đời nay đọc truyện
người xưa
hỏi xem kim cổ có thừa mấy
tay ???
(TÀNG THƯ CÁC)
Tại Châu Mi,
thuộc Tứ Xuyên có một người họ
Tô tên Tuần, tự là Minh Doãn biệt
hiệu là Lão Tuyền. Ông ta là một
nhà thông thái, có tiếng là học
giỏi cho nên được người thời
đó kính trọng và tôn là Lão
Tô.
Lão Tô sinh
được ba con, hai trai, một gái. Đứa con
trai lớn là Đại Tô, tên Thức, tự
Tử Chiêm, biệt hiệu là Đông Pha.
Đứa con trai kế là Tiểu Tô, tên Triệt,
tự Tử Do, biệt hiệu là Dĩnh Tấn. Cả
hai đều nổi tiếng hay chữ, kinh luân nặng
túi, thi phú đầy lòng. Anh em cùng
đậu Tiến sĩ một khoa làm đến chức
Hàn lâm học sĩ, nổi tiếng nơi triều
đình. Còn người con gái, tuy phận liễu
bồ, song chữ nghĩa cũng không kém.
Nàng tên là Tiểu Muội, tánh hay đọc,
làm thơ, ngoài ra không còn dự vào
công việc gì khác cả.
Năm Tiểu Muội
lên 16, Lão Tô cố kén rể đông
sàng, nhưng lựa mãi mà không có ai
đáng mặt làm chồng cái cô nữ
thi sĩ ấy. Bỗng một hôm, Tể tướng
Kinh quốc công Vương An Thanh sai người mời
Lão Tô sang dinh để uống rượu
chơi.
An Thanh là một
người nổi tiếng bậc đại hiền song
có tánh kỳ dị, hàng tháng không rửa
mặt, giặt áo, do đó Lão Tô cho
là một kẻ “bất cận nhân
tình” và đoán rằng lão này
lúc đắc ý sẽ trở nên một gian
thần phản quốc. Vì thế Lão Tô
đã từng viết quyển “Biệt gian luận”
để châm biếm.
Lão An Thanh vẫn
nuôi hận trong lòng, chờ cơn trả
oán, nhưng về sau thấy hai đứa con của
Lão Tô đều đỗ tiến sĩ, làm
đến chức Hàn lâm học sĩ nên
đổi oán thành thân. Còn Lão
Tô, thấy An Thanh nắm trong tay trọng quyền, nếu
gây chuyện sợ hại đến đường
tiến thủ của hai con mình nên cũng
làm lành trong việc giao du.
Hôm ấy
Lão Tô đến dinh. Tô - Thanh hai người
đang đối ẩm với nhau rất tương
đắc, thì An Thanh khoe rằng ông ta có một
đứa con trai, đọc sách chỉ đọc
qua một lần đã thuộc lòng ngay.
Lão Tô
đang lúc hứng chí, không nín được
bèn nói :
- Hai đứa con
trai tôi cho việc ấy là thường sự, cả
đến đứa con gái tôi, coi qua một lần
sách vở đều nhớ không sót một
chữ nào.
An Thanh nghe nói
mặt buồn dàu dàu nghĩ rằng :
- Như vậy tức
là bao nhiêu tú ký My Sơn đã un
đúc vào nhà họ Tô cả.
Tô lão
nói lỡ lời, trong lòng cũng hối hận,
nên nói thêm qua loa vài câu nữa rồi
cáo biệt ra về. An Thanh sai tiểu đồng
vào phòng học công tử lấy một quyển
vở, thân đệ đến trước mặt
Lão Tô nói :
- Đây
là bài của cháu nó học, vậy hiền
đại nhân chấm xem nếu có chỗ
nào sơ suất phiền đại nhân chỉ bảo
cho.
Tô Lão
không từ chối, cất tập vở vào tay
áo rồi ra về.
Về đến
nhà ông ta cởi áo vào phòng ngủ
khì. Khi tỉnh rượu mới sực nhớ đến
câu chuyện ấy, và nghĩ rằng :
- An Thanh đưa
vở của con trai y cho ta chấm, như thế là
có ý cầu thân. Nhưng làm thân với
người ta không muốn thực là một tai hại.
Tuy nghĩ thế,
Tô Lão cũng lấy vở ra xem, quả trong
đó văn chương tuyệt tác, thật
là một đấng tài hoa. Phúc động
lòng vào tài năng, Tô Lão nảy ra một
ý kiến, muốn thử lòng đứa con
gái mình xem sao, bèn kêu a hườn đến
bảo :
- Bài vở
này của một chàng trai trình đệ ta
phê chấm, nhưng ta bận việc, đưa nhờ
tiểu thư của mi duyệt xem, xem xong phê vào
đó rồi mang ra đây ngay.
Vừa nói,
Tô Lão vừa rọc bỏ cái tên Vương
Nu trên mặt sổ, rồi trao cho a hườn. Liễu
Hoàn, tên con a hườn của Tiểu Muội, cầm
vở đi thẳng vào phòng thuật lại
đúng như lời Tô Lão đã dặn.
Tô Tiểu Muội,
tay cầm bút son, chấm phá một lúc rồi
than rằng :
- Văn
chương tuyệt tác song tú khí phát
tiết đến tận cùng, e khó bề
mà trường cửu.
Bèn cầm
bút son phê trên mặt quyển :
- Tài này
dùng để chiếm đoạt cao khoa có thừa
xong hưởng tuổi trời chẳng đủ.
Tiểu Muội
phê xong giao cho Liễu Hoàn kính trình
thân phụ. Tô Lão thoáng thấy lời
phê của con gái mình, thất kinh, nói :
- Lời phê thế
này nếu An Thanh mà trông thấy thì bất
tiện lắm.
Nghĩ đi nghĩ
lại, Tô Lão xé mặt quyển, đổi
giấy, và viết lại một câu để
làm vừa lòng An Thanh, rồi cho gia đinh đem
sang nhà trả lại.
Chiều hôm
sau, có một sai quan của Vương phủ đến
thưa rằng :
- An tướng
công, vì một tài đức của Tiểu
thơ, nên cho tôi đến đây cậy lời
mai mối, chẳng biết tôn ý ra sao ?
Tô Lão lựa
lời từ chối khéo :
- Tướng phủ
hạ cố cầu thân, tôi đâu chẳng
dám tuân lời, song tiện nữ của tôi
tài sơ, trí thiển, lại xấu xa, không
xứng đáng với công tử đâu.
Sai quan về bẩm
lại. An Thanh thấy mặt quyển đã đổi
giấy, lại từ chối như thế, trong lòng
không vui, song cũng bỏ qua câu chuyện hôn
nhân.
Trong thời
đó, ai ai cũng biết rằng nhà họ
Tô, anh em trong nhà hay dùng văn chương thi
phú mà trêu ghẹo lẫn nhau, cái tiếng
ấy vang dội khắp cả vùng đều biết
tiếng.
Ví dụ
như Đông Pha râu rậm,
Tiểu Muội nhạo rằng :
Khẩu
đốc kỷ hồi vô mịch xứ,
Hốt
văn mao là hữu thanh truyền.
Nghĩa
là:
Mồm
mép nơi đâu không thấy rõ
Bỗng
nhiên râu vẳng tiếng truyền ra.
Tiểu
Muội trán dồ, Đông Pha nhạo
lại rằng :
Vị
xuất đồng trung tam ngũ bộ,
Ngạnh
đầu trên đáo họa đường tiền.
Nghĩa
là:
Trong
sân chưa quá năm ba bước
Trước
cổng đã nhô chiếc trán dồ.
Tô
Đông Pha mặt dài, Tiểu Muội nhạo
rằng :
Khứ
niên nhất điểm tương tư lệ,
Chí
kim lưu bất đáo tư liên.
Nghĩa
là:
Giọt
lệ tương tư xưa chảy mãi
Đến
nay gò má vẫn chưa qua.
Tiểu
Muội mắt sâu, Đông Pha nhạo
lại :
Kỷ
hồi thức lệ thâm nan đáo
Lưu
thuốc uống dương lưỡng đạo truyền.
Nghĩa
là:
Mắt
sâu lệ chảy lau không tới
Linh
láng đôi giòng mãi chẳng thôi.
Các sĩ phu
hay được tin Tướng công An Thanh cầu
hôn bất thành nên tấp nập đem
văn đến cửa nhà họ Tô bán rao ầm
ĩ. Tô Lão truyền bắt bọn cầu
thân xuất tĩnh văn bài đệ cho Tiểu
Muội tự ý lựa chọn người chồng
lý tưởng.
Trong số
bài vở rất đông, nhưng chỉ có một
quyển Tô Tiểu Muội phê :
- Ngày nay tuy
tú tài ngày kia sẽ học sĩ. Rất tiếc
hai Tô đồng thời nếu không hoàng
bàng một thuở.
Tô Lão xem
quyển, biết con gái mình vừa ý,
bèn dở bìa quyển ấy xem thấy đề
tên Tú tài Tần Quán. Tô Lão lập
tức truyền cho bọn gia nhân, hễ thấy
tên Tần Quán đến thì mời vào.
Nhưng khốn
thay, cái gã Tần Quán kia người quận
Cao Đưu đất Dương Châu - tuy tài
cao học rộng - cũng theo đòi thiên hạ,
đem ngọc bán rao, song lại sợ tổn
thương đến danh dự nên không cùng
với mọi người đến ngưỡng cửa
họ Tô chầu chực. Tô lão thấy Tần
Quán không đến, đành sai người
đến ngọ sở tìm đón.
Tần Quán
tuy trong lòng hí hửng muốn chọc ghẹo
khách anh tài, nghe Tô Tiểu Muội tiếng
tăm lừng lẫy, cũng muốn được cầu
thân, song chưa thấy được dung nhan, lại
nghe đồn trán nàng cao như núi, mắt
thẳm tợ sông, trong lòng cũng ngan ngán,
muốn kiếm dịp nào để gặp mặt,
coi hơn thiệt thế nào rồi sẽ định.
Vừa lúc ấy chàng lại nghe tin đúng
ngày mồng một tháng hai Tiểu Muội đến
chùa dâng lễ. Thế là dịp tốt.
Ngày hôm đó thấy Tần Quán dậy
thật sớm, ăn mặc nâu sòng, trá
hình một tăng sĩ du phương, cổ đeo
chuỗi hộc, đầu thắt khăn vải.
Trông vào
gương, chàng ta mỉm cười tự nghĩ :
- Nếu mình
đi tu thật thì chắc làm cho các bà
vãi si mê không ít.
Chàng ta lấy
làm tự đắc cho sắc đẹp của
mình, ung dung bước đến chùa
Đông Nhạc.
Giữa lúc
đó, kiệu hoa của Tiểu Muội cũng vừa
đi đến. Tần Quán trông thấy
nàng, tuy mặt nàng không phải bực
“chìm đáy nước cá lờ đờ
lặn, lỉnh da trời nhạn ngẩn ngơ sa”,
nhưng chứa đựng một cái gì uy nghi,
đoan chính.
Muốn thử
chút tài năng, Tần Quán đứng đợi
dâng hương xong, mới bước đến
nói :
- Tiểu thư hữu
phúc, hữu thọ, nguyện phát từ bi ... (Tiểu
thư có phúc, có thọ, xin mở lòng từ
bi).
Biết chàng
trai kia có ý ghẹo mình, Tô Tiểu Muội
nối lời đáp :
- Đạo
nhân hà đức, hà năng cảm cầu bố
thí ? (Đạo nhân có đức, có
tài gì mà dám xin bố thí ?)
Tần Quán
nói tiếp :
- Nguyện tiểu
thư, thân như dược thụ, bách bệnh
bất sinh ... (Cầu chúc tiểu thư mình
như cây thuốc, trăm bịnh không sinh).
Tiểu Muội vừa
bước đi, vừa quay đầu lại
đáp :
- Tùy đạo
nhân khâu thổ liên hoa, bán văn vô cả
(Dù đạo nhân miệng nở hoa sen, nửa
đồng không có).
Trần Quán
nói thêm :
- Tiểu
nương tử nhất thiên hoan hỷ, như
hà triết thủ bảo sơn ? (Tiểu
nương tử một trời hoan hỉ, tại sao lại
khép non vàng ?)
Tiểu muội bồi
thêm một câu :
- Phong đạo
nhân điểm địa tham si, ma đắc tùy
thân kim huyệt (Phong đạo nhân lắp đất
tham si, đâu được thâu vào hang bạc).
Đáp xong
câu ấy, Tiểu Muội bước lên kiệu.
Các nhà
sư trong chùa đi theo đưa Tiểu Muội
được nghe các lời đối đáp ấy,
lấy làm lạ, chẳng hiểu tên đạo
nhơn nào, từ đâu đến mà lại
sỗ sàng như vậy. Vừa định quay lại
để trách cứ thì tên đồng tử
đến bên người đạo nhân kia,
kính cẩn nói :
- Xin công tử
về nhà thay áo.
Chờ người
đạo nhân đi khỏi, người giữ
chùa hỏi nhỏ đồng tử :
- Người
đó là ai thế ?
Đồng tử
đáp :
- Đó
là công tử Tần Quán, tự là Thiếu
Du, một danh tài ở đất Dương Châu,
ai ai mà chẳng biết ...
Người giữ
chùa nghe nói thất kinh, đem chuyện ấy thuật
lại với một người trong chùa. Và chẳng
bao lâu, tiếng ấy đồn khắp đó
đây.
Thiếu Du thấy
nhan sắc Tiểu Muội không đẹp nhưng mặn
mà, đem lòng kính mến, liền đến
nhà Tô Lão để cầu thân. Tô
Lão nhận lời. Thiếu Du lập tức đem nạp
đồ sính lễ. Lúc bấy giờ, vào
đầu tháng hai. Tần Thiếu Du nóng
thành hôn, nhưng Tiểu Muội xem văn,
đoán biết khoa thi này, thế nào Thiếu
Du cũng đậu tiến sĩ, muốn rằng vị
tân lang của mình, ít ra ngày hợp cẩn
cũng có bào gấm hia thêu, nên thưa với
Tô Lão xin hoãn cuộc thành hôn lại
đã.
Kịp đến
mồng ba tháng ba, triều đình mở khoa thi
kén chọn nhân tài, Tần Thiếu Du quả
nhiên thi đậu, bảng vàng đề tên.
Khoa thi đã đỗ, Tần Quán lại
càng nóng lòng cưới vợ, vội
vã đến xin làm lễ cưới ngay
ngày hôm ấy.
Tô Lão thấy
chàng rể mình quá bôn bức, cười
xòa, và nói :
- Ngày hôm
nay yết bảng ắt là ngày lành, vậy
ta cho nghĩa tế thành hôn tại tệ xá
trong đêm nay có được chăng ?
Còn gì mừng
rỡ hơn nữa. Tần Thiếu Du lạy tạ đền
ơn ...
Đêm ấy
trời trăng vằng vặc, bầu trời trong suốt,
gieo vào lòng người một tâm hồn man
mác, như muốn giúp cho đôi tình
nhân văn học một nguồn cảm giác xa
xôi. Sau khi dự tiệc,
Thiếu Du toan bước vào động đào
để xem hoa nở, thì thấy cửa phòng tiểu
thơ đóng kín, trước cửa có
để một bàn án nhỏ, đủ cả
văn phòng tứ bửu, lại có thêm ba
phong thơ và ba cái chén : một chén ngọc,
một chén vàng, và một chén bằng sứ.
Thấy con Liễu
Hoàn đứng lấp ló, Tần công tử
tưởng nó chực mở cửa cho mình,
bèn nói :
- Vào báo
cho tiểu thơ biết, tân lang đã đến
sao không chịu ra mở cửa ?
Liễu Hoàn
cung kính đáp :
- Tiện tỳ
tuân lệnh tiểu thơ ra đây để nhắc
cho công tử rõ rằng trên án thư
có ba đề mục, nếu đáp trúng cả
ba, tôi xin mở cửa ngay.
Thiếu Du
nói :
- Ba cái
chén ấy dùng đựng gì thế ?
Nữ tỳ
đáp :
- Chén ngọc
đựng rượu, chén vàng đựng
trà, chén sứ đựng nước lã. Nếu
trúng cả ba đề mục tôi sẽ dùng
chén ngọc dâng ba lần rượu trước
khi mở cửa vào phòng ; nếu chỉ
đáp trúng hai đề mục thì tôi
dùng chén trà dâng một chén nước
để công tử giải khát, chờ đến
đêm mai sẽ lại ; còn nếu đáp
trúng một đề mục thì tôi sẽ
dâng cho công tử một chén nước
lã và phạt ở ngoài hiên đọc
sách ba tháng.
Thiếu Du nghe
xong, trong lòng hậm hực, nhưng không biết
phải làm sao, chẳng lẽ từ chối cuộc
chơi ấy thì còn gì là một trượng
phu, nên gượng cười đáp :
- Nơi chốn
trường thi, ngàn vạn anh tài tranh đoạt,
thế mà ta còn chưa sợ thay, huống chi ở
đây chỉ là một đề thi thử
thách, đâu có đáng kể !
Liễu Hoàn cũng
không vừa, nghe Tần Quán tự phụ như vậy,
vội nói ngay :
- Tiểu thơ của
tôi không thể ví với các khảo quan,
chỉ lôi những sáo cũ ra mà lòe
thí sinh. Ở đây có ba đề mục.
Thứ nhất là bốn câu, công tử phải
trả lời bằng 4 câu thơ ẩn nghĩa của
bài thơ xướng là đúng. Thứ hai
cũng là bốn câu thơ, trong đó
có bốn danh nhân thời cổ, công tử biết
đặng bốn tên ấy, mà trả lời
thì đúng. Thứ ba, đề tài này
dễ hơn, công tử chỉ phải đối một
vế câu đối bảy chữ mà thôi.
Nói xong, Liễu
Hoàn kính cẩn dâng cho Tần Quán một
phong thư. Tần Quán bóc thư ra, thấy bốn
câu thơ viết trên một tờ hoa tiên.
Đồng
thiết đầu hồng dã
Lâu
nghĩ thướng phấn tường
Âm
dương vô nhị là
Thiên
địa ngã trung ương ...
Đồng
thiết quặn lò lớn : ẩn nghĩa chữ “hóa”
Ong kiến
lên tường vôi : ẩn nghĩa chữ “duyên”
Âm
dương không hai đường : ẩn nghĩa chữ
“đạo”
Giữa
trời đất có ta : ẩn nghĩa chữ “nhân”
Thiếu Du xem xong
mỉm cười và nghĩ thầm :
- Theo người
khác thì khó thực, nhưng ta, ta là
người đã giả đạo nhân để
ghẹo nàng trước kia, nay nàng lại
làm một đề thơ có hàm ý chữ
“hóa duyên đạo nhân” thì chẳng
khó khăn gì, ý nàng muốn trêu ta về
câu chuyện ở chùa hôm nọ.
Nghĩ xong,
bèn lấy bút viết bài thơ trả lời
:
Hóa
công hà ý bả xuân thôi
Duyên
đáo danh vên hoa tự khai
Đạo
thị xuân phong chân hữu chủ
Nhân
nhân bất cảm thướng hoa đài.
Nghĩa
là:
Hóa
công sao khéo giục xuân hoài
Duyên
đến vườn thơm hoa tự khai
Đạo
ấy, giờ xuân đà có chủ
Nhân
nhân, ai dám tới hoa đài.
Liễu Hoàn
thấy Thiếu Du viết xong, vội vã tiếp lấy
đem vào trình cho Tiểu Muội.
Tiểu Muội
xem qua mỉm cười nói :
- “Hóa
duyên đạo nhân” ý ! ra cũng giỏi
đấy.
Thiếu Du lại
giở phong bì thứ hai, thấy trong đó cũng
một bài thơ đề :
Cường
gia thắng tổ hữu thi vi
Tạc
bích thâu quang dạ độc thư
Phùng
tuyến lộ trung thường ức mẫu
Lão
ông chung nhật ỷ môn lư.
Nghĩa
là:
Con lại
hơn cha chẳng kẻ bì,
Dục
tường mượn sáng đọc bài thi
Vá
may buồn bã thường trông mẹ
Tựa
cửa lão ông đợi suốt ngày
Câu “Cường
gia thắng tổ” nghĩa là “Tôn Quyền”
“Tạc
bích thâu quan” nghĩa là “Khổng Minh”
“Thường
ức mẫu” nghĩa là “Tử Tư”
“Lão
ông tựa cửa” nghĩa là “Thái Công Vọng”.
Thiếu Du xem xong
lấy bút đền liền bốn tên ấy với
những lời chú giải.
Liễu Hoàn lại
tiếp lấy đem vào dâng cho Tiểu Muội
xem, Tiểu Muội cũng chắc lưỡi khen thầm.
Đã trả
lời được hai đề thi khó khăn rồi,
bây giờ đến đề thi thứ ba là một
câu đối. Thiếu Du thở ra khoan khoái,
tưởng chừng như mình sắp được
vào phòng rồi, mặt mày hớn hở,
bóc đề bài thứ ba ra xem; trong ấy viết
:
Bế
môn, suy xuất song tiền nguyệt
Khi mới đọc
xong, Thiếu Du cho là một vế đối rất
dễ, nhưng lòng anh chàng lúc này
đã quá nóng nảy, ý tứ không
còn tập trung nữa, tâm hồn như đang lạc
loài trong cõi mộng thần tiên, thành thử
nghĩ hoài mà không ra ý.
Giữa lúc
đó Đông Pha chưa ngủ, biết rằng
đêm hợp cẩn thế nào đứa em
gái mình cũng “chơi ác” để
làm khốn vị tân lang, bèn đến gần
khuê phòng nghe ngóng. Vừa đến nơi,
thấy Thiếu Du chắp tay thơ thẩn mãi trong
sân, miệng lẩm bẩm câu :
Bế
môn, suy xuất song tiền nguyệt
Đông Pha mỉm
cười, tự bảo :
- Đúng rồi
! Cô em gái mình đang đưa vế đối
ấy để làm khó dễ vị tân lang của
hắn ; ý muốn giúp đỡ cho Thiếu Du một
chút cho xong chuyện, xong sợ Thiếu Du tự
ái, chẳng biết phải làm saọ
Đông Pha suy nghĩ một lúc rồi lượm
một hòn đá nhỏ ném vào mặt hồ
gần đấy.
Nước trong hồ
đang im lìm trong giấc ngủ, bỗng cau mày,
vừng trăng tan rã ra từng mảnh, nước bắn
vào mặt Thiếu Du.
Như chiêm bao
sực tỉnh, Thiếu Du hội ý, chạy vào
án thư cầm bút đối rằng :
Đầu
thạch xung khai tỉnh để thiên
(Ném
đá vỡ trời tung đáy nước)
Để đối
với câu của Tiểu Muội :
Bế
môn suy xuất song tiền nguyệt
(Đóng
cửa đùa trăng ra trước sân).
Liễu Hoàn vừa
nạp bài thi chót vào cho Tiểu Muội
chưa bao lâu, thì bỗng “kẹt” một
tiếng, cánh cửa “động
đào” mở rộng, một tên tùy nữ
từ bên trong bước ra, tay dâng chén ngọc
đầy rượu và nói :
- Thật là một
đấng tài hoa. Tiểu thơ tôi xin mời
công tử cạn ba chén.
Thiếu Du đắc
ý uống liền. Uống xong, bên trong lại
có hai con tùy nữ khác bước ra,
kính cẩn đưa chàng vào phòng
huê chúc. Mối tình giai nhân tài tử
thấm thía vô cùng ...
Một thời
gian sau, vì tài năng lừng lẫy, Thiếu Du
được triều đình bổ nhậm đến
chức Hàn Lâm học sĩ. Còn Tô Tiểu
Muội thanh danh càng ngày càng lừng lẫy,
được Hoàng Thái Hậu mời vào
cung để xướng họa suốt ngày
đêm.
Về sau, Tiểu
Muội mất sớm, Thiếu Du thương tiếc
quá, không tục huyền, giữ mãi mối
tình thơ, gói trong niềm ân ái, đến
chết vẫn chưa phai.
Trích Trung Hoa kim cổ kỳ
nhân (Tàng Thư Các)
- Miên Du Đà Lạt
sưu tầm và chuyển -