm cũng không có việc, làm ruộng th́ cũng không có ruộng mà làm. Ruộng của nhà nước chia cho dân theo chính sách "b́nh quân". Tám năm chia ruộng một lần, chia theo số người trong gia đ́nh. Tính theo số sanh và tử trong năm. (Nếu vừa chia ruộng xong mà vợ đẻ th́ tám năm sau em bé mới có phần ruộng. Hoặc có người già qua đời th́ tám năm sau mới bị bớt đi phần ruộng).. Mỗi người được một sào, sào miền Bắc có 360 mét vuông. Trồng loại lúa xấu, lúa không ngon th́ một sào cho 1 tạ 6 lúa, sàng sẩy xong cho ra khoảng 1 tạ gạo (bằng 1 yến =100 cân) Anh nông dân chống cuốc, tính công anh làm cỏ, cầy bừa và tiền mua phân bón cho ruộng tương đương với tiền mang đi mua bấy nhiêu gạo đă làm sẵn. Như vậy nghề nông không có lợi, cho dù anh muốn làm thêm ruộng cũng không có mà làm. Anh bỏ đi lên tỉnh kiếm việc làm khác.

 

 Ban ngày anh đi đánh giầy, chiều đi ăn cơm bụi (cơm gánh vỉa hè) xong về nhà trọ, ngủ một giấc chín giờ tối, đến ba giờ sáng dậy đi làm phu bốc dỡ (khuân vác). Ở đâu thuê, anh đi, bất kể khuân vác nặng nhẹ thế nào. Nếu anh ăn cơm ba bữa với giá mười lăm ngàn một ngày (VN$16,000.- bằng 1 đô) tằn tiện, cuối năm anh có hai triệu gửi về nhà cho cha, mẹ, vợ, hai con nhỏ, hai đứa em tiêu trong một năm.

Anh cười, nói tiếp:

- Nhưng chú ơi, con bốc dỡ, mệt lắm, nhiều hôm đói quá, con phải ăn đến hai mươi ngàn mới đủ.

 

 Chị gánh cam đi bán rong ở phố cổ Hà Nội cũng từ Thanh Hóa vào, chị ngủ ở nhà trọ ngay chân cầu Long Biên. Chị mời:

 -Trời tối quá rồi, cô mua nốt hộ con mấy kí cam, bây giờ con đem về chỗ ngủ trọ, th́ sáng ra ngủ dậy mất trộm hết.

 Tôi hỏi:

 - Chỗ nhà trọ đó, nhiều người các nơi đến ngủ chung buồng à?

 - Vâng, toàn ở quê ra cả. Cứ quây một cái màn chung quanh giường là thành một buồng. Đàn ông riêng, đàn bà riêng, nhà tắm chung. Không cẩn thận th́ cái ǵ cũng mất, mất th́ thôi, chứ có kêu rát cổ cũng không lấy lại được.

 

  Tôi chợt nhớ một câu thơ của Bùi Giáng, khi ông sống lang thang bị người lang thang khác lấy trộm cái gói quần áo của ông.

Những tưởng đầu đường thương xó chợ

Ai ngờ xó chợ chẳng thương nhau.

 

 Tôi mua nốt gánh cam cho chị.

 

 

Một tháng trời, đi qua ba miền đất nước, tôi đă gặp không biết bao nhiêu người "Tha phương cầu thực". Sài G̣n những anh tài xế taxi, những anh phu hồ nói giọng Bắc - Bùi Chu, giọng Hà Tĩnh; Hà Nội những người Nam Định, Thái B́nh, Thanh Hóa vào làm đủ mọi nghề. Đi thăm làng Bát Tràng tôi gặp người đàn bà nắm than cho ḷ gốm, quê ở Bắc Ninh. Tôi tự hỏi như thế có đáng buồn không nhỉ? V́ tôi vừa ở Nam Định về, tôi gặp hai người em họ (Ba chúng tôi cùng chung một cụ nội) Một người giầu nhất Nam Định, cả hai vợ chồng mới qua tuổi 50, làm chủ ba ngôi nhà năm từng, c̣n người kia ngoài 60 vẫn đi đạp xích lô, nghèo xơ nghèo xác.

 

Sài G̣n và Hà Nội luôn luôn có sự tương phản như thế. Ngay bên cạnh ngôi nhà mục nát, chễm chệ một căn hộ bốn, năm từng, cửa sắt, tường hoa. Trước một cửa hàng sang trọng, một gánh hàng gần như chỉ có thúng, mẹt không với một người mặt xanh, má hóp ghé ngồi (Coi chừng bị đuổi bây giờ). Thỉnh thoảng lang thang trên phố một ḿnh, tôi gặp một ông lăo mù, khua chiếc gậy cong queo, hay một em bé đang tuổi đi học, bán vé số; một cụ bà tóc trắng xóa, ngồi nhẫn nại với b́nh trà tươi, mấy chiếc ly nhỏ cáu đen dưới gốc cây, ngay gần miệng cống.

 

Buổi chiều về gặp cô học tṛ thanh nhạc của em tôi (Em tôi dậy dương cầm) cô mới 25 tuổi. Cô nói, cháu muốn đi du lịch bên Mỹ, cháu có tiền kư quỹ 20 ngàn đô, nhưng v́ trẻ quá nên khó đi, bên Mỹ chỉ nhận người già theo diện du lịch.

 

Một cô gái trẻ có ngần ấy tiền, nghe thật lạ lùng!

 

Mỗi năm về một lạ, một khác. Cái lạ, cái khác này không làm ḿnh vui, ḿnh an tâm.

 

Không biết đến bao giờ th́ những người lănh đạo đất nước nhắc lại được câu nói của vị vua Trần đầu tiên :

"Trăm dân no đủ th́ trẫm lo ǵ không no đủ"

 

Câu nói đó thốt lên nghe mà nhỏ lệ!

 

Trần Mộng Tú

 

(@ Internet)



 

 

website counter