Giai thoại
văn chương
(Tác
Giả : Lê Thương)
Giai
thoại là những chuyện hay và lạ
được truyền tụng trong mọi từng lớp
dân gian. Cũng như các truyện cổ
tích, phong dao, tục ngữ, giai thoại cũng
là sản phẩm văn nghệ tiêu biểu cho
tình cảm và nếp sống của một
dân tộc. Nhưng có điều khác hơn,
giai thoại là những chuyện có thật, nghĩa
là xuất phát từ sự thật, từ những
nhân vật có tên tuổi và sự kiện
rõ ràng. Còn giai thoại văn chương
là những chuyện hay, vui, lạ về văn
chương, mang tính chất bổ ích trong việc
xây dựng và phát triển nền văn học
nói riêng và tinh thần dân tộc nói
chung.
Qua
hơn bốn ngàn năm văn hiến, kho tàng
văn học ta có rất nhiều giai thoại văn
chương trong khuôn khổ bài này, người
viết xin kể lại một vài giai thoại
văn chương tiêu biểu hầu cống hiến
quý độc giả để “Mua vui cũng
được một vài trống canh».
Bài thơ con cóc
Nói
đến đề tựa này, chắc hẳn
chúng ta không ai quên bài thơ trong truyện
tiếu lâm chế giễu mấy nhà thơ nọ
khi thấy một con cóc bèn cùng nhau làm
một bài tức cảnh:
Con cóc trong hang,
Con cóc nhảy ra.
Con cóc nhảy ra,
Con cóc ngồi đó.
Con cóc ngồi
đó,
Con cóc nhảy
đi...
Và bài vịnh “Con
Cóc” sau đây của vua Lê Thánh
Tôn nói lên cái khẩu khí của một
vì thiên tử:
Bác mẹ
sinh ra vốn áo sồi,
Chốn
nghiêm thăm thẳm một mình ngồi.
Chép miệng
nuốt ba con kiến gió,
Nghiến răng
chuyển động bốn phương trời.
Đọc bài thơ trên ta thấy
tức cười, đọc bài vịnh dưới
ta thấy cảm phục. Nhưng cảm phục lẫn tức
cười chưa lấy gì bằng bài thơ
“Con Cóc” sau đây của 4 vị quan
nghè đời Tây Sơn.
Chuyện kể rằng sau khi vua Quang Trung
đại phá quân Thanh, triều đình
có tổ chức một cuộc lễ khao quân
để mừng các tướng sĩ thắng trận.
Trong số đình thần có bốn ông tiến
sĩ xin làm một bài thơ ca tụng chiến
công của nhà vua. Ý kiến tâu lên
được nhà vua chấp thuận nhưng đầu
đề và vần phải do nhà vua chọn. Sau
khi suy nghĩ hồi lâu, nhà vua bèn ra đầu
đề “Con Cóc” và lấy vần
“Bàm”. Ra đầu đề và vần
xong, nhà vua lại bắt buộc tất cả bốn
ông tiến sĩ phải đứng xếp hàng một,
mỗi ông làm một câu, hễ ông trước
làm xong bước lên thềm thì ông sau
phải ứng khẩu tiếp ngay, nếu bài thơ
không thành, mỗi ông sẽ bị phạt uống
một tô rượu.
Bốn ông nghè bắt đầu
làm, ông thứ nhất khởi đọc:
Nghiến răng lừng biển Bắc,
Ông thứ hai tiếp theo:
Tắc lưỡi dậy trời Nam.
Hay! Hay! Hai câu này thật là
hay, đúng là con cóc lại ngụ ý
nói lên được cái chiến công
oanh liệt của vua Quang Trung đại phá 29 vạn quân Thanh ở
Thăng Long do vua Chiêu Thống dẫn đường
sang và đánh chìm 500 chiến thuyền của
quân Xiêm ở Kinh Xoài Mít tại miền
Nam do chúa Nguyễn Ánh cầu viện về. Kể
ra không kém gì câu: “Chép miệng
nuốt ba con kiến gió. Nghiến răng chuyển
động bốn phương trời” của vua
Lê Thánh Tôn.
Nhưng đến ông thứ ba mới
là khổ! Phải làm sao cho ông thứ tư
còn lấy được vần “Bàm”, nếu
không, mang danh là tiến sĩ mà để bị
phạt uống một tô rượu thì nhục
lắm. Bởi nghĩ thế nên ông ta mới buộc
lòng ứng khẩu đọc tiếp:
Ấy nó là con cóc,
Thế rồi ông thứ tư đọc
luôn:
Chẳng phải quả bàm bàm.
Khi đọc xong, ai nấy cũng đều
ôm bụng cười, kể cả nhà vua:
Nghiến răng
lừng biển Bắc,
Tắc lưỡi
dậy trời Nam.
Ấy nó
là con cóc,
Chẳng phải
quả bàm bàm.
Thật ra, hai ông sau không phải
là kém tài hay làm thơ dở mà
chính đó mới là hay, là sát nghĩa
vì cái “dễ làm” thì hai ông
trên đã “hứng” mất rồi. Cái
khó là làm sao phải gieo được vần
“Bàm” mà không bị
khổ độc, nên hai ông tiến sĩ sau
đành phải ứng khẩu một cách
“nôm na”như vậy.
Sao
mày đối thiếu một chữ?
Trong các bậc văn nhân tiền
bối nước ta như các cụ Mạc Đĩnh
Chi, Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh, bà
Đoàn Thị Điểm đều nổi tiếng
thông minh, văn hay chữ tốt khi còn nhỏ
và làm cho mọi người nể phục.
Nhưng kỳ lạ hơn hết, thật
không ai bằng cụ Trạng Vũ Công Duệ,
người làng Trình Xá, tỉnh Sơn
Tây, mới ngoài 20 tuổi đã đỗ Trạng
Nguyên làm quan đến chức Đô Ngự
Sử cuối đời nhà Lê. Tính khí
của cụ rất cương trực khiến các
quan văn võ đều nể sợ. Khi nhà Mạc
cướp ngôi nhà Lê, cụ cương quyết
không theo phe nghịch thần, cụ mắng chửi Mạc
Đăng Dung thậm tệ rồi ôm ấn nhảy
xuống cửa Thần Phù tự tử chết.
Thuở nhỏ Công Duệ nhà rất
nghèo, một hôm cùng mấy bạn đồng
lớp trên đường đi học, Công Duệ
lấy đất sét nặn thành con voi, bắt bốn
con cua làm chân, bắt hai con bướm làm
tai, bắt một con đỉa làm vòi. Thành
ra con voi bằng đất sét biết đi, biết
vẫy tai và co vòi lên xuống.
Lúc đó một vị quan
đang cưỡi ngựa đi qua thấy lạ liền
dừng ngựa lại xem. Sau khi hỏi Công Duệ một
vài câu, thấy Công Duệ đối
đáp trôi chảy chứng tỏ là một
đứa bé có học và thông minh
nên vị quan muốn thử tài mới bảo:
- Mày đã đi học rồi,
vậy ta ra cho câu đối, nếu mày đối
được ta sẽ thưởng tiền cho.
Công Duệ đồng ý và vị
quan ra câu đối như sau:
Đồng tử
lục thất nhân, vô như nhĩ sảo
(Trẻ nít
sáu bảy đứa, không ai hơn mày
khéo)
Trước khi đối, Công Duệ
hỏi vị quan:
- Thế ông là gì đã?
Vị quan trả lời:
- Ta là Lang Trung, mỗi tháng
lãnh hai ngàn thạch lúa.
Quan nói xong, Công Duệ liền ứng
khẩu đối:
Lang Trung nhị
thiên thạch, mạc nhược công...
(Quan Lang hai
ngàn thạch, không ai bằng ông...)
Nghe Công Duệ đối như thế,
vị quan ngạc nhiên mới hỏi:
- Tại sao mày đối thiếu một
chữ?
Cậu bé Công Duệ mỉm
cười, trả lời một cách hóm hỉnh:
- Còn một chữ nữa tôi
để dành, hễ quan lớn thưởng tiền
thật thì tôi đối là
“Liêm”, bằng không thì tôi đối
là “Tham”.
Vị quan nghe nói phải phục
tài bèn móc túi lấy tiền thưởng
cho cậu bé Công Duệ để lấy
được chữ “Liêm”, nên câu
đối thành:
Lang Trung nhị
thiên thạch, mạc nhược công liêm.
(Quan Lang hai
ngàn thạch, không ai bằng ông liêm)
“Nói
láo” qua thi phú
«Nói láo” là đặt
điều, là bịa ra mà nói, là
nói điều không đúng sự thật,
và nói láo là một sự xấu.
Ngày xưa, bầy tôi nói
láo với vua là mang trọng tội. Chiếu theo
luật pháp của các triều đại phong kiến,
nói láo với vua là mang tội “khi
quân” có thể bị xử trảm. Thế
nhưng trong kho tàng văn chương ta có kẻ
dám nói láo với vua và chẳng những
không bị tội mà còn được
nhà vua ban thưởng như giai thoại sau
đây:
Số là, ông Đinh Nhật Thận
hiệu Bạch Mao Am, sinh năm 1815, và mất năm
1860, người làng Thanh Liên, huyện Thanh
Chương, tỉnh Nghệ An. Ông thi đỗ
Đình Nguyên Khoa Mậu Tuất năm Minh Mạng
thứ 19, tức vào năm 1838 dương lịch. Ông
được bổ làm quan ít lâu thì
chán cảnh hoạn trường nên cáo quan về
sinh sống bằng nghề dạy học và bốc
thuốc.
Ông Đinh Nhật Thận là bạn
thân của nhà thơ “ngông” Cao
Bá Quát, vì thế đến đời vua Tự
Đức ông bị bắt giải về kinh vì
bị tình nghi có nhúng tay vào vụ Cao
Bá Quát khởi loạn. Nhưng vì không
có bằng chứng nên được tha. Vua Tự
Đức mến tài ông nên giữ ông ở
lại kinh đô để dạy cho các tôn
thất học.
Khi ở kinh thành, một hôm
ông cùng các quan đại thần được
theo ngự thuyền ngoạn cảnh trên sông
Hương, nhân lúc vua và các quan
đàm luận về đạo đức thánh
hiền, ông có nhắc đến câu: “Quân xử thần tử,
thần bất tử bất trung; phụ xử tử tử,
tử bất tử bất hiếu” (Vua khiến
tôi chết, tôi không chết không trung; cha
khiến con chết, con không chết không hiếu)
và cho đó là một câu chí lý
mà mọi người phải theo.
Nghe ông nói vậy, vua Tự Đức
mới phán:
- Thế bây giờ trẫm truyền
cho khanh nhảy xuống sông này mà chết
đi, khanh có làm không?
Nghe nhà vua phán, các quan ai nấy
đều lo cho số phận của ông vì
không nhảy thì mang tội bất trung còn nhảy
thì chết một cách oan uổng. Thế
nhưng ông vẫn bình tĩnh, lạy tạ
nhà vua xong rồi lao mình xuống sông
Hương. Giòng nước bắn tung tóe, mọi
người đều nghĩ đây là nơi an
giấc nghìn thu của ông Đinh Nhật Thận.
Thế là kết liễu một đời tài
hoa không tội lỗi ...
Nhưng chỉ giây lát sau, hết
dưỡng khí, bị ngộp thở, ông ngoi
đầu lên bơi đến bám vào ngự
thuyền. Vua Tự Đức thấy vậy bèn hỏi:
- Sao khanh không ở dưới
đó mà chết đi còn trở lên
đây?
Ông đáp:
- Thần định ở nhưng vừa
xuống tới đáy sông thì gặp ông
Khuất Nguyên, ông ấy đuổi thần
lên và mắng thần bằng hai câu thơ
như sau:
“Ngã
phùng ám chúa hàm oan nhẫn!
Nhữ ngộ
minh quân nịch tử hà?”
(Ta gặp vua ngu
phải chịu chết oan đã đành,
còn người
gặp vì vua sáng suốt cớ sao lại chết
đuối?)
thần nghe ông ấy mắng
đúng lắm nên phải lên đây
tâu bệ hạ rõ.
Vua Tự Đức nghe qua cả cười,
sai thị vệ đón ông lên ngự thuyền,
lấy quần áo cho thay, rồi đích thân
rót một chén rượu để khen thưởng.
Thưởng cho cái tài ứng phó mẫn tiệp
mặc dù biết đó là một câu
chuyện hoàn toàn bịa đặt, tức
là nói láo.
Đó là nói láo đấy,
nhưng nói láo mà nhà vua phải khen,
các quan phải phục và người đời
sau ca tụng mãi mãi. Lối nói láo
đó không làm hại gì ai mà
trái lại còn tô điểm cho kho tàng
văn học thêm phong phú. Ở đời
đã mấy ai không nói láo, nhưng
đã có mấy ai nói láo có nghệ
thuật để thiên hạ biết mình
nói láo mà vẫn nghe, vẫn phục và
vẫn có thiện cảm!
Dùng
truyện Kiều điều khiển trâu
Giai thoại truyền tụng rằng
có anh thư sinh nọ quanh năm học ở tỉnh
thành, nhân dịp năm cũ sắp hết
được nghỉ học nên về quê ăn
Tết. Đi qua một cánh đồng thấy mấy
cô thôn nữ đang cho trâu ăn vừa cười
đùa vui vẻ, chàng thư sinh liền tẻ
vào đến làm quen. Thấy anh chàng thư
sinh lững thững tiến đến, một cô trong
bọn liền ngâm một câu Kiều:
“Trông chừng
thấy một văn nhân...”
Rồi cô bỏ lửng, chàng
thư sinh hí hửng, vuốt vạt áo the đứng
ngóng nghe câu tiếp theo. Chợt một cô
khác cất giọng:
“Mày
râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”
Tưởng mình được mấy
cô ví là Kim Trọng không dè các
cô cắc cớ lại ví mình với Mã
Giám Sinh nên anh ta vừa thẹn vừa tức. Tuy
nhiên thấy các cô xinh xinh lại ngâm Kiều
mà Kiều là sở trường của
mình, anh chàng liền lên mặt thách thức:
- Chà,
các cô thuộc truyện Kiều lắm đấy
nhỉ?
Một cô nhanh nhẩu đáp:
-
Chúng em quê mùa, ít học đâu
dám khoe tài. Còn anh chắc giỏi Kiều lắm
nên mới hỏi thế chứ gì? Vậy nhờ
anh đọc một câu Kiều bảo con trâu
đang đi ở chỗ kia đứng lại dùm tụi
em xem nào.
Chàng thư sinh hơi chột dạ,
tự nhủ: “Chết chửa, xưa nay mình
có dùng Kiều để điều khiển
trâu bao giờ đâu?” Tuy thế anh ta cũng
tìm được hai câu Kiều và tin chắc
rằng sẽ điều khiển con trâu đứng
lại nên anh chàng mạnh dạn đọc:
“Tần ngần
“đứng” suốt giờ lâu,
Dạo quanh chợt
thấy mái sau có nhà.”
Anh ta cố ý đọc to chữ
“đứng” để con trâu đứng lại
nhưng con trâu vẫn lững thững bước
đi khiến các cô cười ầm. Tưởng
con trâu chưa nghe, anh lại đọc hai câu
khác:
“Trong
vòng tên đá bời bời,
Thấy Từ
còn “đứng” giữa trời trơ
trơ”
Lần này anh thư sinh hét to chữ
“đứng” nhưng con trâu vẫn tiếp tục
đi.
Một cô liền nói:
- Thôi, anh chả bảo nó
được đâu, để em bảo dùm cho.
Đoạn cô ngâm:
“Họ”
Chung có kẻ lại già,
Cũng trong nha dịch
lại là từ tâm.”
Cô đọc to và kéo
dài chữ “Họ”, quả nhiên con
trâu đứng lại ngay. Kế đó, một
cô khác lại thách:
- Bây giờ đố anh bảo con
trâu đi rẽ sang phải đấy?
Bị “xệ” quá, muốn gỡ
thẹn, anh thư sinh liền đọc luôn:
“Nàng rằng:
Phận gái chữ tòng,
Chàng
“đi” thiếp cũng một lòng xin
“đi”.
Chàng thư sinh nhấn mạnh hai tiếng
“đi”, con trâu đi thật nhưng lại
đủng đỉnh đi thẳng chứ không rẽ
bên phải. Anh ta bèn chạy theo con trâu đọc
lại lần nữa như nó cũng cứ đi thẳng.
Chợt nhớ ra một câu khác,
tin chắc lần này thế nào cũng có kết
quả, anh chàng dõng dạc ngâm:
“Rẽ cho
để thiếp bán mình chuộc cha.
Chàng ta cố ý kéo dài
chữ “rẽ”, nhưng con trâu vẫn chậm
rãi đi thẳng khiến các cô lại
ôm bụng cười một lần nữa. Anh
chàng tiu nghỉu, thẹn tím cả mặt. Bấy
giờ một cô trong bọn mới cất giọng
ngâm:
“Một
vùng cỏ mọc xanh rì,
Nước
ngâm trong “vắt” thấy gì nữa
đâu.”
Cô nhấn mạnh chữ “vắt”,
quả nhiên con trâu ngoan ngoản rẽ sang bên
phải. Tiếng “họ” và tiếng “vắt”
là những tiếng mà người miền
quê dùng để điều khiển trâu
bò, “họ” là đứng lại,
còn “vắt” là rẽ sang phải.
LÊ THƯƠNG
(Trịnh Cuối Huôn sưu tầm
và chuyển)