NHỮNG CON CÀO CÀO XANH
(Dương Thịnh)
Tác
giả Dương Thịnh, 63 tuổi, là cư
dân Westminster, thành phố Little Saigon. Bài viết
về nước Mỹ đầu tiên của ông
là chuyện một cựu tù nhân chính trị
đến Mỹ theo diện HO-8 đi tìm gặp vợ
con sau nhiều cuộc đổi đời.
Đứng trong
hàng rào kẽm gai của khu thăm nuôi.
Bé Mai cố nhướng mắt để tìm
người cha thân yêu của mình trong số
những đoàn người gầy guộc, xanh xao,
vàng vọt đang lếch thếch cất bước
trên đường về trại tù. Với ánh nắng trưa
hè gay gắt, mọi nguời đi thăm nuôi
đều đứng trong mái hiên ngẩng cổ
nhìn ra. Riêng bé Mai bất chấp những tia
sáng nóng đang rọi trên đôi má
ửng đỏ, những giọt mồ hồ đang rịn
trên trán. Cô bé cố giơ cao những
con cào cào xanh hướng về phía
đoàn người đang lần lượt đi
qua, hầu mong cha của mình sẽ mau chóng nhận
ra. Ông Sinh đã nhận ra con gái , ông
giơ cao lon gô vẫy vẫy. Bé Mai sung sướng
reo lên :
“Má
ơi. Con thấy ba rồi! Con thấy ba rồi !
Đoàn
tù vẫn bình thản bước lên đồi.
Ông Sinh vừa đi vừa ngoảnh cổ lại
đằng sau nhìn con .. Khi không còn thấy
hình bóng cha nữa, bé Mai mới chịu chạy
lại bên mẹ thút thít khóc. Thiếu
phụ rút khăn tay lau mồ hôi trên
trán con, vuốt mái tóc bé an ủi :
“Nín
đi con, tí nữa mẹ con mình gặp cha rồi.”
Thời gian
thăm nuôi thật ngắn ngủi, chỉ mười
lăm phút. Ông Sinh chỉ kịp ôm con
vào lòng, hôn lên má con. Hỏi han vợ
năm ba câu, chẳng nói được gì
nhiều, đã gần hết giờ. Mọi người
trong phòng thăm nuôi chỉ biết nhìn nhau
khóc và khóc.
Đến giờ tên cán-bộ oắt con
quơ quơ khẩu súng AK về phía mọi
người:
“ Đã hết
giờ, yêu cầu mọi người đứng
lên ra về.”
Ông Sinh vội
vàng nắm chặt hai bàn tay vợ và ôm
hôn con lần cuối, xách bị gói
lương khô cùng mấy con cào cào theo
chân mọi người ra cửa.
Ngồi trên chuyến
xe lô trở về thành phố, hầu hết
là những bà vợ đi thăm nuôi chồng,
họ đều mệt mỏi trong cuộc hành
trình dài. Phần vì đường xa, phần
vì phải thức khuya dậy sớm để nấu
thức ăn, giờ đây tất cả đều
cố nhắm mắt thiu thiu ngủ dưỡng sức.
Riêng bé Mai không tài nào ngủ
được, dù rất muốn ngủ và mệt
mỏi. Hình dáng của người cha luôn
luôn lởn vởn trong trí óc bé, thân
hình gầy gò, đen đủi cùa ông
khác xa với hình dáng trắng trẻo, hồng
hào, mập mạp trước kia rất nhiều.
Bé là người được cha thương
yêu nhất. Đêm nào ông cũng ru
bé ngủ, kể truyện cho bé nghe, trước
khi rời khỏi phòng ông không quên
hôn lên nút ruồi son trên cổ bé,
mà ông thường gọi đùa là :
"Nốt ruồi mang đến nhiều sự may mắn.”
Ông có
đôi bàn tay rất khéo léo và nghệ
thuật. Chính ông đã dậy cho bé xếp
hình những con thú, đồ vật bằng giấy,
nhất là thắt hình những con cào
cào bằng lá dừa non thật là tuyệt,
trông chúng đẹp, hùng dũng, oai phong biết
bao! Bé rất thích và thường thắt
để tặng bạn bè, vì thế chúng
thường chọc và gọi bé lá con cào cào xanh. Biệt
hiệu này bé rất thích và thường
hay kể lại với cha. Ông nói con cào
cào xanh với đôi chân cứng cáp, nhẩy
xa, biểu hiện cho tương lai vững chắc. Cha muốn
con gái của cha sau này cũng giống như những
con cào cào này.
Riêng ông Sinh,
ông không thể cầm được nước
mắt khi nhìn giỏ quà của vợ con. Sau gần
hai năm tù cải tạo, đây là lần
đầu tiên ông được thăm nuôi.
Giỏ quà dù ít nhưng nó đã
gói ghém biết bao nhiêu mồ hôi, nước
mắt, tình thương của gia đình,
dù ít nhưng ông rất ấm lòng. Nhất
là mấy con cào cào xanh, nhìn chúng
ông cảm thấy vui vui và xao xuyến trong
lòng. Cô bé không biết đã bỏ
biết bao nhiêu công sức, tình thương
yêu gói trọn vào đó để
dành cho cha. Nghĩ tới đó tim ông như
thắt lại.
Đây là lần
đầu và cũng là lần cuối ông gặp
mặt vợ con. Kể từ ngày thăm nuôi cho
tới mấy năm sau này, ông không hề nhận
được bất cứ tin tức gì về gia
đình. Lòng ông như rối bời, tâm
tính như mất trí, thân xác kiệt quệ.
Mấy lần ông đã ngã quỵ, tưởng
không thể sống nổi, may nhờ bạn bè
an ủi, giúp đỡ về vật chất cũng
như tinh thần, ông đã qua khỏi.
Cuộc sống
tù đầy cứ như thế: Chịu đựng,
đau khổ, đói khát. Cho tới cuối
năm 1981 ông được thả về.
Ra khỏi tù ,
ông không còn nơi nương tựa. Theo
chòm xóm cho biết : Vợ con ông đã
vượt biên năm 1976. Gia đình bên vợ
thì đã bán nhà dọn đi nơi
khác, không biết biệt tích nơi
đâu. Còn bên ông thì không có
ai cả, vì ông vô Nam chỉ có một
mình khi ông mới mười hai tuổi. Thế
là hết ! không biết đâu mà
mò. Điều
làm ông lo âu nhất, là vợ con ông
có thật sự đi vượt biên không,
hay là tin đồn nhảm ?! Nếu đúng
như vậy, liệu có thoát không? Hay
là đã bị ... ông không dám nghĩ
tiếp. Nếu thoát, tại sao không gửi
thư về để cho ông biết tin. Những câu hỏi tại
sao ?.... tại sao?... làm cho ông điên đầu.
Hiện giờ ông mù tịt, và cũng
không hiểu vì sao ?!
Ra khỏi nhà
tù nhỏ, ông lại vô nhà tù lớn.
Cũng lao động thân xác để kiếm miếng
ăn, cũng phải học tập, trình diện
hàng tháng. Người ông càng ngày
càng tiều tụy, nhưng ông phải ráng sống
để có ngày gặp lại mặt vợ con.
May mắn nhờ một người bạn tù
cùng chung một tổ trong trại tù, đưa
ông về nhà cho tá túc qua ngày,
cùng chỉ ông cách thức vá giầy,
dép cũ. Cuộc sống của ông cũng tạm
đủ.
Dạo này trời
Sài-Gòn hay đổ những cơn mưa bất
tử, làm ông Sinh dọn hàng ra, vô muốn
bở hơi tai. Hai năm sau này công việc
làm ăn của ông đâm khá ra. Giầy
dép cũ mới, chôm chỉa gì ông cũng
mua tuốt luốt, đem sửa chút ít,
dánh bóng lại bán được giá
cao.
Một người
khách đi đến gian hàng ông. Ngắm
nghía lựa một đôi, xỏ vừa chân,
cầm lên hỏi :
“Bác , Đôi này bao nhiêu ?”
Đang cúi lau giầy,
ông vội vàng ngửng đầu lên định
trả lời. Nhưng thấy người khách,
ông bỡ ngỡ, cảm thấy rất quen nên
chưa kịp đáp. Người thanh niên thấy
mặt ông cũng giật mình lùi lại, trợn
mắt như gặp phải ma. Cậu ta định thần
nhìn kỹ. Vội hỏi : “Xin lỗi, xin lỗi.
Bác có phải…..phải tên Sinh
không?”.
Cũng vừa kịp
lúc ông Sinh nhận ra người khách lạ,
chẳng ai khác hơn chính là cậu em vợ
của mình. Như bắt được vàng.
Ông Sinh rối rít dọn hàng không
bán nữa. Hai anh em kiếm
một quán cà phê ngồi tâm sự.
Thì ra vợ con
ông đi vượt biên thực sự, hiện
định cư ở Mỹ. Vợ ông đã
có chồng khác và đã có hai con, một
trai, một gái. Cha mẹ vợ đã bán
nhà ở thành phố, dọn về quê ở.
Mấy năm nay ông bà vẫn đều đặn
nhận được tiền bạc do con gái chu cấp
hàng tháng, và hiện cậu em trai vẫn
còn ở với cha mẹ.
Không hiểu vì lý do gì, cố
ý hay có uẩn khúc gì khác, ông
bà lại báo với con gái là ông
đã chết trong trại tù.
Ngay ngày hôm
sau. Ông Sinh cùng cậu em vợ vội đáp
xe đò về thăm gia đình vợ. Chuyến
thăm này đã khiến ông Sinh nhận nhiều
sự đắng cay tủi nhục. Sự ơ hờ, tiếp
đón tẻ nhạt đã làm ông thất
vọng. Ông không có địa chỉ cũng
như không có tin tức gì về vợ con.
Ông chỉ biết đạì khái là : Vợ
ông không muốn cho ông biết nơi ở của
nàng. Chuyện ông bị chết là do công
an tới nhà báo tin.
Nhưng nhờ
vào lòng tốt của cậu em vợ, cuối
cùng ông cũng có được địa
chỉ của vợ con trong tay. Nhưng làm được
gì với địa chỉ này ? Đối với
vợ, ông có lỗi với nàng chứ
không phải nàng có lỗi với ông. Ở
vậy chờ chồng nuôi con là việc tốt,
nếu không thì đành phải chấp nhận,
không thể oán trách. Nhưng với con,
ông phải có bổn phận và trách nhiệm.
Ông nhớ cô bé vô cùng không kể
xiết.
Ông đã viết
thơ nhiều lần, nhưng chẳng bao giờ
được hồi âm. Lại mù tin, mù tịt.
Đầu óc ông rối rắm
tơ vò. Con ông ra sao rồi ?!
Sau
đó chương trình HO được cứu
xét, đưa các sĩ quan tù nhân cải-tạo
qua Mỹ. Ông sung sướng bán tín, bán
nghi. Nhưng sự thật đã đến. Giờ
đây ông đã ngồi trên máy bay
đến Mỹ theo diện HO.8. Việc đầu
tiên của ông dự định là sau khi lo thủ
tục giấy tờ xong, ông sẽ đi tìm vợ
con.
Đứng
trước cánh cổng sắt của căn nhà
sang trọng, trong một thành phố thuộc tiểu
bang Illinois. Ông Sinh lưỡng lự không dám
bấm chuông, lòng ông hồi hộp, tim đập
loạn xạ .. Ông đang tưởng tượng
hình dáng vợ mình bây giờ thế
nào? Con mình đã lớn khôn ra sao?
Cô bé giờ đã hai mươi mốt tuổi
rồi còn gì, không biết ông có
còn nhận ra không?!
Rồi
ông tự hỏi có nên vào hay không ? Gia
đình người ta đang hạnh phúc,
mình vào có đúng lúc không?! Đang
lúc suy nghĩ miên man. Chợt ông thấy một
thiếu phụ từ trong nhà đi ra, tay cầm
bình tưới cây nhỏ, tưới vào những
chậu hoa trước cửa. Ông không thể nhầm
được, đó chính là vợ
mình dù thời gian có thay đổi. Ông
tính rướn người lên gọi nhưng kịp
ngừng lại. Một người đàn ông
tóc vàng từ bên hông nhà đi tới,
đến sau lưng người thiếu phụ ôm
choàng lấy nàng, hai người hôn nhau thắm
thiết. Ông lặng người tê tái, quay
gót bỏ đi.
Về quán trọ, ông viết vội
vài chữ gửi cho vợ, hẹn nàng cho
ông gặp mặt dù chỉ một vài
phút. Ngồi trước mặt vợ, ông nhận
thấy nàng rất đẹp, đẹp hơn
trước nhiều, nhưng cũng không dấu
được nhiều nếp nhăn trên trán
khóe mắt, vành môi.
Để phá tan bầu không
khí ngỡ ngàng. Ông Sinh khen vợ:
“Em. Trông em đẹp lắm
!”.
“Cám ơn anh. Anh qua đây từ
bao giờ? Trông anh già và ốm yếu
quá ! Anh có cần sự giúp đỡ
gì không? Chồng em quen biết rất nhiều.”
Ông Sinh thấy nàng tự
nhiên quá, không có nét xúc cảm
nào lộ trên khuôn mặt. Ông cũng
bình thản.
“Cám ơn em. Anh, chữ nghĩa
tiếng Anh, tiếng u còn kém lắm, vả lại
mới qua chưa cần gấp. Anh muốn gặp con,
nó dạo này thế nào rồi ?”.
Không trả lời vội. Nàng
đẩy ly cà phê sữa tới trước mặt
ông:
“Cà phê Starbuck này ở Mỹ
có tiếng lắm. Em còn nhớ anh thích uống
cà phê nên em kêu. Còn con hả, em cũng
muốn mong gặp nó đây. Mấy năm nay
nó chẳng hề ghé thăm mẹ. Lâu
lâu gọi phôn lấy lệ”.
Ông Sinh nhỏm dậy:
“Em đã làm gì nó? Bây
giờ nó ở đâu? Cho anh xin số phôn
và địa chỉ của nó!
“Nào em biết. Nó không muốn
cho em biết bất cứ điều gì.”
Ông Sinh như chết điếng :
“Em nói thật đó chứ?!”.
“Em không dối gạt anh. Dù
chúng ta không còn là vợ chồng. Nhưng
đối với con, em rất mực thương
yêu. Có anh đây em rất mừng, anh sẽ
lo cho nó. Nó là đứa con rất có hiếu.
Sự việc không hay xẩy ra, hoàn toàn do lỗi
tại em. Anh đi
tìm con dùm em. Cho anh biết thêm là hiện
nay nó đang học ngành y-khoa, sắp ra trường.
Anh cứ đi hỏi mấy trường đại học
xem sao! Em đã dò hỏi khắp mọi nơi rồi,
nhưng vẫn biệt vô âm tín. Anh mới qua
chắc cần tiền bạc, em giúp.”
Vừa nói, nàng vừa mở
bóp lấy cuốn chi phiếu.
Ông Sinh nghe vợ nói một hồi
như lùng bùng lỗ tai. Không cần nghe
thêm, ông xô ghế đứng dậy.
Nhờ những người quen biết chỉ dẫn.
Ông Sinh đăng tin tìm người trên
báo chí cả Mỹ lẫn Việt, cùng
phôn tới tất cả các trường đại
học xa gần, vẫn không có kết quả. Ở
nước Mỹ to lớn này gồm năm
mươi tiểu bang, có biết bao nhiêu trường
đại học mà kể, tìm người
như tìm kim đáy biển, biết đâu
mà mò. Rồi ông lại suy nghĩ vớ vẩn,
nhỡ con bé tự tử. Nghĩ tới, nghĩ lui
làm ông rối trí thêm. Cuối cùng
ông đành buông xuôi cho số phận thời
gian.
Để
mưu sinh và cũng để tạo cơ hội
tìm kiếm, ông ghi danh đi học khóa
đào tạo y công, phụ giúp trong các
bệnh viện, hầu hy vọng có một ngày
nào đó gặp được con mình.
Thời gian cứ thế trôi qua. Ông
đã phục vụ rất nhiều bệnh viện
trong tiểu bang California này mấy năm rối, cũng
thăm hỏi nhiều rồi, sự hy vọng của
ông càng ngày càng giảm, hầu như
tuyệt vọng.
Niềm
vui thú duy nhất của ông hiện thời
là mấy con cào cào xanh, mà ông cất
rất kỹ từ khi thăm nuôi tới giờ,
dù chúng đã khô héo quắt queo. Mỗi
khi nhớ con ông lại mang ra ngắm nghía,
tâm hồn ông lúc đó hoàn toàn
chìm đắm trên khuôn mặt của bé
Mai.
*
Jennifer Trần là một bác sĩ trẻ,
đẹp, làm việc rất siêng năng, cần
mẫn, hay giúp đỡ mọi người. Ai cần
việc gì, khó khăn gì, hay trong nhà cần
chuyện gì, cần người thay thế, bác sĩ
vui lòng giúp đỡ, dù đó là
ngày nghỉ của mình. Bác sĩ đã
có vị hôn phu cùng phục vụ trong
cùng một bệnh viện. Hai người tính
làm đám cưới lâu rồi, nhưng
không hiểu vì sao cứ lần này rồi lại
lần khác, không thể thực hiện được.
Bạn bè thúc giục, khuyên nhủ, nàng
chỉ cười ..
Tuy là người vui tính thích bông
đùa, nhưng bác sĩ Trần vẫn không
dấu được nét buồn của mình. Nét
buồn đó càng làm tăng thêm vẻ
đẹp dịu hiền, mà ai cũng gọi
đùa là “nữ hoàng sầu muộn”.
Dù còn trẻ, nàng vẫn không thích
nơi hội hè đình đám, những chỗ
đông người, mà chỉ muốn sống cho
riêng mình, nhưng đối với bạn hữu,
nàng cũng quậy ra trò.
Hôm nay ông Sinh nghỉ không đi làm. Ông
rảnh rỗi cùng người bạn già đi
thăm cháu gái của ông ta bị bệnh nằm
trong bệnh viện. Tiện thể ông mang mấy con
cào mà ông mới thắt đêm qua, cho
cháu gái làm quà.
Ngày chủ nhật, bệnh viện sao có
quá nhiều ca mổ! Bác sĩ Trần
đã thấm mệt, mồ hôi rịn đầy
trán. Nàng lấy khăn mui xoa chấm chấm mồ
hôi, bây giờ nàng mới thực sự
được rảnh tay.
Bác sĩ Trần đi qua dẫy phòng khoa
nhi để đến phòng ăn, vì từ
sáng đến giờ nàng chưa có cái
gì vào bụng. Những tiếng cười khanh
khách của một bé gái nào đó
vang lên từ phòng khoa nhi. Cảm thấy vui vui
nàng ghé lại nhìn thử. Một bé
gái, nằm quay mặt vào phía trong, hình
như đang giỡn với vật gì đó,
làm cho cô bé khoái chí cười nắc
nẻ. Tính tò mò thúc đẩy,
nàng rón rén lại gần, nhìn vào
phía trong. Bất giác nàng run người
lên, mắt mở trợn trừng. Cô bé
đang cho hai con cào cào xanh đá nhau, hai con
cào cào được thắt bằng lá dừa
xanh , trông thật là đẹp. Nàng run run cầm
lên mân mê. Hỏi : “Ở đâu
bé có hai con cào cào này?”.
Như
sợ bị la mắng, chơi đồ chơi trong
phòng bệnh. Cô bé phân bua :
“Không phải của con mua,
mà của ông già lúc nẫy cho con”.
Bác sĩ Trần không kềm
được xúc động, hỏi dồn:
“Bao lâu rồi ? Ông đi
đâu ?”.
Cô bé hốt hoảng :
“Dạ … dạ, con cũng hổng
biết. Đã lâu rồi!”
Bác sĩ Trần hốt hoảng
bước ra khỏi phòng, dáo dác nhìn
quanh. Mặc kệ cho bụng đói, nàng chạy
từ phòng nọ qua phòng kia, từ dẫy nọ
qua dẫy kia để tìm kiếm. Trước sự
lạ lùng đó, mọi nhân viên trong bệnh
viện đều vây lại hỏi thăm, Nàng
hỏi bâng quơ :
“Có ai thấy ông già
nào đó trong bệnh viện không?”
Trước câu hỏi ngây
ngô đó, mọi người đều không
nín được cười, nhưng không ai
dám cười trước vẻ nghiêm trọng của
bác sĩ Trần.
Trong bệnh viện này, biết bao
nhiêu ông già, bà cả đi thăm con
cháu, người thân. Cảm thấy câu hỏi
của mình quá ngớ ngẩn, nàng cười
gượng :
“Thôi. Không có gì,
cám ơn các bạn.”
Tuy nói vậy nhưng trong lòng nàng vẫn
không yên, tự nghĩ: ”Chỉ có cha
mình mới thắt kiểu đó, nhưng
ông đã chết rồi mà! Chẳng lẽ
vì quá nhớ cha mà đâm ra mê sảng
?!”
Thôi đi ăn cơm!.
Bác sĩ Trần, chính là bé Mai. Từ
khi theo mẹ đi thăm nuôi cha, trở về
nhà, không ngày nào bé không nghĩ
đến cha của mình. Ngày vượt biển
ra đi, bé nhất định không chịu, đợi
ngày cha trở về đi cùng. Vì sự
hăm dọa của ông bà ngoại cùng những
lời khuyên giải của mẹ, bé
đành chịu phép. Sang đến Mỹ bé
nhất định phải học giỏi để
có tiền gửi cho bà ngoại đi thăm
nuôi cha đều đều. Bé sẽ nhẩy cao, sẽ cứng
cáp như những con cào cào xanh mà cha
đã từng nói.
Cuộc vượt biên êm xuôi. Sau hơn
một năm ở trên đảo, bé cùng mẹ
được định cư tại Hoa-Kỳ. Dòng
đời đưa đẩy, mẹ lấy chồng
khác, một anh chàng Mỹ giầu có. Cô
bé có thêm hai đứa em gái.
Giờ đây, bé Mai đã mười
chín tuổi, cái tuổi bước vô ngưỡng
cửa đại học. Càng lớn nàng
càng giống cha. Đã nhiều lần nàng
biên thư và gửi tiền cho ngoại để
hỏi thăm tin tức, cùng sức khỏe của
cha trong trại tù, nhưng không ai trả lời. Có
hỏi mẹ, chỉ được biết :
“Cha con đã chuyển đi ra
ngoài Bắc rồi. Bà ngoại đã
già không thể đi được.”
Nói sao nàng tin vậy. Mỗi lần nhớ
ông, nàng lại mang hình hai cha con ra ngắm. Tấm
hình nàng đã mang theo khi đi vượt
biên.
Sống chung đụng trong cùng một mái
nhà. Điều làm cho nàng ghê tởm, xấu
xa, bỉ ổi nhất là anh chàng Mỹ kia cứ
nhởn nhơ mặc quần lót đi trong phòng
khách. Có lần hắn
đã dám sàm sở ôm nàng sờ soạng
khi không có mẹ ở nhà. Từ đó
nàng đã bỏ nhà đi sang tiểu bang
khác, chỉ biết học và làm việc tự
lo cho bản thân, lâu lâu hỏi thăm mẹ
qua điện thoại công cộng.
Vào một ngày, khi điện thoại về
thăm mẹ, được bà báo cho biết :
Cha đã chết trong tù! Mọi vật như sụp
đổ. Nguồn hy vọng bám víu cuối
cùng cũng không còn. Thế là hết!
Nàng đã khóc đến khô cả
nước mắt, cuộc sống như tẻ nhạt,
chán chường không còn tha thiết gì
nữa! Nàng chỉ biết vùi đầu
vào sách vở cho quên nỗi buồn, và
phải chiến đấu, chiến đấu, cứng
cáp như những con cào cào xanh mà cha
nàng khi còn sống hằng mong mỏi. Cuối
cùng nàng cũng lấy được mảnh bằng
chuyên khoa giải phẫu.
Qua tin tức báo chí. Bác sĩ Trần
được biết các sĩ quan tù cải tạo
được chính phủ Mỹ cứu xét cho
định cư tại Hoa kỳ theo chương tình
HO. Không hiểu sao nàng hồi hộp lạ
thường. Rồi quyết
định bỏ miền đông tuyết phủ, trở
về với nắng ấm Cali.
Hôm nay là ngày lễ Thanksgiving Day,
nàng muốn đi ra biển. Không phải để
tắm hay hóng gió, mà nàng muốn
làm một công việc, công việc này
nàng đã dự tính từ lâu nhưng
vì quá bận rộn nên không thể thực
hiện được. Nhân ngày lễ tạ
ơn, nàng phải làm điều gì để
nhớ ơn cha. Nàng sẽ thắt thật nhiều,
thật nhiều con cào cào thả xuống biển,
để chúng mang lời cầu nguyện của
nàng đến người cha thân yêu. Nàng
tin tưởng rằng ở nơi xa xăm vĩnh cửu
nào đó, cha nàng sẽ nhận được
lời khấn nguyện này. Nàng rủ bác sĩ
Hải (vị hôn phu) cùng đi chơi biển. Chàng
rất thích thú lẫn ngạc nhiên về lời
yêu cầu này, khác với bản tính trầm
lặng không thích nơi ồn ào của nàng
từ trưóc đến giờ, bèn okay chấp
nhận liền.
Trong khi chờ đợi vị hôn phu đi mua thức
ăn. Nàng đã kiếm đựợc khá
nhiều lá dừa xanh, cẩn thận chau chuốt
tước từng lá và bắt đầu thắt
những con cào cào. Nàng để hết
tâm trí vào công việc, chìm đắm
trong niềm thương nhớ cha.
Ngoài kia, sau khi đã mua thức ăn,
trên đường trở về chỗ cũ nơi
bãi biển, chàng thấy một đám con
nít đang vây chung quanh một cụ già Việt-Nam,
trên tay đứa nào cũng cầm một con
cào cào, thấy hay hay chàng cũng xin một
con.
Vừa
đi vừa ngắm con cào cào, chàng cảm
thấy nó rất đẹp và còn có vẻ
oai phong nữa. Chàng sẽ cho vị hôn thê, chắc
nàng sẽ thích thú lắm! Về đến
nơi. Thật, chàng không thể tin vào mắt
mình, nàng cũng đang thắt … con cào
cào.
“Em đang làm gì vậy.”
“Thắt con cào cào.”
Chàng cầm con cào cào mới
xin được, vẫy vẫy trước mặt
nàng.
“Anh cũng có một con.”
Nhìn con cào cào, mặt
nàng tái mét, hỏi dồn:
“Ở đâu anh có
nó?”
Chàng chỉ về hướng
đám trẻ:
“Một cụ già Việt-nam
cho anh.”
Chẳng nói chẳng rằng, nàng nắm tay
chàng chạy như bay về hướng chỉ. Một
ông già, tóc bạc quá nửa, đeo cặp
kiếng lão, hai tay đang thoăn thoắt thắt những
con cào cào. Dù thời gian, tuổi tác
có thay đổi, nhưng với hình dáng
kia, nét mặt kia đã in sâu vào tâm
khảm, nàng không thể nhầm được,
chính là cha nàng. Quá xúc động,
nàng ngất xỉu.
Sự việc xẩy ra quá đột ngột,
bác sĩ Hải hoảng hốt la cầu cứu. Ông
Sinh (vâng, chính ông Sinh) ở vị trí gần
nhất nghe tiếng hét vội vàng nhào tới.
Ông vội thọc tay vào túi quần lấy lọ
dầu xanh thoa lên hai thái dương cô
gái, giựt tóc mai, giựt gân cổ. Bỗng
người ông run lẩy bẩy, tim như muốn ngừng
đập, khi ông thấy nốt ruồi son trên cổ
cô gái, trên tay cô còn nắm chặt
con cào cào. Như có linh tính, ông
định thần nhìn kỹ khuôn mặt thiếu
nữ. Ông gào lên trong tiếng nức nở,
nghẹn ngào:
“Trời ơi! Mai….Mai, con
tôi.”
Cũng vừa lúc xe cứu thương tới
nơi, đưa bệnh nhân lên xe. Ông Sinh,
bác sĩ Hải cũng vội vàng leo lên
theo. Cầm tay con gái, lòng ông Sinh bồi hồi
xúc động, ông không ngờ gặp con trong
hoàn cảnh này. Hai hàng nước mắt ngắn,
dài chẩy trên hai gò má nhăn nheo. Nhưng
ông cảm thấy sung sướng và ấm
áp vô cùng.
*
Tin bác sĩ Trần thị Mai gặp lại
được cha già sau hai mươi năm xa
cách đã loan truyền khắp trong bệnh viện,
một vụ trùng phùng đầy đau
thương, thích thú, khiến ai cũng mủi
lòng.
Hôm nay nhà bác sĩ Mai thật
đông đảo khách tới thăm, bạn
bè, thân hữu nghe tin mang hoa tới chúc mừng.
Trong mấy năm qua , bây giờ mọi người mới
thấy được nét tươi vui, rạng rỡ
thực sự trên khuôn mặt u sầu của vị
bác sĩ mà họ mến yêu. Nhưng, người
sung sướng nhất vẫn là bác sĩ Hải
...
DƯƠNG
THỊNH
(ANH
PHUC sưu tầm, Liêng Hương chuyển)