THƯƠNG NGƯỜI, THƯƠNG
MÌNH
(Trương Ngọc Bảo
Xuân)
Thương Người-
Thương Mình. Thương tới muốn khóc
hay 32 năm Người Mỹ và Tôi.
Bài viết thắng giải
chung kết Viết Về Nước Mỹ (VVNM) do Việt
Báo tổ chức.
Đây là chuyện kể 32 năm của một
cô dâu Việt, về một chàng trai Mỹ,
người bắt Mẹ ký tên cho đi lính
trước tuổi, khi anh mới có 17 để sang
tận bên kia trái đất rồi “mang tui về
trả nợ”, như tác giả Bảo Xuân
Abbott nói đùa.
Nhân dịp Việt Báo
tổ chức 10 năm Viết Về Nước Mỹ,
Blog Mười Sáu hân hạnh được tuyển
chọn bài viết độc đáo này
mà mỗi lần đọc lại đều rưng
rưng nước mắt, đầy cảm động,
với những liên quan tới lịch sử, vận
mệnh của dân tộc ở từng giai đoạn từ 1968 cho tới nay.
Theo thông tin bên lề
thì tất cả những tuyển tập Viết Về
Nước Mỹ hàng năm do Việt Báo Nam
California xuất bản bằng cách này cách
khác đều được in ra bán vô tội
vạ tại Việt Nam và được nồng nhiệt
hoan nghênh, đón nhận cuả độc giả quốc
nội. Tuy nhiên điều
đáng nói ở đây là câu
chuyên ” 32 năm người Mỹ và
Tôi” tác giả
Trương Ngọc Bảo Xuân, bài viết thắng
giải chung kết đầu tiên của VB.
đã được họ cẩn thận lấy ra,
không cho in …. điều
thắc mắt này xin
dành quyền cho quý bạn đọc nhận
xét.
*****
Hàng ngàn
người. Có thể cả chục ngàn,
trăm ngàn, rồi cả triệu không chừng.
Những người Việt tan tác khắp nơi,
chưa gặp, chưa quen… Lạ thay, khi không bỗng
thấy nhau thân thiết. Thân tới mức mang cả
chuyện nhà của mình ra kể cho nhau nghe.
Toàn những chuyện khổ đau, oan ức, tang
thương đã bao năm nuốt xuống. Giải
Thưởng Việt BáoViết Về Nước Mỹ
hàng ngày cho tôi cảm giác ấy. Khi viết,
khi đọc, thấy thương người,
thương mình. Thương tới muốn
khóc.
Và bây giờ,
bạn thân mến,
Đến
phiên tôi kể chuyện nhà cho bạn nghe.
Viết về
nước Mỹ, được rồi, đang sống ở
Mỹ mà. Viết về người Mỹ, tìm
đâu cho xa. Tôi muốn nói về người
đi bên cạnh tôi 32 năm qua: David, chồng
tôi.
Cuộc đời
giống như cuốn sách dán hình kỷ niệm.
Mấy chục năm gom vô vài trang giấy.
Ngược giòng thời gian. Giở lại từng
trang…
*
1968, Năm Mậu Thân
Ngày 28
tháng 5, cư xá Cảnh Sát Phú Lâm A
đường Lục Tỉnh quận 6 Chợ Lớn.
Cộng Sản tấn
công Sài Gòn lần thứ hai, đặt bộ
tư lịnh tại khu cư xá Phú Lâm A. Gia
đình tôi cư trú tại đây. Ba
tôi là Cảnh sát, tùng sự tại
phòng Giảo Nghiệm, Tổng nha Cảnh Sát Quốc
Gia ở đường Võ Tánh, Sài Gòn.
Ba tôi bị cộng
quân chận bắt, bắn chết tại chỗ. Một
viên đứt yết hầu, một viên xuyên
bao tử. Hai chị em
tôi chứng kiến cảnh Ba bị bắn chết.
Tôi nâng đầu, máu nóng vọt ra. Ngọc
Anh đỡ chân, máu nhễu dài xuống
đất. Hai chị em lệt bệt, khiêng, rớt
… khiêng, rớt … vừa khóc vừa
khiêng thây Ba tôi về nhà. Em tôi mới
15 tuổi, mặt đầy nước mắt, hai
bím tóc, bộ đồ trắng loang
máu. Khoảng
đường gần 100 thước đó dài,
nặng, đau đớn, uất ức, hận thù,
khắc sâu vô tim, vô óc, vô suốt cuộc
đời chúng tôi.
*
1969, Giã Từ Các Bạn
Một ngày
tháng giêng anh rể tôi đem về giới
thiệu người bạn vừa ra lính Hải
quân, David. Mới 20 tuổi, mắt sáng, tóc
đen xanh, ốm gọn, nhanh nhẹn, rất lịch sự,
đàng hoàng. Tôi thấy cảm tình.
Những người
bạn học đã vô lính. Mấy đứa
bạn gái vừa có chồng, chồng chết trận,
tay bồng con thơ; tôi làm việc lương
tháng ngàn mấy không đủ may áo
dài bận đi làm, lấy đâu giúp mẹ
nuôi đám em?
Khi Ba chết,
đám em tuổi từ 15,13,10,7,5 và đứa em
út (Thúy Phương) chưa đầy 3 tuổi.
Má tôi vợ công chức chỉ biết nội
trợ. Người chồng tốt, người cha hiền
đã bị bắn chết. Con không cha như
nhà không nóc. Là chị lớn của lũ
em, thân con gái, biết làm sao đây?
Tôi đã
nguyện với lòng sẽ tìm đủ
cách để đi khỏi nước Việt Nam, khỏi
nơi đầy thù hận, đầy bất
công, đầy tủi nhục. Và đó, David
tới đúng lúc. Chính y sẽ đem
tôi ra khỏi vùng u tối và nhờ
đó tôi sẽ tìm cách đem gia
đình đi luôn. Thôi, giã từ các
bạn, tôi rẽ qua ngả khác từ
đây.
Tôi nhận lời
làm đám cưới với y.
Đang để
tang ba. Đám tang với đám cưới, gần
quá. Tôi chọn đúng ngày Ba bị bắn
làm ngày cưới. 28 tháng 5. Cho trộn lẫn
vô nhau, trong tim, trong óc.
Đâu phải
lúc tiệc tùng. Tất cả tại nhà, giản
dị trước bàn thờ tổ tiên. Không
hột xoàn, không vàng bạc, chỉ có lời
vái hương hồn Ba. Xin Ba phù hộ cho ước
nguyện của con: đem được Má và mấy
đứa em ra khỏi địa ngục nầy. Tôi
tự hứa sẽ là người vợ tốt suốt
đời.
Chúng tôi ở
chung với gia đình, trên căn gác nhỏ.
David làm việc cho một ông bầu chuyên
đem những dàn nhạc hát cho lính Mỹ
nghe.
*
1970, Lần Đầu Tới Mỹ
Tháng 3,
tôi sanh đứa con trai đầu lòng, tuổi
Tuất , tên Lawrence Long .
Tội nghiệp
đứa con so, 7 tháng đã ra đời.
Cân nặng có 1 kí 700 gram, nhà
thương Đức Chính (đường Cao Thắng)
giữ trong lồng kiếng 24 giờ. Giao lại tôi,
cô y tá cho hay “bé không biết
bú”. Trời đất ơi, tôi biết
làm sao?
Má tôi dạy
“con nặn sữa ra, lấy cái ống nhỏ thuốc,
hút sữa lên rồi nhỏ từng giọt
vô miệng nó. Thấy hông, cái miệng
nó nhỏ hơn đầu vú, làm sao mà
bú bình thường được.”
Nhờ kinh nghiệm
và sáng kiến của Má, con tôi qua khỏi
mấy tháng đầu hung hiểm.
Lúc
đó David làm lương tháng khoảng 3, 4
trăm đô. Một hôm đi làm về, say
nhừ, vừa khóc vừa kể:
- Bạn tôi mới
bị quân khủng bố liệng lựu đạn,
chết rồi. Sống ở đây lúc nầy
nguy hiểm quá.
Tháng 11 vừa
hết giao kèo y đòi trở về Mỹ.
Chúng tôi
đi lo thủ tục đem đứa em trai duy nhứt của
tôi theo mà không được. Bởi tôi
còn ngây thơ, không biết là
đút tiền thì tới đâu cũng tới.
Đành cắn răng, gạt nước mắt,
ôm con theo chồng. Tôi hẹn ngày trở về
vì bổn phận đối với gia đình
chưa tròn. Tôi phải tin bên kia đám
mây đen vẫn là ánh mặt trời.
Tôi tới Mỹ
lần đầu ngày 22 tháng 11 năm 1970, bụng
mang thai 5 tháng
Mẹ chồng, chị
chồng tên Elaine ra tận phi trường Portland thuộc
tiểu bang Oregon đón. Bước xuống phi
trường, đèn sáng trưng, rực rỡ.
Không khí tưng bừng nhộn nhịp, tôi
như con ngáo, thấy mình càng nhỏ
bé. Rồi, phố lớn, nhà to, cây đầy
trái, rụng đầy sân. Ngồi trong xe hơi
rộng rãi tôi cứ lấy mắt mà
ngó, mà ước thầm, “phải chi
Má với mấy đứa nhỏ qua được!”
Con người ta
chỉ một lần sống, tại sao dân Mỹ
quá sung sướng , dân mình thì
nghèo khổ chiến tranh?
Cầm chùm
nho lên ăn, nhớ tới mấy đứa em
mà ứa nước mắt !
Cô chồng
đãi bữa ăn lễ Tạ Ơn lần đầu
tiên. Thịt gà lôi sao mà ngon, ngọt.
Bên chồng
thay phiên ẵm Lawrence. Suốt ngày tôi ở
ngoài sân sau, hái quít hái bom, vừa
hái vừa tiếc hùi hụi mấy trái rụng
đầy dưới đất.
Nhà chồng
thấy tôi nhỏ xíu, ai cũng thương.
Qua lễ, lái
xe xuống thị trấn Coquille thăm người
cô thứ nhì. (David có 5 người cô, 5
người chị và hai người chú).
Trên đường đi, David ngừng lại thăm
mộ của cha; kế bên là miếng đất
má chồng đã mua sẵn, dành cho bà.
Ông bà
dì dượng chồng cho ở tạm trong cái
nhà xe một phòng khoảng hai tuần. Mỗi
đêm, leo lên cái giường rộng,
không có mùng, trống lốc, trùm liền
cái mền điện. Cái ấm nhân tạo
không đủ sức ngăn cái lạnh cắt
da, cắt thịt.
Nửa đêm
nhớ nhà quá, tôi khóc. David ngồi dậy,
gởi con cho bà nội, chở tôi ra bờ biển.
Biển nầy là biển gì tôi cũng
không biết, nhớ nhà quá đâm ra ngu
ngơ. Vậy mà y kiên nhẫn, không nói
gì, chỉ đem tôi ra biển. Có lẽ y muốn
tôi nhìn về hướng Đông?
Một hôm mỏ
ác trên đầu con tôi tự dưng nổi
phồng lên. Đem vô nhà thương, khi
bác sĩ vừa cho biết phải thử nước
trong tủy xương sống của nó để
định bịnh, tôi ngã cái đùng bất
tỉnh. Rốt cuộc cũng không biết bịnh
gì. Có thể nó chịu lạnh không quen,
cơ thể phản ứng tự nhiên, xương sọ
phồng lên để bảo vệ bộ óc
bên trong? Báo hại mang cái nợ gần
trăm bạc.
Người anh chồng
kêu qua Tucson, tiểu bang Arizona, hứa sẽ giúp
cho việc làm.
Nghe nói
đó là xứ nóng, tụi tôi đi liền.
Gom va ly quần
áo, thùng sách tiếng Việt, hình ảnh,
mấy cái nón lá … gọn gàng trong
chiếc xe Uhaul loại nhỏ nhứt, còn rộng
rinh. Mùa đông trời lạnh thấu
xương, quần áo không đủ ấm, ngầy
ngật vì phải vặn máy sưởi suốt
đoạn đường dài.
Bụng nặng nề,
ngồi triền miên, phải để Lawrence nằm
dưới sàn xe. Tội nghiệp con tôi, tới
nơi mình mẩy nó nổi đầy phong đỏ.
*
1971, Sanh Con Tại Mỹ
Ở tạm
nhà cháu Rea, David phải đi làm nghề
đổ xăng, lau kiếng xe hết hai tuần rồi
mới được vô làm trong hầm mỏ lộ
thiên đào chất đồng đỏ, tên
Anaconda Copper Mine.
Mỗi sáng
đi làm, y vừa tra chìa khóa mở máy
xe vừa khấn thầm “Nổ máy. Nổ
máy. Nổ máy!” Trời còn tối
mò, y mặc bộ đồ đồng phục
màu xám đen, đầu đội nón sắt,
tay xách hộp đồ ăn trưa, mặt mày
còn sáng sủa. Buổi chiều về, sau một
ngày trộn lẫn với bụi đất cùng
mồ hôi, chồng tôi da trắng trở thành
da đen!
Việc làm nầy
cứ mỗi tuần là đổi ca sáng tối.
Nhiều đêm y phải bận bộ đồ
lót giữ nhiệt (thermal underwear) vậy mà vẫn
còn lạnh run. Y lái xe đào và đổ
đất, thứ xe có cả chục cái cần
sang số, y giải thích, nhưng, ngôn ngữ bất
đồng tôi cũng không hiểu gì mấy.
Lương một
tuần 93 đô, mướn cái nhà hết 90
một tháng. Đây là nghe lời bà
má chồng, tiền mướn nhà chỉ
nên bằng một phần tư tiền lương
tháng thì mới đủ sống.
Tôi đang mang
thai, thèm cá kho tiêu, một chai nước mắm
kiếm không ra, có khi chảy nước mắt.
Chị chồng
tên Pat đưa tôi đi thăm thai. Chị phải
ẵm thằng lớn ngồi đợi ở ngoài,
một mình tôi vô với cô y tá.
Cô ta chỉ qua phòng restroom, nói một hơi
một tràng. Tôi đoán mò, nghĩ
là cổ hỏi mình có mắc đi tiểu
hông, tôi liền lắc đầu. Cô ta
không chịu, cứ vừa chỉ vừa nói,
càng nói tôi càng không hiểu. Khớp
quá, tiếng Mỹ văng đâu mất hết
trơn. Sau cùng, cô ta chịu thua. Chừng về
nhà, bà chị chồng vừa cười ngất
vừa kể, David “dịch” lại, tôi mới
hiểu ra. Thì ra cô y tá kêu tôi vô
tiểu trong cái ly để sẵn, dán giấy
lên rồi đề tên mình, đưa cho cổ
đặng cổ thử. Quê một cục! Thôi,
lần sau.
Thấy tôi gần
ngày sanh, chị dặn David sáng trước khi
đi làm, đem mẹ con tôi qua nhà, con
gái chị, Linda sẽ nấu cho tụi tôi ăn
luôn, vừa canh chừng, sợ tôi chuyển bụng
bất tử.
Tháng 3 sanh
đứa con trai thứ nhì, tuổi Hợi, đặt
tên Tommy Phương.
Chỉ sanh thiếu
một tháng mà nhà thương giữ
nó lại hơn 30 ngày. Nuôi từ 5 pound 3
ounce cho tới đúng 6 pound mới cho về. Thiệt
là khác biệt quá đáng giữa nước
nghèo với nước giàu. Ở
Sàigòn mẹ nằm 1 tuần, trả tiền
phòng, về là xong. Ở Mỹ, 2 ngày mẹ
bị đuổi về, con giữ lại. Sanh xong mắc
cái nợ hơn 4000 ngàn đô, trả
góp gần 6 năm mới hết.
Được một
chuyện hi hữu là hai anh em nó sanh cùng
ngày cùng tháng, đứa lớn 11 giờ
rưỡi sáng, đứa nhỏ 9 giờ 45
sáng, cách nhau 1 năm. Sau nầy, năm nào
làm sinh nhựt hai anh em chỉ tốn một cái
bánh, đứa phân nửa .
Không biết
có phải lúc mang bầu tôi quá buồn
phiền, thèm ăn thèm uống, ảnh hưởng
tới bào thai hay không mà Tommy bụng dạ rất
yếu. Cứ bú vô là ọc ra.
Má chồng
tôi từ tiểu bang Nevada tới nuôi cho hai tuần.
David làm lương ít, chỉ đủ sức
mua loại tã bằng vải, xài xong bà
má chồng tiếp giặt giũ. Bà cũng chỉ
tôi mua loại sữa bột tự pha rẻ hơn.
Nhờ bà
mà tôi học được cách làm
bánh mì, mứt dâu mứt cam. Bà là
người rất khéo nấu ăn.. Khi chồng chết
(lúc David mới có 9 tuổi ) bà phải mở
một quán ăn nhỏ để sinh sống.
Bà dạy:
- Con cần
nên học một nghề, nghề gì cũng
được. Lỡ chồng có chết bất tử
mình còn có thể đi làm nuôi
thân và nuôi con. Đừng như má
đây, chỉ biết nấu ăn cho nên phải
làm nghề đứng nấu bếp, cực lắm.
Tôi thấy lời
bà rất đúng vì phải khòm lưng
ở cái lò nướng mà lưng bà
còng hẳn đi.
* Dọn
nhà
Khi Tommy được
4 tháng mấy, thấy chồng cực khổ quá
sức, chịu không nổi, tôi bàn nên dọn
qua thành phố Reno, tiểu bang Nevada. Thành phố
cờ bạc, việc làm có lẽ đỡ cực
hơn ở đây; vả lại, có mẹ
có dì dầu sao cũng không đến đỗi.
Trên đường
đi, đồi non, đồi già, núi đồi
đầy sỏi đá mà vươn lên hằng
hà sa số, ngàn trùng rừng xương rồng.
Bông đủ màu trắng toát, đỏ
tươi, vàng chói, tím ngát, đẹp
quá trời là đẹp. Tôi lính
quính kêu:
- Ngừng ngừng
ngừng. Ngừng cho tôi xuống đào một bụi
đem theo.
- Cây của tiểu
bang. Đào một cây là bị phạt 500
đô !
- Trời ơi,
cây cả đồi mà hổng cho đào một
cây. Vậy ngừng cho tôi hái một cái
bông.
David tỉnh
bơ.
- Bông cũng
không được hái.
- Ở đây
giữa sa mạc ai mà biết.
- Tôi biết,
mình biết. Nhiều người cứ tưởng
nhân viên kiểm lâm không thấy, chừng
bị phạt rồi mới nói sao xui quá.
Anh chồng Mỹ
biết tánh cô vợ Việt. Y đánh
đòn tâm lý là tôi thua liền. Nghe
giá 500 đô là tôi làm toán. (500
mua được nhiều thứ. Mua đồ cũ
đầy đủ: tủ+giường, + chén
bát, ….. tội gì vì cái bông
để bị chính phủ ăn). Vậy là
tôi im.
Thiệt xứ sở
gì mà luật lệ quá gắt gao. Nhưng,
phải đụng vô túi tiền thì
thiên hạ mới sợ. Với lại, nếu ai cũng
như tôi, thấy bông thì hái, thấy
cây thì đào, rừng nào chịu thấu,
lấy đâu để lại hậu thế
chiêm ngưỡng?
Tới nơi,
chúng tôi phải ở tạm dinh thự của
nhà triệu phú, Mr. Hardy, nơi má chồng
tôi đang làm quản gia cho ông. Ông
là người hết sức tử tế. Ngày
xưa ông là kỹ sư ngành hỏa xa. Trong
phòng khách còn treo một chùm đèn
bằng pha lê hình dạng giống như chùm
đèn ở Tòa Bạch Ốc nhưng kích
thước nhỏ hơn, đã được
ông cựu Tổng Tống Roosevelt trao tặng.
Đi xin việc
làm, ngày nào về David cũng vừa lo lắng,
vừa buồn vừa tức tối. Thời buổi
đó, dân Mỹ đang cơn sôi động,
chống chiến tranh, đòi chồng đòi con
. Họ nhìn chúng tôi, một cựu quân
nhân về từ Việt Nam và người
đàn bà Việt đã chiếm chỗ một
công dân của họ bằng những con mắt
lãnh đạm. Sự thù hằn, ghét bỏ
đó là chuyện thường tình của
thế gian. Tôi thường khuyên chồng:
- Tôi hiểu
người Mỹ lắm. Họ mất chồng, mất
cha, mất con, mất người yêu, sự đau khổ
ở nước nào cũng ngang nhau. Đừng
nên để tâm. Cứ kiên nhẫn đi xin,
thế nào cũng có việc làm.
Đúng
như vậy, David được nhận làm người
giữ an ninh cho casino tên Nevada Club .
Vài tháng
sau tôi kiếm người giữ con, cũng đi
làm trong casino The Nugget, nhiệm vụ đổi tiền
cho khách. Nếu có sự hiểu biết như
bây giờ, tôi đã không bỏ con đi
làm như vậy. Tiền kiếm ra có giữ
được đâu. Thời gian qua rồi là
không trở lại. Các con lớn lên mình
không gần gũi nhiều, tiếc thay!
Tuy cả hai
cùng có công ăn việc làm, chúng
tôi sống như chân không chấm đất.
David thường hay uống rượu say sưa, tôi
vô cùng buồn bã. Lúc đó, David coi
tôi như … không khí, hổng cần giữ
cũng chẳng mất đi đâu. Trong vòng
mười mấy tháng, dọn nhà mấy lần.
Và cũng mấy lần, tôi muốn bồng con
đi. Rồi tôi nhớ lời nguyền của
tôi trước bàn thờ ngày cưới. Rồi
tôi nhớ lời Má tôi hay nói:
- Ba năm là
tình, ba chục năm là nghĩa.
- Đồng vợ
đồng chồng, chuyện gì cũng xong.
Rồi tôi nhớ
lời Ba tôi khi còn sống:
- Nhịn đi con
ơi (Thôi được, nhịn một chút cho
con có cha có mẹ)
Rồi tôi nhớ
lời thầy tôi (soạn giả Lê Hoài Nở,
dạy ở trường Quốc Gia Âm Nhạc
và Kịch Nghệ , đường Nguyễn Du,
Sàigòn). Thầy đã dạy:
Chồng
giận thì vợ làm lành
Miệng
cười tủm tỉm……rằng anh giận
gì ?…
*
Chồng
bước tới, vợ bước lui,
Bước
lui một bước, êm xuôi cả nhà.
Tôi tự nghĩ:
“Không có trường dạy làm chồng,
làm cha, làm vợ, làm mẹ. Ai cũng phải
tự học cho nên cần một thời gian hơi
… lâu”.
*
1973, Trở Lại Việt Nam
Tháng 2 năm
đó, một buổi chiều đi làm về,
David hớn hở hỏi:
- Muốn về Việt
Nam không?
- Muốn chớ,
mà sao hỏi vậy?
- Hiệp định
Paris. Việt Nam hóa chiến tranh. Không coi tin tức
à?
- Tôi coi
chương trình Sesame Street. Đang học tiếng Mỹ
mà. Tin hồi nào?
- Mới
đây. Mình sửa soạn về Việt Nam.
Mượn tiền
má chồng đủ mua ba vé máy bay rưỡi
(phải đi trước khi Tommy hai tuổi vì
trên hai tuổi phải mua nguyên vé).
Về lại Việt
Nam, đọc báo, tôi biết đây là
thời gian nhà báo văn nghệ sĩ “xuống
đường”. Tôi không hiểu rõ nghĩa
“xuống đường” là gì.
Đây cũng là lúc tôi đọc
được những sách “Giải khăn
sô cho Huế” của nhà văn Nhã Ca
và cuốn “Mùa Hè Đỏ Lửa”
của Phan Nhật Nam.
Theo lời con em Ngọc
Anh, đang là thời gian thi hành hiệp định
bốn bên: gồm Mỹ, Nam Việt Nam , Bắc Việt,
Mặt Trận Giải Phóng. Mỹ đang từ từ
giảm viện trợ, rút cố vấn, rút
quân Mỹ, thu xếp trả tù binh.
Vì mừng
quá, chúng tôi không cần biết gì về
tin tức chiến tranh. Sống gần gia đình
ngày nào hay ngày đó.
David được
nhận làm cố vấn cho binh chủng Hải
Quân, ngành truyền tin, với tính cách
công tra dân sự, đóng ở vịnh Cam
Ranh. Tôi gởi hai đứa nhỏ cho mấy em, theo
chồng kiếm nhà ở. Đi mà tôi
đã quên một điều: gia đình
tôi, chỉ là những người xa lạ đối
với hai đứa nhỏ. Tommy vì nhớ cha nhớ
mẹ, nó bịnh nặng, nằm thoi thóp, tưởng
đâu tiêu rồi. Lúc đó má
tôi theo mấy dì buôn bán quần áo
con nít ở chợ Cầu Ông Lãnh. Buổi
chiều về , má bồng nó đi bác sĩ
liền, nó mới còn tới ngày nay. Thiệt
tình, tôi làm mẹ quá dở.
Mới đầu,
ở sau nhà đại úy Đương (chủ
cây xăng gần cây số 9 ngoài cổng
căn cứ Cam Ranh). Vài tháng sau dọn vô ở
khu Đài Thu (Receiver Site) sát bãi biển,
và cuối cùng ở Trung tâm Hải Quân
(Main Naval Base, Market Time).
Đây là
thời gian vui nhứt của đại gia đình.
Má với mấy đứa em thay phiên nhau lên
chơi. Bãi biển Cam Ranh đẹp vô cùng.
Có đảo Bình Ba có chợ Đá Bạc
. Nhờ ở đây tôi mới biết và thấy
những con rùa biển lớn bằng cái
bàn (dân địa phương kêu là con
Vích). Cam Ranh cũng là một trong ba chỗ
trên trái đất giống rùa nầy
lên đẻ trứng. Có một đêm theo mấy
người lính rình coi . Nó đào lỗ,
rặn một hơi cả trăm cái trứng,
móp móp, ướt ướt, rồi dùng hai
cái chân lấp đất, dấu xong, bò trở
xuống biển. Mấy người lính đào
lên đem về. Đôi khi, họ bắt luôn
con rùa.
David hay nói :
- Sao người
ta không chừa vài cái trứng. Ăn hết
như vậy làm mất giống rùa !
Ngoài con
rùa biển lớn còn có con kỳ nhông
màu đỏ. Sau nầy về Mỹ tôi mới
biết người Mỹ khám phá ra loại nầy
dùng để chữa bịnh. (bịnh gì
quên rồi )
Đám em
tôi theo mấy người lính, nói thịt
rùa đỏ tươi ăn như thịt bò,
kỳ nhông cũng ăn thử, khen, như thịt
gà!. Thiệt, mấy đứa em tôi ăn uống
“dã man”. Tôi sợ, không dám
ăn. Ở đây, nghe nói cũng là xứ
nhiều cọp. "Cọp
Khánh Hòa, ma Bình Thuận" mà. Trong
khu căn cứ còn có một cái hồ cọp
thường xuống uống nước. Mỹ đặt
tên là Tiger Lake.
Ngày 9
tháng 8 Tổng Thống Nixon từ chức.
Chúng tôi
ngày nào cũng vùng vẫy dưới biển.
Ăn món gì cũng ngon. Lúc đó David
làm lương tháng chỉ trên 400 đô.
Đâu có sao. Cha mẹ vui thì con cái cũng
vui.
*
1974, Rút Hết Về Mỹ
Cuối năm,
tháng 12, một ngày sửng sốt. David về, hối
hả:
- Sửa soạn về
Mỹ.
- Cái gì ?
Sao vậy?
- Mỹ phải
rút hết. Mình có nghe đài Hoa Kỳ
không? Nó đệm bản nhạc White Christmas suốt
ngày là hiệu báo Mỹ dân sự phải
rút hết.
- Trời đất
ơi, đi liền sao?
- Đi liền. Về
Sài gòn làm thông hành cho con.
Thử thời vận
lần thứ nhì, tôi ra Bộ Nội Vụ hỏi
cách thức đem thằng em trai duy nhứt theo. Họ
cho biết đem em không được, nhứt
là con trai, nhưng, con riêng thì được.
Vậy là, tự
nhiên tôi có hai đứa con gái riêng
(xin chính phủ Mỹ tha thứ cho tôi).
Tin chiến sự
cho hay quân Trung Cộng dùng đầu đạn hỏa
tiễn (Guided Missle) bắn chìm một chiến hạm
Mỹ viện trợ cho Việt Nam (chiếc Destroyer
Escort), chỉ sống sót một quân nhân. Trung
Cộng ỷ mạnh hiếp yếu chiếm đoạt
đảo Hoàng Sa, một cái một!
Ngày 24
tháng 12 năm 1974 chúng tôi trở về Mỹ,
tới Louisana ở tạm nhà bà chị.
* Thề
thoát cảnh nghèo đói
David xin được
việc làm, tài xế lái xe đào đất
cho hãng thầu xây cất nhà cửa, loại
nhà 25.000 đô một căn. Những tưởng
cuộc sống tạm yên, nào ngờ, nền
móng xây xong, David bị
layoff.
Tôi nhớ
ngày đó, sự thất vọng và tức
tối hiện rõ trên mặt, nước mắt
muốn trào ra của y. Anh rể còn trong Hải
Quân, chị tôi theo chồng. Chúng tôi
trơ trọi.
“Giải
pháp Reno” là có nhiều hy vọng. Lại
kêu gọi tới má chồng gởi xuống 500
đô.
Bạn hãy
tưởng tượng hai người lớn, bốn
đứa nhỏ cùng quần áo đồ đạc
chen nhau trong chiếc xe nhỏ xíu, trong tay có khoảng
675 đô, vượt hơn 1,500 miles. Nửa chừng
xe bị gãy nhíp ngừng sửa, tiêu hơn
trăm rưỡi. Dọc đường chỉ đậu
ở chỗ bãi xe hàng , nghỉ đỡ 1, 2 tiếng.
Ăn uống luôn trong xe, David lái một mạch
72 tiếng đồng hồ, xuyên qua mấy tiểu
bang, giữa trời bão tuyết!
Tới Reno 1 giờ
trưa.
Đậu xe
bên lề đường David đi bộ tới
Casino để tìm việc. Ngồi lâu nóng ruột
dặn hai đứa em coi chừng cháu , tôi cũng
xuống xe đi lòng vòng coi có việc
gì làm đại hay không. May mắn tôi
được nhận liền chân bồi phòng ở
nhà trọ tên Caravan.
Khi trở lại
xe đã quá 3 giờ. David đi tới đi lui,
tức tối:
- Đi đâu
vậy? Tôi có việc làm, phải bắt
đầu lúc 2 giờ, bây giờ trễ rồi,
ai mà cho vô nữa.
- Không sao,
tôi có việc, ngày mai bắt đầu.
Tìm chỗ ở.
Motel Atlas, một phòng ngủ, có bếp nhỏ, tủ
lạnh
Chiều hôm
sau tôi đi làm về, David mặt mày một
đống:
- Hôm nay
tôi đi nộp đơn lãnh tiền thất
nghiệp. Nó làm như mình đi xin vậy.
Tôi không trở lại đó nữa
đâu.
- Thì cũng
phải ráng chớ sao. Lãnh tiền đó
trong khi chờ kiếm việc. Chẳng lẽ để mấy
đứa nhỏ đói?
Chúng tôi sống
chật vật như vậy hết một lúc.
Bạn ơi,
đây là thời gian khủng hoảng, xuống
tinh thần nhứt. Lương tôi một tuần 63
đô, trả tiền phòng hết 60, còn lại
bao nhiêu? Mỗi ngày dọn phòng, khách
để lại cho mấy chục cents, một đô
là mừng lắm.
Tôi bán
đầu tiên cái kiềng trơn hơn một
lượng vàng 24 kara chưa từng đeo, rồi cặp
nhẫn vàng Má tôi cho trước khi đi với
lời dặn “để dành chừng nào con
đói bán lấy tiền cho con ăn”, rồi
cặp nhẫn xoàn má chồng cho.
Mỗi tuần mua
hai hộp cereal hiệu Captain Crunch loại hột tròn
tròn có đậu phọng (thằng con lớn tới
bây giờ vẫn còn nhớ mùi vị
đó) 1 đô 10 ổ bánh mì, loại
bánh mì gần ngày hết hạn , nhưng
vì ăn trừ cơm cho nên mau hết, không sợ
hư ! hai hộp mứt, hai keo đậu phọng
nát, hai hộp cacao pha sữa, một bịch gạo
hai cân (chỉ nấu cháo) nhiều bắp cải,
có khi 1, 2 con gà là món ăn của 6
người. Cũng may, hai đứa em đi học ,
được ăn uống đầy đủ, mỗi
ngày để dành đem về cho hai đứa
cháu mấy trái cam trái bom, vài cái
bánh !
Còn nhớ một
ngày bà dì chồng mời ăn bữa tối.
Thiệt là một bữa ăn nhớ đời,
đang đói mà!
Chồng tôi,
người Mỹ, sống trên đất Mỹ
mà cũng trải qua thời gian đói khổ, cũng
như quí vị sau tháng 4 năm 1975.
Tôi lại mắc
thêm một lời thề nữa. Tôi thề sẽ
không để con tôi đói khổ …
Từ đây,
tôi tập nhìn đời bằng con mắt
khôi hài, chuyện gì cũng thấy nhẹ bớt
đi. Và rồi cái đói khổ không
kéo dài lâu.
Tôi xin
được việc làm trong một hãng may
màn, tấm trải giường, áo gối, đồ
làm bếp…
Có biết may
vá gì đâu. Có lẽ họ nhận
vì cái mặt Á Đông của tôi.
Ngày đầu tập sự tôi hỏi việc
cho chồng, gặp ông giám đốc tử tế,
y đắn đo một hồi rồi nói:
- Thông thường
chúng tôi không nhận vợ chồng làm
việc chung, nhưng lần nầy tôi phá lệ.
Việc gì cũng đủ người rồi nếu
chồng you muốn thì vô làm việc sắp
đặt máy may, dọn dẹp hãng.
- Thiệt là
…. Đội ơn ông.
Mỗi ngày
tôi ngồi vật lộn với cái máy.
Máy gì chạy lẹ quá trời ! Vừa
đặt miếng vải vô nó làm một
cái rẹt níu không kịp. Mỗi ngày
nhìn anh chồng Mỹ cầm cây chổi quét
hãng mà ứa nước mắt.
Sau một
tháng đi làm khi trời còn tối, về
nhà thì trời đã tối rồi!, hết
việc dọn hãng.
David hỏi
ông giám đốc :
- Trong hãng việc
nào làm lương cao nhứt ?
- Trừ việc
quản lý, chỉ còn việc làm sửa
máy may là lương cao.
David nói:
- Tôi có
kinh nghiệm sửa máy kéo tiền trong Casino.
Ông cho tôi thử nghề sửa máy may trong hai
tháng, nếu làm không xong tôi sẽ tự
động xin thôi.
Từ nghề sửa
máy, David được lên chức phụ tá
quản lý.
Ông Harvy,
người ân nhân đã mất năm 1977.
Chúng tôi không bao giờ quên ơn ông.
Ông biết nhìn người, ông đã khởi
đầu, hướng dẫn nghề nghiệp, cho chồng
tôi có cơ hội xử dụng khả năng,
vượt qua cảnh nghèo.
*
1975, Thắt Ruột, Thắt Gan
Bắt đầu
từ tháng ba Ngọc Anh gởi thơ với tin tức
chiến sự, càng ngày càng sôi động.
Miền Nam thật sự trong cơn dầu sôi lửa
bỏng. Qua tháng tư , mỗi ngày coi tin tức,
thấy bản đồ chữ S bị màu đỏ
nhuộm lần lần từ vĩ tuyến 17 xuống miền
Nam, ngày nào ba chị em tôi cũng khóc. Sự
lo sợ, nóng ruột nóng gan không còn nghi
ngờ gì nữa, màu đỏ xuống tới
Xuân Lộc, rồi Long Khánh, miền Nam lọt
vô tay cộng sản là cái chắc.
Ngồi may mà
nước mắt tuôn ra, tới nỗi cô bạn
nhỏ người Hong Kong, tên Siu Woo, chịu không
thấu. Sẵn máy sẵn vải dư, nó may liền
một cái túi, đi vòng vòng hãng
xin tiền đồng nghiệp cho tôi. Thiệt
có gặp cảnh khổ mới thấy người
có lòng, nhứt là người nghèo.
Nó xin được hơn trăm bạc. Rồi bà
má chồng và ông giám đốc tốt
bụng, cho chúng tôi mượn tiền gởi chị
tôi cùng chồng trở về Việt Nam tìm
cách rước gia đình. Nhưng, máy bay chỉ
hạ cánh ở Thái Lan vì đã
được lịnh không thể đáp xuống
Việt Nam. Vậy là hết đường !
Đài truyền
hình loan báo chiến hạm Mỹ đang neo
ngoài khơi, ai ra tới sẽ được vớt.
Lộ trình di tản, người ta chết trên
đường lộ, chết chưa ra khơi, chết từ
trên không trung rớt xuống. Một máy bay di
tản trẻ mồ côi bị Cộng quân bắn
hạ, mấy trăm trẻ chết hết???.
Đau đớn
biết bao cho những người lính Cộng
Hòa đã bị bỏ lại. Càng coi
càng thắt ruột thắt gan.
Cuối tháng
Tư, trong tình trạng vô cùng tuyệt vọng,
kể như sẽ không còn nhìn thấy mẹ
và mấy đứa em nữa. Thình lình,
đêm 29, khoảng 2, 3 giờ sáng, má chồng
tôi kêu, nói, có người nào từ
phi trường Hawaii cho hay má và mấy em
đã rời Việt Nam.
Thủy quân Lục
Chiến Mỹ làm hàng rào nhân sự, cầu
không vận giờ chót đã bốc gia
đình tôi ra khỏi địa ngục. Mừng
quính, David liên lạc được với phi
trường, nghe tiếng thằng em tôi:
- Cả nhà
đi được, chưa biết chắc đi
đâu, họ nói Wake gì đó, em hổng
hiểu, sợ quá.
David nói :
- Rồi, nó
đưa qua đảo Wake, căn cứ quân sự.
Mừng thôi
là mừng. Sau cơn mưa, trời sáng sủa
hơn ..
Mấy ngày
sau, biết chắc những người trong chuyến bay
đó đang ở trại Pendleton, California. Chúng
tôi đi rước về. Gia đình tôi ở
trại chỉ có vài ngày.
Về Reno,
đài truyền hình Eye Witness News và
đài số 2 tới tận nhà phỏng vấn.
Qua ngày sau,
má và ba đứa em tôi vô hãng may
làm, đài truyền hình lại tới quay
phim, báo chí đăng hình, viết bài
chúc mừng, gia đình tị nạn đầu
tiên. Thiệt đúng là báo có
đăng đài có nói đàng
hoàng.
David nói với
tôi:
- Tôi không
tin tôn giáo nhưng đây là lần đầu
tôi đã cầu nguyện.
Lúc
đó vì mừng quá, đem gia đình
ra khỏi trại sớm quá, chúng tôi
không hiểu gì về quyền lợi và sự
giúp đỡ bước đầu mà chính
phủ Mỹ dành cho dân tị nạn. Chúng
tôi chỉ biết có một điều là
qua được rồi thì đi làm nuôi
thân và trả nợ. Tội nghiệp Ngọc Anh,
Kim Loan và Tấn Long thằng em trai mới có 17 tuổi
là tuổi có thể trở vô trường,
phải đi làm. Chỉ có Kim Phượng,
Hoàng Thư và Thúy Phương được
tiếp tục đi học.
Dân chúng Mỹ,
chồng con về rồi, lòng nhân đạo họ
cũng mở ra.
Thời gian nầy
là lúc người Việt tị nạn có
đủ chuyện vui về việc tự dịch tiếng
Mỹ. Hiểu sao dịch vậy, giản dị gọn
gàng.
Đưa tay chỉ
vợ, chàng giới thiệu với người Mỹ:
-
This is my house (đây là nhà tôi)
Ai làm gì
sai, lắc đầu, xí xóa:
-
No star where (không sao đâu)
-
The wind hit him (nó bị trúng gió)
Bạn còn nhớ
hôn?
*
1976, Cái Nghèo Đeo Đuổi
Sanh đứa con
gái út, tuổi Thìn, tên Elizabeth Xuân.
Hơn hai thằng anh, con rồng nầy ở đủ
tháng đủ ngày. Nó uốn éo,
nó vùng vẫy, nó nhào lộn, nó
cân nặng 6 pound 12 ounce, sanh 6 giờ sáng.
Được
chuyện nầy mất chuyện kia. Sợ con đói
khổ, sợ cái nghèo đeo đuổi, sanh mới
hai tuần tôi mướn người giữ con,
đi làm lại.
Hai đứa rồi,
thêm đứa thứ ba, đứa con gái mà
David từ lâu mong đợi, tôi cũng
đã bỏ bê nó cho người giữ.
Có phải
vì lý do đó mà sau nầy lớn
lên có chuyện gì buồn nó chỉ
tâm sự với bạn mà thôi. Bây giờ
nghĩ lại tôi vô cùng hối tiếc.
Sang năm 1977, dọn
qua California. David làm Giám đốc hãng
Barth&Dreyfus.
*
1978, Làn Sóng Thuyền Nhân
Sang năm 1978, Việt
Mỹ được thư từ qua lại.
Làn sóng
thuyền nhân tràn ngập các đảo
nước lân cận. Cuối năm, cả đại
gia đình dọn xuống North Carolina mở thêm
chi nhánh. Làm ra tiền mà chỗ ở
quá buồn.
Cuối năm,
dì Năm cho hay chính quyền giải tỏa nghĩa
trang Phú Thọ Hòa, phải lấy cốt Ba.
Má tôi dặn đem đốt rồi gởi
vô chùa. Dì Năm cho đứa con trai vượt
biên, qua đảo Bulabidong an toàn.
*1979,
Trận Cuồng Phong David
Năm nầy,
thơ dì Năm cho hay cha con tụi tôi sẽ gặp
nhau. Đó chỉ là cách nói bóng
gió cho biết dì sẽ mang theo tro cốt của
ba tôi đi vượt biên. Chừng không nghe
tin tức của dì mà chỉ nghe tin thời tiết
về trận bão chúng tôi lo lắng vô
cùng.
Trận cuồng
phong (hurricane) trớ trêu thay lại có tên
là David, khủng khiếp, tàn phá, giết
hơn 1,100 dân vùng duyên hải đảo
Caribbean. Bão dữ sóng thần nhận chìm biết
bao thuyền nhân.
David liên lạc
với hội Hồng Thập Tự, họ cho biết tin
dữ : chiếc tàu Minh Hải khởi hành từ
Cà Mau đã không tới bến. Hơn 20
người bà con cùng dì Năm ôm
bình tro cốt ba tôi, chìm sâu đáy
biển. Ba tôi chết lần thứ hai! Một lần
vì chiến tranh. Một lần vượt biên.
Nghe tin, không biết
phải làm gì. Thấy tôi ngồi chết lặng
cả buổi trong xó nhà, David ra xe lái đi.
Y đi tìm chỗ làm thủ tục đứng
tên bảo lãnh hai gia đình thuyền
nhân Việt Nam.
Ở North Carolina,
tôi đã gặp nhiều cựu quân nhân,
thương phế binh Mỹ trở về từ Việt
Nam. Một người da trắng, mặt mày bị
cháy bởi bom Napaln, không còn hình dạng
mắt, mũi nữa … Một người da đen,
tay chống nạng, ông nói:
- Tôi để
lại một chân bên xứ của cô.
Bạn nghe đau
lòng không?
*
1984, dọn hẳn về California
David nhảy từ
hãng nầy qua hãng nọ, chỗ vài
tháng, không hài lòng với việc
làm. Hùn hạp với một người Đại
Hàn mở hãng in vải, lỗ vốn,
đóng cửa .
Thất nghiệp.
Y bỏ uống rượu. Nhất định không
chịu xin tiền thất nghiệp. Năm nầy là
năm thất thời thất chí của y. Ngồi
trước TiVi, không đổi đài, hồn lạc
đâu mất tiêu. Nhiều đêm, y ngồi dậy,
lâu lắm, không nói gì. (Sau nầy nghe
người ta nói cựu quân nhân Mỹ tại
Việt Nam thường bị flashback, có nghĩa bị
hình ảnh quá khứ ám ảnh, hổng biết
dịch tiếng Việt là gì.)
Tôi cũng
không khá hơn. Ở nhà lãnh tiền thất
nghiệp. Vừa may em tôi, Thúy Phương,
đem cuốn sách dạy về ngành Thẩm Mỹ
cho tôi dịch mướn, kiếm thêm chút
đỉnh!
*
1987, Má Chồng Mất
Việt Kiều bắt
đầu trở về Việt Nam thăm nhà.
David làm cho
hãng Design Collection (DC) chuyên mua bán, xuất nhập
cảng hàng vải. Tôi đậu bằng thẩm
mỹ, ở lại dạy cho trường.
Giữa năm,
má chồng tôi mất. Trước khi chết
bà dặn không được mở nắp
hòm.Bà muốn con cháu nhớ lúc bà
còn sống chớ không nhớ tới cái
xác vô hồn. Thôi rồi!
Bà đi
trước khi được thấy sự nghiệp
thành công của con trai. Cũng không kịp cho
tôi nói lời cám ơn, thưa với
bà là đứa con dâu Việt Nam của
bà đã có nghề nghiệp chuyên
môn, khỏi phải lo đứng bếp như lời
bà từng dặn.
Còn
đâu nữa những buổi ăn ngon lành thuần
túy thức ăn Mỹ. Những ngày lễ lớn,
nếu tụi tôi không đi thăm được,
bà luôn luôn gởi thùng bánh trái
tự tay làm cho con cháu. Tôi nhớ những
lúc túng quẫn, bao giờ tụi tôi cũng
kêu gọi tới bà. Lòng mẹ thương
con dân tộc nào cũng như nhau.
Từ đây,
bà đã nằm kế bên ngôi mộ
người chồng yêu dấu.
*
1988 - 1990
David lao đầu
vô việc làm. Mỗi tháng đi Nữu Ước
hoặc South Carolina một tuần. Tôi cũng lo việc
của tôi.
Hai đứa con
trai tới tuổi vị thành niên, tuổi nguy hiểm.
Bắt đầu nếm mùi lo buồn vì con
cái. Lỗi chúng tôi phần nào vì
đã không biết dạy dỗ tụi nó
đúng cách.
1990. Bà chị
thứ tư của David mất vì bịnh đứng
tim.
1991, David Bị
Kích Tim
David bị heart
attack (kích tim) vô nhà thương mấy tuần.
Hậu quả của gần 30 năm hút thuốc.
Hút càng ngày càng nhiều. Việc
làm càng khó khăn, căng thẳng, y
càng cố gắng, càng cố gắng thì
hút thuốc càng nhiều.
Chưa từng biết
gì về computer nhưng với kinh nghiệm làm
việc, y đã điều hành, kiểm chứng
cho chuyên viên lập ra một chương
trình để xử dụng trong hãng. Từ
lúc hãng mới mở cửa năm 1986, việc
ít, người ít, mọi sự đều
làm bằng tay. Cơ sở phát triển lên
hàng trăm nhân viên, phải điều
hành bằng hệ thống điện toán.
Vì trách
nhiệm, vì việc làm đòi hỏi sự
quan tâm thường xuyên, y đã quên
thân mình. Một ngày hai bình cà
phê, ba gói thuốc thì thân nào chịu
nổi. Bác sĩ cho biết nếu không tự
săn sóc lấy mình thì y sẽ không sống
tới ngày có cháu!
Sợ chết ,y bỏ
hút thuốc. Một cái một. (y nói nhỏ
không muốn bỏ tôi lại một mình)
Tôi thi đậu,
làm giám khảo ngành thẩm mỹ.
Chiến tranh giữa
Kuwai và Iraq bùng nổ.
Hai đứa con
trai nói “khi quốc gia cần tụi con sẽ
đi lính ” dù ba nó đã cho biết
sự sai lầm của chính bản thân. Tôi
quá lo sợ, sợ cho tới ngày Tổng Thống
Bush rút quân về.
Con gái tôi
bắt đầu cãi cha ghét mẹ. Khi buồn
nó chỉ tâm sự với bạn mà
thôi. Lỗi tại tôi, ham làm việc, ít
gần gụi nó.
Diện con lai, gia
đình HO bắt đầu qua Mỹ.
* 1992
- 1993
Lawrence vừa
đi học vừa đi làm. Đứa con trưởng
có tánh tự lập từ nhỏ. Có em sớm,
nó cũng sớm biết nhường nhịn, thường
ngồi chơi một mình.
Còn nhớ
Tommy, lúc mới mấy tháng biết nhìn ai
là mẹ rồi, tối nào tôi cũng phải
ẵm nó từ 8 tới 9 giờ rồi bỏ vô
giường thì nó mới chịu ngủ.
Vậy mà
vù một cái, năm 1993, tôi cưới
dâu trưởng, gốc Quảng Đông, tên
Elaine.
*
1994 - 1996
Hãng DC chia ra
chi nhánh lấy tên Division 92, David đươc một
phần trong bốn phần hùn. Y vừa làm chủ
hãng DIV 92, vừa làm phó giám đốc
cho hãng chính DC.
Cuối 1994, Tommy
vô hãng làm việc cho cha.
Sang năm 1995, con
dâu có bầu. Đứa đầu không giữ
được.
Tôi cứ suy
nghĩ hoài. Có thể nào, vì Agent Orange
(chất độc mầu da cam từng xài quanh
các căn cứ Mỹ ở Việt Nam thời chiến)
ảnh hưởng máu ông nội, qua tới đời
cháu? Chẳng lẽ hậu quả của chiến
tranh đeo đẳng theo phá hoại tới đời
con cháu?
1996, Thêm
Công Dân Hợp Chủng
Elaine có bầu
lần thứ nhì. Lần nầy thì mẹ
tròn con vuông. Chúng tôi có cháu nội
gái tên Emily.
Vậy là, xứ
sở có tên Hợp Chủng Quốc thêm một
công dân hợp chủng. Emily có 3/4 máu
Á Đông, máu Mỹ còn có 1 phần.
Nếu theo cái đà nầy, vài thế hệ
tới nước Mỹ sẽ không còn da trắng,
đen, vàng, đỏ, nâu nữa mà sẽ
có cùng chung một màu … lờ lợ. Với
cháu nội, tôi muốn sửa lại những sai
lầm, thiếu sót của tôi khi nuôi con, tất
cả thì giờ rảnh tôi dành cho nó.
*
1997, xuống tàu, “ra riêng”
Elizabeth vô
hãng làm phụ tá cho David.
Tụi tôi
để nhà lại cho vợ chồng Lawrence. Mua chiếc
tàu dài 28 feet, “ra riêng”, sống
luôn trên tàu. Kể như chúng tôi
ăn trái do mình trồng, bây giờ có
dư chút đỉnh tiền, y dụ tôi mua chiếc
tàu để thỉnh thoảng đi câu cá.
Tôi chiều theo dù không biết lội.
Ai mà ngờ
ngày ký tên nhận tàu, cũng là
ngày tụi tôi ở luôn trên con tàu
neo giữa Boat City tại Marina del Rey …. Không
khí mát mẻ, tôi dứt chứng bịnh dị
ứng mũi kinh niên. Từ ngày ở trên
tàu không còn phải xài thuốc thông
mũi nữa.
Sang năm 1998, con
tim của David có vẻ chịu gió biển,
không thấy lên cơn bất tử nữa.
Công việc “xuôi chèo mát
mái” y đòi đổi chiếc tàu 38 feet.
Tôi lại phải gật. Sống trên mặt
nước là ước muốn từ lâu của
y. Có con tàu riêng đúng ý, David vui vẻ
coi là “mộng đã thành.”
Nhìn y vui,
tôi nhớ đủ thứ. Chẳng có giấc mộng
nào tự nhiên mà thành. May mắn
không đủ. Núi cao có núi cao hơn.
Lúc nào chúng tôi cũng tự hỏi
“Mình có làm đầy đủ nhiệm
vụ chưa” để khỏi phụ công ơn
của những người trên đường đời
đã một lần nào đó, giúp
mình.
*
1999, Vĩnh Biệt Elaine
Trước
ngày lễ Tạ Ơn, nhận tin chị Elaine
đang hấp hối. Tới nhà chị, tụi
tôi quẩn quanh trong 4 ngày. Đây là lần
thứ hai tôi chứng kiến mạng người
chênh vênh giữa sự sống và chết.
Khi Ba tôi bị
bắn, cái chết thời chiến đến
thình lình, tức tưởi, tê dại. Chị
Elaine chết trong cảnh an bình. Đứng lặng
bên giường chị, tôi thấy sự hấp
hối, lấy hơi lên, hớp từng hớp
không khí mà không nghe hơi thở ra, cho tới
hớp không khí cuối cùng. Thình
lình, tim ngừng đập.
Chị mất, tuổi
mới 53. Tro tàn chị dặn hãy đem rải
trên ngọn núi Table Rock ở Medford, nơi
chôn nhau cắt rún. Một cuộc đời, chỉ
sống loanh quanh nơi thị trấn nghèo nàn,
buồn thiu. Sống giản dị, chết cũng giản
dị.
Còn nhớ mới
ngày nào chị cùng má chồng ra sân
bay rước tụi tôi, năm 1970. Tôi gặp chị
vào lễ Tạ Ơn, nay chị xa tôi cũng
vào dịp lễ nầy! Thoắt cái. Ba
mươi năm. Thôi rồi, xong một đời
người. Vĩnh biệt Elaine.
*
2000, Sau 32 Năm
Ngày 28
tháng 5 năm 2000, ngày giỗ Ba tôi.
Sau 32 năm,
nhìn đám con nguyên vẹn 7 đứa (chị
tôi đi xa không về kịp) cùng gia
đình sum họp, có lẽ Má tôi, chen lẫn
trong buồn nhớ là sự hài lòng. Má
đã không uổng công ở vậy nuôi
con. Mấy chị em tôi, dù con cháu đầy
đàn, vẫn luôn luôn quẩn quanh bên
Má. Tôi không đủ chữ nghĩa để
viết về người mẹ. Bà là người
đã tạo cho tôi lòng tin và sự cứng
rắn. Chính bà là chỗ dựa để
tôi đứng lên vững hơn mỗi lần bị
đời đạp xuống. Má tôi đã
lên chức Bà Cố từ lâu.
Tháng 6,
tôi có thêm đứa cháu nội gái
tên Charlotte. Đứa lớn giống mẹ đứa
nầy giống cha. Đứa cháu lớn nói tiếng
Tàu thiệt là giỏi. Tiếng Mỹ khỏi học
cũng biết. Tiếng Việt nói gì nó cũng
hiểu, mà còn mắc cỡ miệng. Năm nay
tôi cho nó 2 cuốn băng học tiếng Việt,
má nó cùng học luôn thể. Mới 4 tuổi
rưỡi mà nó ma le lắm. Khi nào muốn
tôi chơi với nó, nó sẽ giở giọng
nhõng nhẽo ra "bà nội, lại
đây" bằng tiếng Việt có bỏ dấu
đàng hoàng (giỏi hơn ông nội)
lòng tôi mềm nhũn liền.
Khi nhận tin
người anh rể chết bất thình lình,
tôi nhớ ngày anh mang David về ngôi nhà cũ
ở Phú Lâm giới thiệu. Anh chính là
“ông mai” của chúng tôi. Tôi biết
ơn anh.
Cho tới
ngày nay, David cũng chỉ nói được
vài tiếng Việt không bỏ dấu.
Tôi xào
đồ ăn, y nhắc:
- Put alot of Cu Hanh (
để nhiều củ hành).
Mỗi lần ai hỏi
về “Chuyện gì xảy ra ở
“Nam’” y trả lời:
- Mình
rút, mình thua. Vinh hạnh gì mà khai?
Tôi thấy xấu hổ…
Tôi không
nhìn người đàn ông đi bên
tôi là người ngoại chủng, chỉ thấy
một người chồng, người cha, lòng tốt
lấp đi tật xấu. Y bắt buộc ba đứa
con phải nói tiếng Việt để tỏ
lòng kính trọng người mẹ Việt
và gia đình bên ngoại.
Đó bạn,
“chuyện nhà” chúng tôi, cũng ba
chìm bảy nổi như bao câu chuyện
khác.
Qua kinh nghiệm sống
hơn ba chục năm, tôi thấy nước Mỹ
chuộng người siêng năng, cầu tiến, cố
gắng và biết chụp cơ hội. “Ngồi
mà chờ thời, đời nào mà
thành.”
Tôi hay chọc
David :
- Nước Mỹ
nợ nước Việt Nam, cho nên phải cưu mang
người Việt. Má tôi hơn 75 tuổi
còn sáng suốt, ăn uống đầy đủ,
bịnh hoạn đã có bác sĩ, nhà
thương lo. Các em tôi có công ăn việc
làm đàng hoàng. Còn you, you nợ
tôi, you tình nguyện vô lính lúc
chưa tới 17 tuổi, bắt mẹ phải đi
ký tên, đi tuốt qua bên kia trái đất,
rước tôi về đây để trả nợ.
Y nịnh:
- Nợ tình.
“I love you từ kiếp trước”. Nợ tiền
trả lần lần cũng hết. Nợ tình
thì anh trả suốt đời. Kiếp nầy
không xong trả thêm kiếp sau.
Vậy là sau
bao năm coi vợ như … không khí, y bắt
đầu hiểu ra là không khí cũng
có chút giá trị.
Vợ chồng,
khi hiểu được điều nầy, thường
đã…quá “đát”. David nay
không còn ốm gọn, mà y như cái
thùng phuy. Tôi cũng đã tròn như
cái gối ôm, đâu còn nhỏ xíu,
mỏng manh như khi đứng bên y trước
bàn thờ Ba tôi năm nào.
Trong trận cuồng
phong David năm 1979, mạng sống hàng ngàn
người và thuyền nhân đã bị nhận
chìm, trong đó có dì Năm và tro cốt
Ba tôi. Tất cả chìm tan nhưng biển vẫn
còn đó.
Hàng ngày,
tôi đang là “tàu nhân” sống
ngay trên biển.
Đứng
bên David, người chồng Mỹ cùng tên với
trận cuồng phong, nhìn biển, nghe tiếng
sóng xô, lớp sau đùa lớp trước,
tôi hiểu điều tôi khấn nguyện
và tự hứa năm xưa vẫn được
Ba tôi liên tiếp nhắc nhở và phù hộ.
TRƯƠNG NGỌC BẢO XUÂN
(Hội Ái Hữu Biên
Hòa sưu tầm, Blog Mười Sáu giới thiệu,
Tung Nguyen & Dương Liễu chuyển)