SU'U TÂ`M 14

Home | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | SUY NGÂM~ 7 | SUY NGÂM~ 8 | CHUYÊ.N THIÊ`N | VA(N | VA(N [tt] | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI 1 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | CU'̉'I CHÚT CHO'I | CU'̉'I CHÚT CHO'I [tt] | LINKS | TUYÊ.T V̉'I | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6

VA(N 6

 

NGÀY MẸ RA TRƯỜNG

(Trần Bang Thạch)

 

 

         Chị Martha Philips gom các sách vở bút giấy bỏ tất cả vào chiếc túi đeo lưng để sẵn sàng cho buổi học ngày mai. Trước khi rời  cái computer chị Martha không quên đánh cái  e-mail nhắc cậu em  Steven ở Seattle gởi gấp cho chị  các tài liệu của Bộ xã hội địa phương để chị hoàn tất bài viết về việc săn sóc người già trên toàn nước Mỹ. Đây là bài viết cuối cùng trước khi chị ra trường mươi ngày tới. Mọi chuyện cần thiết cho mình chị Martha coi như đã tạm xong. Chị xuống bếp ghi vội mấy lời cho anh Ken, chồng chị : thức ăn trưa đã sẵn trong tủ lạnh, nhớ tưới mấy bụi hồng trước nhà, độ nầy nắng gắt lắm, nhớ đến nhà trẻ rước Michelle trước 5 giờ, đưa thằng Jeff đi tập dã cầu lúc 6 giờ. Đừng quên nhắc thằng Jeff và thằng Scott học và làm bài.  Chắc hơn 10 giờ đêm em mới về được vì còn phải đến thư viện sau giờ học. Chúc cưng ngủ ngon. Yêu cưng thật nhiều. Đại khái những lời nhắn là như vậy, gần như mỗi ngày, từ 4 năm nay. Trước khi lên giường nằm, chị vào phòng các con kéo thẳng cánh tay, đôi chân hay đắp lại tấm chăn cho mấy đứa nhỏ. Tội nghiệp, bốn đứa từ Michelle nhỏ nhất 2 tuổi, đến thằng Jeff 7 tuổI, thằng Scott 10 tuổi và thằng Jon lớn nhất 18 tuổi dồn cứng căn  phòng vốn đã nhỏ, càng ngày càng nhỏ hơn thêm với tầm lớn của từng đứa con.  Không cần nhìn đồng hồ chị Martha cũng biết bây giờ đã gần  2 giờ sáng. Từ bốn năm nay, nghĩa là từ ngày chị Martha quyết định trở lại trường học sau hai mươi năm bỏ dở, đêm nào cũng như đêm ấy, ít khi chị đi ngủ trước 2 giờ, và luôn thức trước 5 giờ sáng để bắt đầu những công việc của một ngày mới: chuẩn bị phần ăn trưa cho cả nhà, đánh thức cả 4 đứa con để đi học và đi nhà trẻ. Ba tiếng đồng hồ để ngủ mỗi đêm, chị Martha thấy đã quá nhiều. Biết bao nhiêu công việc chị Martha phải làm , cả ngày lẫn đêm. Anh chồng Ken thì đi làm lao động từ 8 giờ tối tới 8 giờ sáng, về nhà chỉ có ngủ và đưa rước các con. Chị Martha thường trêu chồng là “ông quản gia ngủ ngày”.

 

         Hơn một tuần nữa là chị Martha ra trường với cấp bằng y tá. Bốn năm học sắp chấm dứt. Chuyện như mới hôm qua. Một buổi sáng hôm nào đó của hơn 4 năm trước thằng con lớn Jon, lúc đó 14 tuổi, trong khi chờ  xe buýt nhà trường ngừng trước cửa nhà, nó hỏi mẹ :

         - Tại sao hồi đó mẹ bỏ học giữa chừng vậy mẹ? Mẹ không thích học hả mẹ?

         - À.. à ..Ừ ... ừ . . ,

 

         Câu hỏi thật bất ngờ. Chị Martha chưa kịp trả lời rõ ràng cho thằng con thì chiếc xe buýt màu vàng đã trờ tới. Thằng Jon vội phóng lên xe, còn chị Martha thì thấy tim mình nhói đau. Ngay lúc đó chị Martha nghĩ rằng chiếc buýt đến thật đúng lúc để chị khỏi phải trả lời câu hỏi của con. Chị thấy như mình vừa thoát nạn. Chị Martha chưa lần nào, chưa lần nào dám nói với các con về việc bỏ học sớm của mình, làm như đó là một vết thương còn mưng mủ, động đến là rướm máu. Nhưng hôm ấy, chị Martha thấy xấu hổ với thằng con và với chính mình. Nên sau khi đã đưa Michelle đến nhà trẻ, một mình trên đường lái xe đi làm, Chị Martha bỗng nghĩ tới một câu hỏi khác của Jon, hay của bất cứ người nào : Làm cách nào mà một người đã bỏ học từ năm 17 tuổi, con đùm con đề, nghèo rớt mùng tơi, đã gần bốn mươi mà có thể tiếp tục việc học? Câu hỏi ngộ nghĩnh đó tới trong đầu chị rồi cũng nằm im ở đó. Nào chồng nào con nào cơm ăn áo mặc .. . càng ngày càng đè nặng cái đầu, mệt cái óc, cong cái lưng, mòn cái chí. Cho đến một hôm, cũng hơn bốn năm trước, vào mùa Giáng Sinh, thằng Scott, lúc ấy 6 tuổi, vừa chỉ  tay sang nhà hàng xóm vừa nhăn mày hỏi mẹ:

         - Ông già Santa xấu lắm mẹ à. Chắc ông ấy cho rằng thằng bé nhà kia giỏi và ngoan hơn con, phải không mẹ?

 

         Chị Martha biết con chị muốn nói gì. Chị biết trên cây Giáng Sinh nhà chị chỉ có mấy món đồ chơi xoàng xĩnh, không cử động, không phát ra tiếng nói, tuy mới mua nhưng rẻ tiền; còn dưới cây Giáng Sinh nhà hàng xóm  thì cả một thế giới thần kỳ được thu nhỏ  với nhà cao cửa rộng, với xe hơi xe hỏa tàu bay tàu ngầm . .. thằng bé chỉ ấn cái nút vàng là xe hơi lăn bánh, ấn cái nút xanh là con bò rống lên e e, kéo cái cần về trái là cửa nhà mở toang .. .Chị Martha nhớ là chị đã không trả lời con, chị đã lái câu chuyện sang ngõ khác, vì lúc ấy trong đầu chị, nằm dưới các lớp áo cơm con cái chồng vợ là câu hỏi chị thấy cần phải đặt cho chính chị nếu chị muốn làm một sự thay đổi, đồng thời cũng để giải oan cho Cụ Santa râu bạc: Tại sao các con ta không thể có được những thứ ấy nhỉ ?  Các con ta đều ngoan kia mà !

 

         Ý nghĩ đó bỗng đưa chị Martha trở về những mùa Giáng Sinh cũ, trở về một thị trấn cũ ở cực bắc Texas, trở về cái thời gian của hai mươi mấy năm trước. Ở cái thị trấn quạnh quẽ đó, trong những năm tháng đìu hiu đó, Martha Philips sống như một viên sỏi, ngày ngày cố lăn lên mấy bậc tam cấp để vào cổng trường, rồi thẫn thờ lăn vào lớp học. Dù không muốn, sau tiếng chuông tan trường, viên sỏi vẫn phải lăn về căn nhà nhỏ nằm bên sườn đồi để khi thì thấy người cha mặt đỏ lừ, mắt như thiếu đôi đồng tử, còn hơi thở thì nặc nồng mùi bia rượu, khi thì thấy mẹ ngồi khóc rấm rứt phía sau nhà. Dáng mẹ mỏng như một tờ giấy nhầu dán lên nền trời màu lục. Cha thì cứ ngày ngày say sưa. Mẹ thì vẫn là tờ giấy nát nhầu vì khổ sở với chồng con, vì hết cơn bệnh nầy đến cơn bệnh khác. Chuyện gì phải đến, đã đến : Cha mẹ ly dị lúc Martha vừa mới xong tiểu học. Rồi năm bảy lần mẹ tái giá, viên sỏi Martha lăn hết trường nầy đến trường khác, hết tỉnh thành nầy đến thành phố khác. Viên sỏi cảm thấy đuối hơi với người dưng cảnh lạ, với những người cha ghẻ, với những căn bệnh tâm thần của mẹ. Viên sỏi Martha một hôm đã lăn ra khỏi cổng trường, không hẹn ngày trở lại, để rơi vào những góc đời buồn vui cười khóc. Viên sỏi rồi chắc phải lần hồi lăn xuống vực nếu người cha ruột bỗng một hôm không chợt nhớ đứa con gái của mình đang sống cùn mằn tại một thị trấn xa. Về với cha, Martha tưởng rằng mình sẽ có một đời sống khác, sẽ có những bước chân mới liến thoắng trước một cổng trường đầy hoa cỏ tinh khôi. Nhưng dòng đời vẫn nhiều sóng gió, đường đời vẫn đầy chông gai, người nữ sinh 17 tuổi thêm một lần nữa phải rời ghế nhà trường khi vừa mới lên lớp 12. Ngay lúc đó và những năm sau đó chị Martha thấy chuyện đi học ngàn lần khó hơn chuyện chị trả nợ xe nhà , chuyện chị lấy chồng, rồi sanh con đẻ cái. Đúng là cái khó nó bó cái khôn!  Hai mươi năm chị Martha có nghĩ gì đến chuyện trở lại học đường đâu, mặc dầu ngày ngày chị thấy chồng con eo sèo túng thiếu, mặc dầu đôi lần chị có tự ân hận là đã bỏ trường bỏ lớp quá sớm, chuyện nầy có thể làm cho các con chị bắt chước thì nguy to. “Tại sao mẹ bỏ học giữa chừng?”. Câu hỏi bất chợt của thằng Jon hơn 4 năm trước đã làm chị Martha suy nghĩ. Ánh mắt đỏ hoe của thằng Scott khi nhìn cây Giáng sinh nhà người cũng hơn 4 năm trước đã làm viên sỏi cùn mằn Martha bật dậy và thẳng bước trở lại trường. Chị Martha đã thành tay lực sĩ chạy đường trường, chạy cho nhanh để bắt kịp khoảng thời gian hai mươi năm đánh mất. Chị Martha đã trở thành tay giác đấu cừ khôi giữa đấu trường : trong 3 tháng chị đã lấy cái bằng tốt nghiệp trung học GED , rồi vào đại học ngay mùa hè năm đó. Người phụ bếp Martha sau 8 tiếng dầu sôi lửa bổng ở tiệm ăn McDonald là người nữ sinh viên cần cù năng động tại trường, là người mẹ tháo vát của 4 đứa con nhỏ, là người nội tướng trong căn chung cư tầm thường 2 phòng ngủ. Bốn năm sắp sửa trôi qua trong đời của người nữ sinh viên 42 tuổi đó với điểm trung bình 4 chấm. Ngoài thành tích học tập và tích cực trong các hoạt động của hội đồng sinh viên nhà trường, chị Martha còn xuất sắc qua những bài viết về các vấn đề  xã hội lớn của nước Mỹ. Chị Martha là người sinh viên đầu tiên của Đai học Lama được bình  chọn là một trong 20 phần trăm sinh viên giỏi toàn Hoa Kỳ.

 

xXXx

 

    Nhìn từ bên trong, đại thính đường Đại học Lama như cái lồng chim khổng lồ úp lên nền gạch trải thảm màu huyết dụ. Trên sân khấu, các giáo sư mũ áo chỉnh tề ngồi hướng mặt về phía dưới hội trường. Hàng ngàn ghế nệm  bọc da màu đỏ xếp theo hình trôn ốc chạy từ nền lên gần đụng trần nhà. Cha mẹ, anh em, bà con thân quyến các tân khoa đã ngồi gần kín các hàng ghế vòng quanh sân khấu. Cả một vòng cung đầy màu sắc. Giữa thính đường, phía trước sân  khấu là hàng mấy trăm ghế da màu vàng hoàng yến, làm nổi bật chiếc áo thụng đen trên mình và cái nón đen trên đầu mỗi tân khoa. Ngay gần sát sân  khấu, trên hàng ghế đầu tiên, người đàn ông và 4 đứa con ăn mặc áo quần bình thường là hình ảnh hoàn toàn khác biệt với khối mũ áo đen tuyền trên các dãy ghế phía sau. Từ lâu nhà trường có tục lệ dành hàng ghế đầu tiên cho gia đình sinh viên thủ khoa của khóa tốt nghiệp; người thủ khoa nầy cũng là người sẽ đọc bài phát biểu đại diện toàn khóa.

 

     Các thủ tục bình thường của buổi lễ đã được tiến hành trong mươi phút vừa qua. Sau lời giới thiệu vô cùng trịnh trọng nhưng không giấu vẻ tự hào của vị giáo sư viện trưởng, là phần phát biểu của người nữ sinh viên thủ khoa. Chị nói với hàng ngàn người đang có mặt, đang chăm chú nghe, mà như nói với chính mình, như nói với người chồng và 4 đứa con đang ngồi ở hàng ghế danh dự phía dưới. Đôi khi chị như nói với những người không có mặt bên trong chiếc lồng chim khổng lồ nầy, những người vì lẽ nầy lẽ nọ đã không chu toàn bổn phận làm cha mẹ để con cái lêu lỏng, ham chơi, bỏ học. Một lần chị Martha đã rơi nước mắt khi nhắc tới người mẹ trong căn nhà nhỏ bên sườn đồi đã khổ sở với người chồng say rượu, với bệnh tật triền miên, đã không còn hơi sức để răn dạy đứa con gái duy nhất của bà.  Có lúc chị ngậm ngùi nhắc lại niềm mơ ước quà Giáng sinh của mấy đứa con chị. Bài đã viết sẵn nhưng chẳng hề được liếc qua suốt hơn nửa giờ  chị phát biểu. Chị có nhiều thứ để nói quá, nhiều hơn những gì chị đã sửa soạn trước.

 

     ". . . Tôi cảm ơn Giáo sư Viện trưởng đã nói nhiều lời tốt đẹp về tôi, nhưng tôi thấy việc tôi tốt nghiệp chỉ là chuyện bình thường. Bốn năm qua tôi chỉ làm công việc mà hàng triệu triệu người trên quả địa cầu nầy đã làm từ ngàn năm nay. Có khác một chút là tôi đã cật lực trả món nợ mà tôi đã vay từ hai mươi năm trước. Có vay thì phải trả, chuyện thật bình thường. Chuyện không bình thường là những chuyện tôi xin kể hầu quí vị sau đây. Sáng nay, trước khi đến hội trường nầy, tôi có nhìn lướt một chút trên mạng lưới. Tôi biết được tại tiểu bang Main bà cụ Lena Smith, 82 tuổi, nhận bằng tốt nghiệp đại học tuần qua, bà nói bà sợ không còn đủ thời gian để lấy bằng tiến sĩ nhưng bằng Cao học thì chắc còn kịp. Cũng tuần qua chị Carmen Riviera ở Kentucky tốt nghiệp cử nhân truyền thông mặc dầu chị ngồi xe lăn từ nhỏ và chỉ xử dụng được bàn tay trái. Trở về tiểu bang ta, chắc giờ nầy tại đại thính đường trường Khoa Học thuộc Viện Đại học Texas ở Austin với gần 3000 tân khoa,  anh  sinh viên thủ khoa vật lý học gốc Việt Nam tên Scott Vinh Nguyễn có lẽ cũng đang đọc bài diễn văn tốt nghiệp và chắc cũng có lúc nhìn xuống hàng ghế đầu dưới sân khấu  để thấy nét vui mừng và hãnh diện trên  nét mặt, trong ánh  mắt của cha mẹ và anh chị. Chuyện tốt nghiệp, dù là thủ khoa, cũng là chuyện thường; chuyện bất thường là người sinh viên họ Nguyễn nầy trong những tháng hè giữa hai niên học đã "tầm sư học đạo", anh đã đến Geneva,Thụy Sĩ làm việc tại một phòng thí nghiệm Vật Lý lớn nhất Âu châu để cùng với 1700 nhà khoa học toàn cầu kiện toàn những phát kiến mới, anh đã đến Đại học  Colorado ở Boulder làm việc với mấy nhà khoa học giải Nobel lừng danh Hoa Kỳ trong ngành vật lý nguyên tử. Người chuẩn sinh viên ban tiến sĩ Vật Lý nguyên tử của Đại Học Harvard đó năm nay mới ngoài hai mươi tuổi. Còn tại thành phố ta, chuyện thần kỳ trong học đường cũng không thiếu. Một gia đình họ Nguyễn khác, một thương gia ở Houston, gốc người Cần Thơ, cùng một lúc đón mừng tin vui: hai cô con gái duy nhất của họ đã cùng tốt nghiệp Y khoa bác sĩ. Hai mươi hai năm trước những thuyền nhân nầy đến đây với hai bàn tay trắng, con cái họ chưa biết một chữ Anh nào.

 

    Để kết thúc bài nói lan man nầy, tôi xin kể hầu quí vị thêm một chuyện học hành độc đáo khác . Đó là chuyện anh Louis Durden. Anh Louis là người nghiện rượu nặng, đã từng đôi lần ghi danh rồi bỏ học từ năm đầu đại học, từng vào tù ra khám, sống vô gia cư, sống đói nghèo kham khổ dưới gầm cầu Buffalo Bayou gần Đại học Houston - Downtown. Anh Louis sống lất lây cùng với ruồi muỗi dưới gầm cầu, hàng ngày nghe tiếng sinh viên cười nói, tiếng giày dép lao xao trên cầu. Nhưng đó là chuyện của 6 năm về trước. Hôm qua, thứ bảy, tại đại thính phòng Astroarena, với ánh mắt đầy hãnh diện và yêu thương của người vợ mới cưới, anh Louis Burden, 48 tuổi, đón nhận văn bằng cử nhân khoa học từ trường UH-Downtown. Anh nói: Không thể tưởng tượng nỗi cuộc sống ổ chuột dưới gầm cầu. Hôm nay tôi đã có những bước thênh thang trên cùng chiếc cầu ấy để đi vào lớp học. Và để thênh thang bước vào đời.

 

     Nào, hỡi các bạn tân khoa , chúng ta hãy thênh thang bước về hướng mặt trời."

 

 

 

Trn Bang Thch

Mùa Tốt nghiệp 2000, gởi BảoVinh của Ba Mẹ.

 

(Trầm Vân sưu tầm và chuyển)

 

 

 

website counter