Ngày Xửa, Ngày Xưa
(Trịnh Hội)
Cũng như nhiều người khác có dịp
đi làm ở ngoại quốc, thời gian tôi ở
Hà Nội cũng là thời gian mà tôi
có nhiều bạn bè ngoại quốc đến
thăm. Phần vì Việt Nam lúc ấy vừa mới
mở cửa nên ai cũng hiếu kỳ muốn
ghé qua cho biết. Phần vì tôi thuộc loại
người đi đâu cũng có bạn nên
tuy ở Hà Nội chưa đến 6 tháng
nhưng tôi đã có gần mười đứa
bạn ghé thăm, luôn tiện xin ở nhờ
để khỏi tốn tiền khách sạn.
Thôi thì đủ mọi thành phần,
trai gái từ khắp bốn bể đổ về.
Khi thì bạn bè luật sư của tôi ở
Úc bay qua thăm viếng. Có lúc tôi lại
phải đón tiếp những thằng bạn ở
xa tít bên Anh vừa … đạp xe đạp
vòng quanh thế giới tới Hà Nội để
ghé nhà chơi. Tôi còn nhớ chỉ cần
nghe tên những quốc gia mà nó vừa đạp
xe qua thôi cũng thấy đủ ớn chứ đừng
nói gì phải còng lưng đạp xe xa
đến từng ấy.
Người cuối cùng đến thăm
tôi trong khoảng thời gian đó là bà
Barbara gốc người Canada da trắng lúc
đó đang định cư ở Hồng Kông.
Tôi gọi “bà” vì Barbara chỉ
hơn tôi gần … 50 tuổi đời. Tóc bạc
phơ nhưng tinh thần lẫn thể xác của
bà lúc ấy vẫn còn rất mạnh khỏe.
Tôi quen bà trong một dịp chúng tôi
cùng vào trại cấm High Island ở Hồng
Kông để dắt các em bé tỵ nạn
Việt Nam ra ngoài chơi lúc tôi còn
làm việc thiện nguyện ở bên ấy. Sau
này một số em và gia đình bị
cưỡng bức hồi hương về Việt Nam
nên nhân dịp tôi làm việc ở
Hà Nội, bà sẵn một công hai chuyện
vừa bay sang thăm tôi, vừa có dịp gặp
lại một số em nay đã về ở Kiến
Sơn, Kiến Thụy gần Đồ Sơn, Hải
Phòng.
Thế
là vào một ngày đẹp trời cuối
tuần, sau một đêm nghỉ lại nhà
tôi ở Hà Nội, bà Barbara và tôi
đã cùng nhau bắt xe lửa đến Hải
Phòng để gặp lại các em sau gần 4
năm mất liên lạc. Gặp lại nhau ngay tại
ga xe vì tôi có điện thoại báo
trước, thấy các em chỉ có 3, 4 năm
sau mà đã cao lớn hơn nhiều bà
Barbara rất vui và bảo phải chi bà đến
sớm hơn để có dịp chia sẻ với
các em lúc gia đình vừa mới trở về
và còn gặp nhiều bỡ ngỡ trong cuộc
sống. Nhưng mà thôi, như thế này
là đã tốt lắm rồi, tôi tiếp lời
bà.
Liền sau đó đám nhỏ và một
số anh chị tôi cũng từng quen biết trong trại
cùng tôi và bà Barbara dắt nhau về
quê của họ ở Kiến Sơn cách
thành phố Hải Phòng khoảng trên một
giờ đi xe. Và cũng như bao cuộc họp mặt
khác giữa những người bạn lâu
năm không có dịp gặp nhau, chúng tôi
đã cùng nhau ôn lại những kỷ niệm
ngay tại nhà của họ. Từ những ngày
chúng tôi quen nhau trong trại cấm cho đến
những thay đổi lớn lao trong cuộc sống của
họ từ khi bị cưỡng bức hồi
hương về Việt Nam.
Nhưng vui như thế chúng tôi cũng
không quên là ở Việt Nam bất kỳ ai
muốn nghỉ lại qua đêm ở nhà người
quen cũng phải lên phường khai báo đầy
đủ. Và thể theo qui định, chúng
tôi đã làm y như thế.
Sang đến sáng hôm sau nhóm chúng
tôi khoảng hai, ba mươi người tụ họp
ở nhà một người bạn vẫn còn mải
mê dông dài nhắc lại chuyện xưa
mãi cho đến khi có hai anh công an phường
bước vào, lúc đó chúng tôi mới
tạm ngừng nói chuyện để mời họ
vào nhà uống nước.
Họ bảo họ đến để tìm hiểu
xem tôi và bà Barbara đã quen với những
người tỵ nạn trong trường hợp
nào và làm thế nào chúng tôi biết
để liên lạc xuống thăm những người
này.
Tình thật, tôi trả lời tôi
và bà Barbara đã quen họ nhân lúc
chúng tôi làm việc thiện nguyện trong
các trại cấm và từ khi tôi về Việt
Nam đi làm thì tôi đã chủ động
liên lạc lại.
“À, thì ra là thế”, một anh
công an vừa gật đầu vừa trả lời
tỏ ý anh hiểu.
“Thế nhưng ai cho phép anh vào các
trại cấm để làm việc”, anh kia hỏi
tiếp.
“Dạ, không có ai cho phép ạ. Em
làm việc thiện nguyện cho một tổ chức
phi chính phủ và vì vậy em được
tự động vào trại cấm dắt các
em ra ngoài chơi”, tôi thành thật trả
lời.
“Không cần ai cho phép anh vào à?
Thế thì ai cho phép anh sang Hồng Kông
làm việc?” cũng cùng anh công an
đó tiếp tục chất vấn.
“Dạ, cũng không có ai cho phép ạ.
Em nghỉ hè tự động mua vé máy bay
sang Hồng Kông làm việc, không phải xin ai
ạ”. Vừa trả lời tôi vừa nghĩ thầm
trong bụng chả lẽ họ đang muốn làm tiền?
“Anh
trả lời như thế mà anh nghĩ chúng
tôi tin anh à? Đây xem ra là có vấn
đề đấy. Xin mời anh về phường
để chúng tôi có thể làm rõ
hơn”.
Đến lúc này thì cả hai anh
cùng đứng dậy mời tôi và bà
Barbara về văn phòng làm việc.
Nói thật đến lúc ấy tôi vẫn
nghĩ chắc không có chuyện gì
đâu. Họ hỏi điều gì mình trả
lời thành thật điều đó thì sẽ
xong thôi. Chỉ là họ không hiểu
cách thức làm việc ở ngoại quốc,
đi đâu không ai cần xin phép, thế
thôi, tôi đã tự an ủi mình như
vậy.
Nhưng
không. Tôi đã lầm. Lầm to là
khác. Sau hơn một giờ làm việc ở
phường hình như họ vẫn không tin những
gì tôi khai là sự thật. Đó
là tôi đã không làm việc cho bất
cứ tổ chức “phản động”
nào hoặc nhận tiền của ai để sang Hồng
Kông làm việc thiện nguyện. Tôi cũng
chẳng có bất kỳ sự liên hệ mật
thiết nào ngoài tình đồng hương
thương mến, cảm thông nhau lúc những
người Việt tỵ nạn còn bị giam trong
các trại cấm ở Hồng Kông.
Chẳng ăn thua. Tôi trả lời đến
đâu cũng nghe câu hỏi được lập
lại: Anh nói thế
mà anh nghĩ chúng tôi tin anh à?
Từ công an phường tôi được
giải lên công an Huyện Kiến Thụy.
Nhưng sau hơn 4 tiếng đồng hồ cùng với
3 anh công an huyện làm việc cật lực,
câu nói cuối cùng tôi nghe vẫn là
“đây là có vấn đề”, mặc
dù tôi cứ thắc mắc: “Ý anh
nói ‘vấn đề’ là vấn đề
gì vậy anh?”.
Đôi khi nghĩ lại tôi thấy lúc
đó mình ngây thơ thật. Ngây thơ
đến độ chính mình đang gặp rắc
rối mà cũng không biết đó là rắc
rối! Vì sau gần
6 tiếng bị quần, tôi và bà Barbara
đã được chuyển từ huyện lên
tỉnh. Bằng một chiếc xe thùng trực chỉ
đồn công an thành phố Hải Phòng.
Lúc ấy, chúng tôi đã không
được cho biết mình sẽ đi đến
đâu hay đã phạm tội gì mà lại
bị giữ lâu đến thế. Lẽ ra tối
hôm đó chúng tôi phải bắt chuyến
xe lửa cuối cùng về lại Hà Nội
để hôm sau tôi đi làm. Nhưng lại
một lần nữa, người tính không bằng
trời tính, tối hôm đó chúng
tôi đã được sắp xếp cho ở lại
ngay tại nhà nghỉ của … Bộ Công An
sau khi toàn bộ giấy tờ bị tịch thu
và được thông báo phải … trả
sòng phẳng tiền ở trọ (hình như
là khoảng 20 đô cho mỗi đêm!).
Thế mới gọi là đáng nhớ phải
không bạn? Trên đời này đố bạn
tìm được ai vừa bị bắt một
cách vô lý, đã vậy còn phải
tự mình trả tiền phòng giam giữ cho
chính mình!
Như bà Barbara đêm hôm ấy trước
khi ngủ bảo tôi: it only happens in Haiphong.
Đúng là chuyện chỉ có thể xảy
ra ở Hải Phòng. Nhưng lúc ấy cả hai
chúng tôi vẫn nghĩ chắc chắn ngày
mai sẽ xong chuyện vì những gì mình biết
mình đã khai báo thành thật hết rồi.
Nhưng không. Lại một lần nữa
chúng tôi đã lầm. Và cũng lại
là lầm to. Vì chúng tôi không những
bị giam và hỏi cung cả ngày kế tiếp,
tiếp nữa, và tiếp nữa … cho đến
ngày thứ năm mới được thông
báo là quá trình điều tra đã
hoàn tất mà ngay sau đó chúng tôi
đã được thông báo là
chúng tôi phải rời khỏi Việt Nam trong
vòng 48 tiếng đồng hồ và mỗi
người bị phạt 15 triệu đồng vì -
hãy lắng nghe cho kỹ - chúng tôi đã
phạm tội …“gặp gỡ người hồi
hương không xin phép”!
Trời. Có thiệt không đây trời?
Sau 5 ngày làm việc và trả lời
thành thật tất cả những gì chúng
tôi bị hỏi, từ chuyện công cho đến
chuyện tư, từ lý lịch cá nhân cho
đến tên và ngày sinh tháng đẻ
của ông bà, cha mẹ, anh em, cô dì
chú bác lẫn bạn bè … họ vẫn
không thấy là họ đã bắt lầm
người à? Thế là thế nào?
Tôi nhớ lúc ấy tuy vẫn còn
ngây thơ nhưng tôi hăng cãi lắm (cũng
có lẽ vì tôi ngây thơ nên mới
thích cãi!). Vì vậy sau khi nghe được
quyết định chính thức từ một anh
công an tên Minh làm việc cho Cục quản
lý xuất nhập cảnh đọc xong và hỏi
tôi có thắc mắc gì không, tôi
đã ngay lập tức có thắc mắc:
“Thưa anh, trong giấy quyết định
này anh ghi tội của em là ‘Gặp gỡ
người hồi hương không xin phép’
nhưng mà thưa anh trong cả năm vừa qua ở
Hà Nội, em đã gặp rất nhiều bạn
là người tỵ nạn hồi hương
nhưng đâu thấy có vấn đề
gì?”
“Ở Hà Nội khác, ở đây
khác!” Minh trả lời cụt ngủn.
“Nhưng thưa anh trong giấy quyết định
này sau khi ghi là em đã ‘gặp gỡ
người hồi hương không xin phép’
sau đó lại mở ngoặc ghi thêm là
‘trực tiếp liên lạc, tổ chức gặp
gỡ người hồi hương không xin
phép’ thì không đúng như vậy
vì tuy là em có trực tiếp liên lạc
nhưng tổ chức thì hoàn toàn
không”, tôi cố giải thích.
“Thế thì làm cách nào anh hẹn
gặp được những người này?”
Minh hỏi ngược lại tôi.
“Dạ thì như đã khai em liên lạc
bằng điện thoại trước để hẹn
nhau gặp ở ga Hải Phòng”. Tôi thành
thật trả lời.
“Thì đấy. Đấy là tổ chức
đấy!”. Minh bình thản giải thích.
Oh! Thì ra là vậy. Tuy tai tôi nghe nhưng
tôi đã không thể nào tin nổi những
gì tôi vừa được cho biết.
Trông có vẻ sốt ruột vì quá
trình điều tra đã hoàn tất, Minh gặng
hỏi tôi lần cuối: Thế anh còn gì thắc
mắc nữa không?
Vừa buồn, vừa tức, vừa giận,
lúc ấy có lẽ tôi nên can tâm chấp
nhận sự thật phũ phàng là mình sẽ
bị trục xuất ra khỏi quê hương của
mình. Nhưng không, cái máu luật sư
trong người nó lại tiếp tục nổi
lên muốn tìm ra cho được lẽ phải.
Tôi hỏi tiếp và chẳng cần xưng
“anh”’, “em” gì nữa:
“Trong quyết định ghi là tôi
đã vi phạm hành chính nhưng anh có
thể cho tôi biết điều khoản của nghị
định nào hay thông tư nào ghi rõ gặp
gỡ người hồi hương là vi phạm
hành chính không?” Lúc ấy tôi biết
chắc là chẳng có điều khoản nào
nhắc đến vấn đề này vì
chính tôi đã đọc qua đọc lại
rất nhiều lần những quy định liên quan
đến người nước ngoài qua công việc
làm mỗi ngày.
Nhưng một lần nữa tôi lại bị hụt
hẫng khi nghe câu trả lời cộc lốc của
Minh nay đã gằn xuống: “Nếu anh không
còn thắc mắc gì khác thì chúng
ta ngưng tại đây. Anh
không có quyền chất vấn tôi về những
gì đã quyết định”.
Ah! Thì ra là thế.
Đến lúc đó tôi mới hiểu.
Là đối với công an, hỏi vậy
nhưng không hẳn là vậy. Ở Việt Nam thấy
vậy mà không hẳn là vậy. Nhiều khi
nó còn tệ hơn vậy.
Đừng mơ tưởng nếu mình vô
tội thì sẽ được xử vô tội.
Vì rất có thể không những mình bị
xử có tội mà chính mình còn phải
trả tiền công giam giữ cho … chính
mình!
Vậy mới có chuyện để nói. Về
ngày xửa ngày xưa. Cho đến hôm nay vẫn
thế.
Không biết các bạn có muốn nghe tiếp
chuyện tôi mới bị trục xuất không nhỉ?
Trịnh Hội
(Thuan Do sưu tầm và chuyển)