Nước Mỹ Là
Thiên Đàng ?
(Đinh Quân)
Tác giả tên thật là
Đinh Văn Tiến Hùng, một cư dân cao
niên tại Anaheim, Nam
California.
Bài viết về nước Mỹ đầu
tiên của ông là câu chuyện phấn
đấu của cả một gia đình tại
đất Mỹ, với nhiều trăn trở, vấn
vương. Mong Đinh Quân sẽ tiếp tục viết
thêm.
***
Gia đình tôi đặt chân lên
đất Mỹ đúng vào đêm trước
lễ Độc lập Hoa-Kỳ (July 4th). Những ngọn
pháo bông nở rộ muôn màu, sáng rực
trời đêm thị trấn nhỏ miền
Đông Bắc. Tôi mỉm cười nhủ thầm
: pháo bông mừng lễ hay chào đón ta
bước vào cuộc sống mới nơi
"Thiên đàng hạ giới" ? Thiên
đàng hạ giới, tôi nhớ hình như
câu nói này mới chỉ phát xuất
nơi cửa miệng người dân sau khi Cộng Sản
Bắc Việt xâm chiếm Miền Nam năm 1975 -
chúng ồ ạt như một bọn cường khấu
vội vã "vào, vơ vét ,về" -
phút chốc biến người dân trở
thành chuyên
chính vô sản thật đúng nghĩa !
Không đâu bằng Quê Hương
mình - một chân lý mà bất cứ
dân tộc nào cũng
công nhận.
Người Do Thái lưu lạc muôn
phương mong ngày trở về Miền Đất
Hứa. Những người lính viễn chinh
Pháp gồm nhiều quốc tịch: Algerie, Maroc,
Senegal, Việt Nam … lang thang qua nhiều chiến trường
thuộc địa vẫn ngóng đợi ngày
"giã từ vũ khí" trở lại cố
hương. Trước năm 75 nhiều du học
sinh và sĩ quan Việt
Nam
qua Mỹ hay các quốc gia du học, sau khi mãn
khoá cũng vội vàng trở về Nước.
Tôi biết một sĩ quan cùng binh chủng,
anh sang Hoa Kỳ thụ huấn về Lực lượng
Đặc biệt (Green Berets) tại Fort Bragg.
Anh có một mối tình rất thơ mộng với
cô nữ sinh tóc vàng và được
cha mẹ cô cho đi lại trong suốt khoá học
như người con trong gia đình, cùng lời
hứa thừa kế tài sản và nông trại
nếu anh đồng ý kết hôn với con
gái họ. Tương lai tốt đẹp đang chờ
đón anh. Nhưng anh
đã can đảm chia tay người yêu để
trở về nước lòng tuy buồn, nhưng trong
anh dâng lên niềm
tự hào vì mình đã chọn
đúng . Phải chăng tình yêu giành cho
Tổ Quốc vẫn trên hết ?
Tất cả chúng ta đều gắn bó với
Quê Hương Việt Nam thân yêu. Lịch
sử dân tộc chứng minh hùng hồn điều
ấy. Suốt hai ngàn
năm Bắc thuộc và gần 100 năm
Pháp đô hộ, tổ tiên ta luôn
bám vững mảnh đất gia phả thân
thương. Nhưng từ sau năm 75 bọn CSBV đã biến
chúng ta bất đắc
dĩ thành kẻ phải
rời bỏ Quê Hương. Khi Đất nước
mình biến thành nhà tù vĩ đại,
chúng ta phải khắc khoải tìm kiếm một
"Thiên đường hạ giới" cho
mình và con cháu mai sau được ngẩng
mặt sống tự do hạnh phúc.
Những ngày đầu nơi xứ
lạ
Tiền trợ cấp chỉ đủ chúng
tôi thuê căn nhà nhỏ và mua thực phẩm
sống qua ngày. Hàng ngày cả gia
đình đến trường trau dồi thêm chút vốn
Anh ngữ. Tôi nóng lòng ghi tên học
thêm lớp tối. Tan lớp vội vàng băng
qua lối tắt khu Housing về nhà. Bỗng trong
bóng tối 3 tên da đen xuất hiện, bắt
tôi giơ tay chúng lục soát kiếm tiền.
Là một quân nhân đã từng sống
chết cận kề trong chiến trận, nên tôi
rất bình tĩnh. Tìm kiếm không thấy
tiền một tên ra hiệu bỏ đi.Ngày hôm
sau, tôi kể truyện
với cô giáo, cô khuyên đừng đi
trong ngõ hẻm, cứ ra đường chính
mà đi vì luôn có xe Cảnh sát tuần
tiễu qua lại, chúng không dám lộng
hành.
Thứ sáu hàng tuần tôi lội bộ
gần 2 cây số đến Hội USCC nhận tiền
trợ cấp và theo dõi xem có công việc
gì làm thêm. Hội cho biết các nông
trại đang mùa thu hoạch cần một số
nhân công. Nếu muốn đi làm hội sẽ
giới thiệu nhưng phương tiện phải tự
túc. Chúng tôi liên lạc được một
đồng hương sẵn sàng chở đi về trên lộ
trình gần 10 cây số, mỗi người 5
đô la. Mùa này thường có những
cơn mưa kéo dài nên vợ tôi chuẩn
bị cho mỗi người một tấm vải nhựa
và chiếc nón lá (do em tôi đem qua theo lời
yêu cầu của người bạn cần cho sinh hoạt
văn nghệ Cộng đồng vào các dịp
Lễ, Tết …)
Sáu giờ sáng ngày thứ hai xe
đón chúng tôi
tại điểm tập trung. Xe chày lòng
vòng đường phố một lúc ra tới
ngoại ô. Nhìn
nông trại bát ngát nối tiếp nhau hai
bên đường, mới thấy sự phì
nhiêu sung túc của đất nước người
mà thương cho thân phận chân lấm tay
bùn người dân nước mình ! Ông
chủ trại cao lớn vạm vỡ đón
chúng tôi đầu đường đưa
vào nông trại. Sau khi xem giấy giới thiệu,
ông chia 8 người chúng tôi thành hai
toán : 4 đàn ông phụ trách hái bắp,
4 bà hái dâu. Mọi người ngồi
trên thùng xe được máy cày
kéo ra khu thu hoạch. Toán bẻ bắp nhận một
số bao bố, đi dọc từng hàng chất bắp
vào bao. Toán hái dâu lom khom vạch lá
lựa những trái chín bỏ vào giỏ. Chừng
mỗi tiếng đồng hồ xe ra lấy đưa về
kho. Chúng tôi 2 người trên xe, 2 người
dưới đất chạy lúp xúp theo chất
hàng lên … 12 giờ được nghỉ nửa
tiếng ăn trưa. Những lon đồ ăn đặt
trên tấm ni-lông trải xuống đất. Tất
cả quây quần ngồi ăn chung vui vẻ và
thân tình. Ai nấy mồ hôi nhễ nhãi,
quần áo lấm lem, vừa ăn vừa chuyện
trò. Nghĩ đến câu "Vạn sự khởi
đầu nan" nên
không ai quản ngại khổ cực. Nhiều
hôm tới nơi làm chưa được 1 tiếng,
cơn mưa ào ào đổ xuống, chủ trại
cho vào kho tạm nghỉ. Nhìn quanh căn nhà ọp
ẹp, chất đầy dụng cụ nông trại,
những khe nứt nước tràn vào vàng
úa, mùi ẩm mốc xông lên … Tôi
nghĩ chắc mấy chục năm trước
đây là căn lều "Chú Tom" người
nô lệ da đen cư ngụ, giờ giành cho những
"tá điền da vàng" tạm trú ? Bầu
trời còn xám xịt, mưa vẫn ào
ào trút nước, báo hiệu cơn mưa
có thể kéo dài suốt ngày, chủ trại
liên lạc gọi xe đưa chúng tôi trở
về khi chưa đủ tiền trả một ngày
xe.
Sau một tháng, mùa thu hoạch đã
xong, sắp đến ngày tựu trường của
các cháu, phải chuẩn bị cho chúng
đi học. Không có phương tiện dù
chỉ một chiếc xe đạp cũ, tôi lang thang
tìm đường đi lối tắt gần
hơn, giúp các cháu tới trường đỡ
vất vả. Mùa hè qua mau, các em ríu
rít trở lại trường như bày chim non
lìa tổ. Nhìn các em, chợt nhớ những
kỷ niệm ngày nào khi còn cắp sách
đến trường với những mơ ước
tươi đẹp tương lai. Giờ chính
mình đang đặt những ước mơ
đó vào thế hệ con cháu.
Sau mùa thu hoạch, vợ chồng tôi
và vợ chồng chú em nhờ Hội giới thiệu
đến làm lao công cho một người Mỹ
- chưa rõ công việc ra sao, nhưng chúng
tôi chấp nhận, vì chưa học được
nghề chuyên môn phù hợp với cuộc sống nơi đây. Sáng sớm
người Mỹ già lái xe đến
đón chúng tôi. Ông lái chiếc xe ọp
ẹp cũ kỹ tróc sơn, chở theo hai con
chó bự, lông xù, lưỡi thòng
lòng thở phì phò. Đang do dự vì
không thấy ghế ngồi, ông hiểu ý ra
hiệu cho chúng tôi ngồi xuống thùng xe
dơ dáy không có gì lót, trừ hai tấm
nệm giành cho hai con chó. Ngồi trong thùng xe
hôi hám lắc lư, tôi chợt nhớ khi ở
Việt nam bạn bè thường cười nói
về xã hội Mỹ "nhất
con nít, nhì đàn bà, ba chó mèo,
bốn đàn ông" giờ mới thấy thật đúng.
Xe chạy hơn một tiếng dừng lại
bên khu rừng vắng.
Ông chủ chỉ về phía ngôi nhà nằm
chênh vênh trên ngọn đồi, ra hiệu
đi lên. Ngôi nhà cổ kính, bao phủ lớp
sơn vàng úa, chung quanh cây cỏ mọc cao,
chứng tỏ đã lâu không người ở. Hắn lấy cuốc
cào bảo vợ và cô em dâu dọn sạch
cỏ vòng quanh nhà. Hai anh em tôi hắn
đưa chiếc lồng
sắt chỉ về phía bên kia đồi
nói:
- Take two birds !
Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau
chưa hiểu ý hắn, nhưng nếu có hỏi
lại cũng chưa biết nói sao, hắn không
hiểu rắc rối thêm. Cứ cầm chiếc lồng
đi lên, tùy cơ ứng biến sau. Nhìn ngọn
đồi trải rộng bát ngát phía
trước, tôi nói với chú em:
- Thằng cha này chắc điên ! Chim trời
cá nước làm sao bắt được hai con
chim bỏ vào chiếc lồng này ?
May mắn lúc đó hắn rảo bước
phía sau, tay lúc lắc chùm chìa khoá.
Đang đổ đồi chúng tôi nhìn thấy
chiếc chuồng lưới sắt rất lớn. Khi mở
cửa chuồng hàng trăm con gà kêu lên
inh ỏi,vỗ cánh bay tứ tung.
Hắn chỉ vào trong, giơ hai ngón tay chỉ
vào chiếc lồng sắt, đẩy chúng
tôi vào và đóng sập cửa lại.
- Tổ sư. Bắt gà mà nói là bắt chim, bố
ai hiểu được !
Chú em tôi phá lên cười, vì
ở VN khi còn đi học có ông thày
nào dạy gọi gà bay như chim là
"Bird" bao giờ đâu. Sau cả tiếng đồng
hồ vật lộn trong khung cảnh rối bù
lông lá và tiếng kêu điếc tai,
chúng tôi đã hoàn thành công tác "đặc biệt"
như những tên xiếc nhà nghề.
Cầm chiếc lồng gà trong tay, hắn xem ra
đễ chịu hơn đôi chút. Nhưng
không che dấu được con người khô
khan với áo quần dơ dáy của một
tên bụi đời, biết dùng những
mánh khoé luồn lọc ngoi lên trong xã hội
đa chủng này.
Trở lại ngôi nhà hoang phế, anh em
tôi phụ hai bà
chặt cây nhỏ mọc quanh, gom lại chất
lên xe đem đi đổ. Hắn lái xe tới
bìa rừng ra hiệu nhanh tay đẩy xuống
rãnh sâu và lái xe đi mất
hút. Chúng tôi
đang hì hục làm, xe cảnh sát trườn
tới cùng tiếng quát bực bội:
- What are you doing ?
Nhìn bộ mặt chúng tôi ngơ
ngác chắc ông hiểu là người di
dân mới đến, nên hạ giọng hỏi:
- Who say…. ?
May quá chúng tôi đang ở nhà
thuê, biết được chữ chủ nhà,vội
trả lời ;
- Landlord ! Landlord !
Ông gật đầu lấy ra một tờ giấy
ghi chép gì đó, vừa đúng tên
Mỹ già quay trở lại. Nhìn thấy xe Cảnh
sát hắn định thối lui, nhưng Cảnh
sát giơ tay gọi lại. Sau một lúc
nói qua lại, Cảnh sát trao cho hắn một tờ
giấy - chắc là giấy phạt - và ra lệnh
bốc cây lên khỏi rãnh mang đi chỗ
khác đổ. Cảnh sát đi rồi, hắn
quát tháo om xòm như muốn ăn
tươi nuốt sống. Nhưng dễ gì vì
ta thường nghe câu "Hai đánh một chẳng
chột cũng què", hơn nữa trên tay anh em
tôi còn cầm hai con dao rừng. Nhận thấy yếu
thế, hắn im lặng phụ bốc cây lên xe
đem đi chỗ khác đổ.
Xong công vịệc trời đã về chiều.
Ánh hoàng hôn từ từ xuống sau ngọn
đồi. Trên đường về, xe chạy dọc
ven biển dưới màn đêm trùm phủ.
Ngoài xa muôn đốm
sáng trên những con tàu yên nghỉ
đưa tôi ngược dòng quá khứ về
Quê Hương: cuộc di tản đường biển
kinh hoàng ngoài khơi biển Sa Huỳnh, Quân
khu I vào những ngày cuối tháng 3/75 khi
thành phố Đà Nẵng rơi vào tay Cộng Sản BV.
Hàng trăm chiếc thuyền to nhỏ bập bềnh
trên sóng, bao quanh những sà-lan chất chồng
hàng ngàn người di tản. Những mảnh
thuyền bể vỡ vụn, cuốn theo xác người
dập dờn trong bóng tối tử thần ma
quái … Tôi thiếp đi một lúc, tới
khi tiếng còi xe vào thành phố làm bừng
tỉnh. Phố xá muôn màu rực rỡ, những
nhà cao tầng lung linh
vút trời sao, hai
dòng xe cuốn trôi theo dòng ánh sáng.
Chúng tôi vội vã băng minh trên vỉa
hè đông người qua, tay cầm tấm nhựa và chiếc
nón lá, áo quần dơ dáy ...
Nhiều người dừng bước nhìn
chúng tôi như thổ dân da đỏ từ
núi rừng về thành phố. Mặc kệ những
ánh mắt ngạc nhiên ! Mặc kệ những
ý nghĩ thiếu thiện cảm! Không quan
tâm đến cuộc sống văn minh đang
vây bủa quanh mình ! Chúng tôi mau tìm về
tổ ấm nơi con cái đang chờ đợi -
nơi gia đình sẽ quây quần dùng bữa
cơm chiều đầm ấm sau một ngày
làm việc mệt nhọc, kiếm thêm chút
tiền bồi đắp cho cuộc sống mới.
Vào cuộc sống mới
Không thể sống bấp bênh qua ngày với
những việc không
tên tuổi - không được gọi là nghề.
Phải tìm một lối thoát, cần tìm một
nghề căn bản cho cuộc sống. Những năm
tháng tù đầy khổ cực, những
ngày tháng vất vưởng sau khi trở về
từ ngục tù Cộng sản, tôi không
còn lối thoát đành chấp nhận tất cả.
Nhưng giờ đây trên phần đất tự
do này tôi có quyền chọn lựa cuộc sống
cho mình. Theo lời khuyên người đến
trước và nhìn vào hoàn cảnh sống
gia đình, tôi không thể cắp sách
đến trường, kéo dài một học
trình 4 hay 5 năm Đại học và sau khi ra
trường đã lớn tuổi lại chưa
có kinh nghiệm, khó kiếm việc làm.
Tôi nhờ Hội giúp ý kiến học
nghề theo chương trình ngắn hạn. Cuối
cùng hai vợ chồng tôi thi trúng tuyển nhập
học khoá Nurse Aide 5 tháng. Ngoài những giờ
học chuyên môn, chúng tôi được học
bổ túc thêm Anh ngữ giành cho di dân. Sau
những giờ lý thuyết, giáo viên hướng
dẫn đi thực tập tại Nursing Home, chúng
tôi được đích thân bà
giám đốc và các y tá hướng dẫn
tận tình cách săn sóc bệnh nhân
…
Vì chăm chỉ cẩn thận, sau khi tốt
nghiệp hai vợ chồng tôi được bà
giám đốc giữ lại làm việc.
Đây là một nghề vất vả cần sự
kiên nhẫn chịu đựng cùng lòng
nhân ái. Điều lệ đòi hỏi nhiều trách nhiệm với
bệnh nhân và bệnh nhân có quyền lựa
chọn người săn sóc không được
từ chối. Nhưng bù lại, đây là một
nghề khá vững, vì nhu cầu đòi hỏi
mỗi ngày một gia tăng và phúc lợi rộng
rãi hơn nhiều nghề khác … Hai vợ chồng
tôi chính thức đi làm giữa mùa tuyết
đang rơi phủ dầy trên nhà cửa
và đường đi với chiếc xe cũ
lăn bánh như rùa bò vì đường
trơn trượt…
Nhưng rất tiếc tôi chỉ làm
được 3 năm thì chứng đau cột sống
từ khi còn trong tù tái phát, bác sĩ
bảo tôi nên tìm nghề khác an toàn
cho mình và bệnh nhân thì tốt hơn.
Từ ngày thôi nghề trợ tá,
tôi trôi dạt qua nhiều nghề như : assembly,
hàn điện tử, đứng máy, làm
đồ trang trí, quét dọn trường học,
phụ bếp … Nhưng mỗi nơi chỉ làm
vài tháng hay một năm,vì nhiều lý
do : hãng bị đóng cửa vì thua lỗ,
hãng bị sát nhập chuyển đi bang khác
hay dọn qua Mễ-tây-cơ nhân công rẻ
… Chỉ có hai nơi tôi làm lâu
hơn là công ty sản xuất đồ trang
trí , gần 4 năm và câu lạc bộ
chơi gôn (golf) 7 năm…
Công ty sản xuất đồ trưng
bày ngày lễ
như: Christmas, New year, Valentine, Veteran, Mother & Father’s
day … Sản phẩm làm bằng thủy tinh nhiều
màu sắc, giống như những hình ta thấy
chung quanh trên mái vòm và cửa kính
nhà thờ, nhưng thu nhỏ lại. Ba nhóm
làm theo hệ thống dây chuyền. Nhóm cắt bằng
máy những bộ phận kính màu do người
Mỹ phụ trách. Nhóm phụ nữ bọc từng
phần bằng dây nhôm. Nhóm thứ ba ghép những
bộ phận rồi hàn lại thành sản phẩm
theo mẫu qui định. Nhóm sau cùng phải cẩn
thận và khéo tay, nên được giao cho
chúng tôi. Công việc cần chăm chú tỉ
mỉ, nhưng mang lại một niềm vui khi
nhìn sản phẩm nghệ thuật hoàn
thành bày la liệt trên bàn thật đẹp
mắt: hang đá Giáng Sinh, Thiên thần
đánh đàn, thổi kèn, người chiến
sĩ cầm quốc kỳ, bồng súng, đôi
thanh niên nam nữ nâng cao trái tim đỏ thắm,
cha mẹ bồng dắt con cái … Sau gần 4
năm hãng di chuyển qua Mễ nên tôi lại
thất nghiệp.
Nhưng nơi tôi làm lâu nhất là
Wethersfield Country Club cho đến khi nghỉ
hưu là 7 năm. Trên khắp nước Mỹ,
các thành phố lớn mỗi tiểu bang đều
có các Country Club - câu lạc bộ môn
chơi quí tộc: đánh Golf - Hội viên gồm
toàn giới thượng lưu giàu có:
tướng tá hồi hưu, nghị sĩ , dân
biểu, giám đốc xí nghiệp, thương
gia, triệu phú … Sân gôn luôn thiết lập nơi yên
tĩnh, phong cảnh hữu tình, gần suối đồi,
thung lũng với thảm
cỏ xanh rì, bao quanh rừng cây rợp bóng
mát, gió thổi rì rào … Ban sáng
vào làm việc, đứng trên câu lạc
bộ nhìn xuống sân "cù"
vào ngày nắng ấm,
những Gentlemen & Ladies quần áo, mũ trắng
toát, tay cầm vợt … lao xao trò chuyện, lũ
lượt lên xe, lướt nhẹ ra sân cỏ
như ngày trảy hội làm tôi liên
tưởng đến hài kịch của Moliere
"Trưởng giả học làm sang" (Bourgeois
Gentil -homme).
Câu lạc bộ gồm hơn 300 hội
viên hầu hết nguồn
gốc Irish, không thấy người da màu, duy nhất
một bác sĩ câu lạc bộ là người Nhật. Tôi
được nhận vào làm do người bạn
giới thiệu với trưởng bếp (Chef Cook)
người Pháp. Ông biết tôi xuất
thân từ trường Dòng nên biết
chút ít tiếng Pháp, thỉnh thoảng trao
đổi với tôi vài câu tiếng Pháp
thân mật. Hiểu hoàn cảnh và cuộc sống
tôi, ông rất thông cảm và thường
giao cho việc nhẹ chỉ
cần khéo tay và sạch sẽ. Thấy tôi lớn
tuổi không quen ăn đồ Mỹ, Ý, Mễ
… Khi rảnh tay ông làm một dĩa đồ ăn
theo kiểu Á-đông đem đến cho tôi
… Ngồi dưới hầm rượu với dĩa
xào còn bốc khói toả mùi thơm,
nhìn qua dẫy rừng
phía xa xa, hồi tưởng những ngày
tháng trong tù, sau nửa ngày đốn
cây mệt nhọc, ngồi gặm chiếc bắp luộc
không đủ cầm hơi mà lòng chua
xót. Những lúc ấy thèm một bữa ăn như thế
này, nhưng giờ đây tôi đang hưởng bữa ăn ngon lành
mà vẫn thấy dâng lên nỗi buồn man
mác. Khi đói khổ ta mong được no
đủ. Khi dư đầy ta lại càng thấm
thía những tháng ngày thiếu thốn
đã qua. Tuy làm việc giữa giai cấp
quí tộc, nhưng họ nhận thức và
đánh giá cá nhân tôi không đến
nỗi thấp kém và kỳ thị, nên
tôi đã dừng chân nơi đây cho tới
khi nghỉ hưu …
Trăn trở, vấn vương.
Qua gần 20 năm lặn lội và cận kề
với nhiều đoàn thể, tổ chức, cộng
đồng Việt Nam sinh sống nơi quê
hương thứ hai, tôi vẫn còn mang nhiều
trăn trở. Cá nhân và gia đình an
tâm vì thoát khỏi chế độ bạo
tàn Nhưng cộng đồng người Việt hải
ngoại còn đây, quê hương Việt nam
còn đó đang quằn quại lầm than
dưới ách cai trị của bọn Cộng sản
tham ô, tàn bạo khiến tôi ưu tư, thật
lòng mong muốn đóng góp phần nhỏ
bé hơn là "vạch lá tìm sâu, bới
bèo ra bọ" để chỉ trich đả
phá qua những nhận xét xây dựng sau:
- Người Việt tại Hoa kỳ hay các quốc
gia trên thế giới: nhiều cá nhân rất
xuất sắc trong mọi lãnh vực, được
kính nể từ chính trị, khoa học,
quân sự, kinh tế, văn hoá, nghệ thuật
và cả trong học đường … Nhưng tập thể lại thiếu
đoàn kết. Điển
hình nơi tiểu bang
khi tôi mới qua Mỹ, rất ít người
Việt, vậy mà tại một công ty, anh chị
em Việt Nam tranh chấp trong công việc, không giải
quyết nội bộ êm đẹp, đưa nhau
lên cấp trên kiện cáo. Thật là chua xót
và đau lòng khi ông xếp thẳng thắn
trả lời: "Các anh chị cùng là
người Việt
còn không giải quyêt được
thì làm sao tôi giải quyết nổi !"
- Một số người vì "tự cao tự
đại" ra mặt chống đối cho rằng
người đại diện không xứng
đáng vì thiếu
tài đức, hay đoàn thể tổ chức
không mang lại hiệu quả mong muốn. Số
khác lại "tự ti mặc cảm", buông
xuôi, mặc ai làm gì thì làm, vì
không tìm ra "lãnh tụ" theo ý
mình. Có kẻ còn mạnh miệng thốt ra
lời chế diễu người có tâm huyết:
"Hay giỏi sao không về Việt nam mà chống
Cộng !"
- Đoàn thể, tổ chức người Việt
hải ngoại, nhất là tại Hoa kỳ thật
phong phú đa dạng, nhưng không thống nhất, chia rẽ bè nhóm … Một
tiểu bang có hai Cộng đồng người Việt.
Một tổ chức cùng màu áo nhưng
không chung một lòng. Chính vì thế, cho
tới nay sau 34 năm, chúng ta vẫn chưa có Tổng
Hội Việt Nam Hải Ngoại hay Tổng Hội Việt
Nam
tại Hoa Kỳ !
Nếu chúng ta thấu triệt bài học
đơn sơ "bó đũa" người cha
dạy các con bài học đoàn kết.
Nếu chúng ta luôn ghi tâm khắc cốt
lời ông cha dạy : "Hợp quần gây sức
mạnh" hay "Đoàn kết thì sống, chia rẽ
thì chết", chúng ta mới hy vọng giải
thoát Tổ quốc khỏi chế độ nô lệ
Cộng sản.
Vì Đoàn kết Thống nhất sẽ
đem lại cho chúng ta nhiều kết quả thực
tế trước mắt:
- Tại Hoa kỳ : bảo vệ hữu hiệu, hợp
pháp hay hỗ trợ đắc lực cho cá
nhân, đoàn thể, phong trào khi gặp khó
khăn trở ngại trong tranh đấu giải thể
chế độ Cộng sản, đem lại tự do hạnh
phúc cho Quê hương.
- Tại Quốc nội: hỗ trợ mạnh mẽ,
gây niềm tin tưởng phấn khởi cho cá
nhân hay các phong trào yêu nước nổi dậy
lật đổ chế độ Cộng sản, phục
hưng Tổ quốc.
- Tại Quốc tế : tiếng nói duy nhất
của Tổng Hội Việt Nam Hải Ngoại hay Tổng
Hội Việt Nam tại Hoa- Kỳ, tạo nên sức
mạnh thực lực khiến các Phong trào, Tổ
chức trên Thế giới công nhận và sẵn
sàng hỗ trợ nhiều
mặt …
Ngày nghỉ hưu sắp dến,hình ảnh
các sĩ phu xưa sau khi "công thành danh toại" cùng những lời
thơ mà trước đây khi còn ngồi
trên ghế học đường, tôi cho là
bi quan yếm thế, giờ thấy ý nghĩa trong cuộc
sống về chiều.
Nào Uy Viễn tướng công Nguyễn
công Trứ cuộc đời thật thăng trầm,
khi thăng chúc tướng công, lúc hạ xuống
làm lính, cũng qua rồi như giấc mộng Nam kha:
- Chen chúc lợi danh đà
chán ngắt,
Cúc tùng, phong nguyệt mới
vui sao,
Đám phồn hoa, trót bước
chân vào,
Sực nghĩ lại, giật mình
bao xiết kể !
Thôi thì hãy chọn lựa cuộc sống
bình dị, để tâm hồn thảnh thơi
nơi chốn am mây như cụ Nguyễn Khuyến:
- Từng mây lơ lửng trời
xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng
teo,
Tựa gối ôm cần câu chẳng
đặng,
Cá đâu đớp động
dưới chân bèo.
Hay sự chọn lựa
ngừoi đời cho là nghịch lý, không
bon chen danh lợi mà Trạng TrìnhNguyễn bỉnh
Khiêm lại tìm đến:
- Ta dại,ta
tìm nơi vắng vẻ,
Người
khôn, người đến chốn lao xao,
Thu ăn măng
trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ
sen,hạ tắm ao.
Một quân sư nổi
tiếng như Nguyễn Trãi, lưu truyền áng
văn bất hủ "Bình Ngô Đại cáo"
như kim chỉ nam sách lược thu phục
nhân tâm, rồi cũng tìm về Côn
sơn qui ẩn, dù chưa thoả nguyện sau bao
năm giúp Bình Định Vương thu giang
sơn về một mối
"Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần"
:
- Quân thân
vương vấn trong lòng,
Suối rừng hổ
thẹn vì không giải nguyền,
Cõi trần trải
mấy mươi niên,
Tiếng chim gợi
nhớ lãng quên thủa nào !….
Tôi mỉm cười,
tự chế diễu mình vì những ý
tưởng hoài cổ trên.
Tôi đang sống giữa
thời đại văn minh tiến bộ, đâu phải
thời đồ đá lạc hậu.
Tôi đang sống
trên một cường quốc dẫn đầu thế
giới, chứ đâu phải nơi tối "đỉnh
cao trí tuệ loài người".
Vì thế sau những
thủ tục nghỉ hưu, tôi quyết định
dời về miền nắng ấm Cali sống những
tháng ngày cuối đời cùng con cháu.
Lại một cuộc hành trình từ
Đông sang Tây nuớc Mỹ. Trong đời
tôi đã 3 lần
những chuyến đi dài. Lần đầu
tiên từ Bắc vào Nam, dọc chiều dài
Tổ quốc để tránh nạn Cộng sản.
Lần thứ hai, cuộc viễn du nửa vòng
trái đất từ Việt Nam ngục tù đến
Mỹ quốc tự do. Hai chuyến đi đầu mang
ý nghĩa tinh thần đắt giá hơn vật
chất. Riêng lần thứ ba này, nhẹ
nhàng hơn vì không còn tư tưởng
giải thoát hay chạy trốn, nhưng là
tìm kiếm, chọn lựa cho mình cuộc sống
thích hợp, thoải mái hơn. Tuy nhiên
không tránh khỏi ít nhiều luyến lưu
với những kỷ niệm gắn bó bước
đầu mưu sinh nơi đất khách quê
người gần 20 năm.
Nhìn những vật dụng thân quen hàng
ngày, những đồ chơi của các
cháu, vất bỏ chồng chất ngổn ngang
ngoài mưa tuyết đang rơi, tôi thấy thấm
thía hai câu:" Ði
là chết trong lòng một ít" hay "Ba lần
dọn nhà bằng một lần cháy
nhà" đúng cả về tinh thần lẫn vật
chất.
Với hành trang gọn
nhẹ, tôi cảm giác như mình đang bắt
đầu cuộc sống mới. Tuy thế sau khi rời
về Tiểu bang mới, tôi chấp nhận cuộc
sống đơn giản, hạn hẹn với số tiền
hưu sau 18 năm làm việc, vì "Tri túc, tiện
túc, đãi túc, hà thời túc; Tri
nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời
nhàn".
Ngày tháng
còn lại, tôi cố gắng làm được
chút gì có ích cho con cháu, cho thế hệ
tương lai như cây Bôn-sai trông cằn
cỗi, sần sùi, khẳng khiu, vẫn cố
vươn lên sinh lực còn sót lại, trổ
thành những bông hoa tươi đẹp mang ấm
áp vui tươi cho người.
Tôi đang
đón nhận niềm vui lớn vì những
mơ ước thời trai trẻ của mình,
đang được con cháu tiếp nối trên
đất nước này - Mỹ Quốc tuy không
là Thiên đàng hạ giới, nhưng sẵn
sàng cung cấp hành trang vào đời vững
chắc cho thế hệ theo sau, không còn phải sống
kiếp nô lệ lầm than, mặc dù:
Đây
không phải Thiên Đàng
Đây chỉ
là Trần Gian,
Nhưng không
là Địa Ngục,
Của Quỉ Đỏ gian tham !
Đinh Quân
(Bai Chuyen)