SU'U TÂ`M 11

Home | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | SUY NGÂM~ 7 | SUY NGÂM~ 8 | SUY NGÂM~ 9 | CU'̉'I CHÚT CHO'I | CU'̉'I CHÚT CHO'I [tt] | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | LINKS | TIN .. TH̉'I SU'. | TIN .. TH̉'I SU'. [tt] | LU'U Ư | THÚ VI. | THÚ VI. [tt] | CHUYÊ.N KHÓ TIN | CHUYÊ.N CÔ? | CHIUYÊ.N CÔ? [tt] | CHUYÊ.N CÔ? 1 | CHUYÊ.N CÔ? 2 | CHUYÊ.N CÔ? 3

BÀI VIÊ'T

THẤY

 

THẤY

(Trần Doãn Nho)

 

 

Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn

Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ

(Tô Thùy Yên)

 


Hiu Quạnh lớn ! Giữa đời, có lẽ cũng không có mấy lúc ta biết đến cái hiu quạnh lớn như thế. Tô Thùy Yên cảm nhận được nó khi đứng trước biển khơi trùng trùng vô hạn.

 

Riêng tôi, cái hiu quạnh lớn đến vào những ngày tiếp sau biến cố 30/4/1975. Cuộc sống to lớn mênh mông dường ấy, rộn ràng dường ấy mà tôi cảm thấy chỉ có mình mình đối diện với đất trời quạnh quẽ. Mọi thứ đều vỡ vụn. Mọi niềm tin đều như "những viên đá cuội rớt vào lòng biển khơi", mù tăm mất dấu. Tin Mỹ, Mỹ bỏ rơi. Tin chính quyền, chính quyền bỏ chạy. Tin quân đội, quân đội tan rã. Tin bạn bè, bạn bè thất tán, ngu ngơ, mỗi người một ngả. Tin đất nước, đất nước tàn phai. Chúa bỏ đi, Phật cũng chẳng thấy. Mênh mang tuyệt vọng. Chung quanh mình là một hoang vu. Tin ai bây giờ giữa cơn sóng gió quê hương hung hãn đang đổ lên số phận từng người ?!

 

Tin ai ? Ai tin? Câu hỏi đó là nỗi vật vã triền miên của có lẽ không chỉ có một mình tôi vào thời gian đó.

 

Ai đó đã từng nói: người ta sống không chỉ bằng bánh mì mà còn bằng niềm tin. E đúng. Khi mất niềm tin rồi mới thấy cuộc đời chẳng có ý nghĩa gì.

 

Tôi tự hỏi: tin là gì vậy nhỉ ?

 

Tin, xét cho cùng, bao giờ cũng là tin vào một cái gì hay vào một người nào đó. Tin là đặt tương quan giữa mình như một chủ thể và một cái gì khác mình, ở ngoài mình. Không có niềm tin khơi khơi tự nó. Khi niềm tin bị lung lay, người ta nói củng cố niềm tin. Củng cố niềm tin là củng cố mình mà cũng là củng cố đối tượng của niềm tin. Đối tượng của niềm tin có thể là rất cụ thể và hoàn toàn có cơ sở nhưng cũng có thể trừu tượng, vô hình vô ảnh. Đó có thể là một lời nói, một hình dáng, một điều tưởng tượng hay một ý niệm. Đối tượng có thể khách quan mà cũng có thể chủ quan. Ta tưởng tượng ra một điều và tin vào nó y như thật. Có người bị bịnh ung thư, tin rằng mình sẽ hết bệnh. Và rồi hết bệnh thật. Để giữ niềm tin lâu bền, đối tượng của nó phải nhiều lớp, nhiều mặt nạ. Hễ lớp này bị tróc đi qua kiểm nghiệm của thực tế, ta sẵn có lớp khác để dựa vào. Gần gũi, cụ thể thì tin bạn, tin người thân, tin người tình, tin lãnh tụ, tin tổ chức. Cao hơn nữa thì tin vào chủ thuyết, vào luật pháp, vào nhà nước. Trừu tượng hơn thì tin vào Phật, vào Chúa, vào đời sau. Tóm lại, dường như mọi mưu cầu trong đời sống không có gì thoát khỏi niềm tin. Đối tượng thì thay đổi nhưng bản chất của niềm tin thì vẫn thế. Vẫn là đặt mình vào một cái gì không phải là mình. Vì thế, những sự xấu xa, tệ hại trong cuộc sống thường xuất phát từ sự vỡ vụn niềm tin. Phản bội, lọc lừa, đón gió trở cờ … là những dạng thức của niểm tin bị tróc gốc.

 

Đời người, ai cũng trải qua vô số lần tin và nhiều lần vỡ mộng. Những chuỗi tin và vỡ mộng tạo thành cái mà người ta gọi là kinh nghiệm. Kinh cung chi điểu - con chim bị bắn rồi, thoát chết giờ thấy cành cây cong cũng sợ. Không tin nữa. (Nhưng chỉ không tin cái gì có hình dạng cây cung thôi). Hồi nhỏ, tôi đã chống chỏi với cái thể giới đe dọa, đầy hồn ma bóng quế chung quanh bằng cách niệm Phật mỗi khi đi trong đêm tối hoặc cắt hình Phật dán quanh phòng với niềm tin rằng có Phật thì ma sẽ sợ mà tránh xa. Lớn lên, niềm tin nhảm nhí ấy mất dần. Tưởng là hết hẳn khi bước vào tuổi trưởng thành. Hóa ra không phải. Hết sợ ma, lại sợ người. Hết sợ người lại sợ mình. Và phải tìm kiếm một cái gì để tin tiếp. Tôi bắt đầu tin vào khoa học, luận lý, triết lý. Hồi nhỏ, tin Phật để trừ ma. Lớn lên, tôi tin Phật bằng một con đường khác trông có vẻ trí thức hơn qua các công án thiền và các kinh điển thuộc loại cao cấp. Học võ vẽ năm, ba chữ là bắt đầu ba hoa chích chòe về “đốn ngộ”, “sắc sắc không không”, “chấp ngã”, vân vân. Không chỉ chừng đó. Còn nào là cách mạng, vong thân, biện chứng pháp, nào là hiện sinh, hư vô, phi lý, vân vân và vân vân. Lúc này là lúc tin chữ, mê chữ với ý nghĩ rằng chữ nghĩa có thể thay đổi thế giới, mang lại hạnh phúc, chấm dứt bất công trần thế. Chữ nghĩa trở thành những ám ảnh - hơn thế nữa, trở thành những thực thể, đôi khi tưởng như có thể cầm nắm được, tiêu xài được. Ai đã từng sống qua những giai đoạn nhiễu nhương đó (trước 1975), lại không ít nhiều bị cuốn hút, bị mê hoặc bởi những cụm từ thời thượng: cách mạng, vô sản, giai cấp, tổ quốc, giải phóng, hiện sinh, buồn nôn …

 

Dường như càng học, càng đọc thì niềm tin nói chung không mất đi mà trái lại càng lớn, càng sâu. Sâu đến độ chúng có vẻ như không phải là niềm tin nữa mà là điều có thật. Khi đã tin niềm tin mình là chân lý thì người ta bắt đầu xem niềm tin của người khác là mê tín, trẻ con, nhảm nhí. Chỉ khi nào những điều tưởng như chân lý ấy đổ vỡ thì ta mới rõ ra đó cũng chỉ là những niềm tin. Hơn thế nữa, chỉ là ảo tưởng. Tin đậm quá thành mê. Mê quá dứt ra không được thì thành mê tín. Mê tín cuồng nhiệt thì thành cuồng tín. Đặc tính của những người cuồng tín là chỉ thấy mình mà không thấy người khác, xem những gì người khác tin (hay không tin) là mê tín.

 

Trong bản chất, niềm tin chứa đựng tính phi lý. Tertullien nói: “Tôi tin vì điều ấy phi lý” (credo qui a absurdum est = I believe because it is absurd”) (1). Điều phi lý ấy, điều bất khả ấy thực ra, không xuất phát từ đối tượng của niềm tin mà lại là bản chất của chính niềm tin. Khi một niềm tin được hình thành thì lập tức, đối tượng của nó được bao bọc bằng một lớp mặt nạ vững chắc bao gồm cả tình cảm lẫn luận lý. Nó được vũ trang bằng mọi thứ, biến thành một quán tính, là thành trì bảo vệ niềm tin. Một khi đã như vậy thì thường người ta chẳng thèm lưu ý đến khái niệm đúng sai, thiện ác. Trong đời sống hàng ngày, niềm tin gây ra những biến tướng như mặc cảm, ngộ nhận, thành kiến. Những biến tướng này có thể tồn tại lâu dài ngay cả khi niềm tin “gốc” của nó đã bị vỡ vụn.

 

Nó tạo ra những yêu, ghét rất đặc dị:

 

Khi yêu, yêu cả đường đi

Khi ghét, ghét cả tông chi họ hàng.

 

Khi tôi nói rằng “thằng ấy ác lắm” thì có nghĩa rằng tôi tin thằng ấy ác. Khi tôi nói “bà ấy rất tốt”, nghĩa là tôi tin rằng bà ấy tốt. Khó mà tìm ra một phán đoán có tính cách khách quan. Mỗi người, khi sử dụng lý luận, đều dựa trên một tiền đề có sẵn của mình, ấy là niềm tin vào một cái gì mà mình tích lũy được rất lâu trước đó. Thành thử ra, giữa niềm tin và lý luận có một sự cố kết, nhiều khi chặt chẽ đến nỗi ta khó thể phân biệt đâu là cái khách quan của lý luận và đâu là cái chủ quan của niềm tin. Từ đó đưa đến những tranh cãi triền miên không dứt, không tìm ra giải đáp khiến cho lắm lúc sự tranh cãi chấm dứt bằng chiến tranh, bạo lực - nghĩa là phải tiêu diệt đối thủ để “nó” không còn tranh cãi được nữa. Cứ thử xem hai người Quốc Gia và Cộng Sản ngồi cãi nhau hay nghe lập luận của hai phe chống và ủng hộ cuộc chiến tranh tại Irag hiện nay (ở Liên Hiệp Quốc) thì rõ. Bên nào cũng có lý cả. Mà thực ra bên nào cũng dưa cái lý ra dựa theo quan điểm mà mình tin là đúng. Chung quy là anh tin cái của anh còn tôi thì tôi chỉ tin cái của tôi.

 

Phật có cho một thí dụ đầy ấn tượng. Một hôm Phật đưa một bàn tay đang nắm chặt lại của mình trước mắt một đệ tử và bảo rằng “Ta nói rằng trong bàn tay ta có một viên ngọc, con có tin không ?”. Người đệ tử trả lời: “Dạ tin”. “Vì sao ?”, Phật hỏi “Vì  sao con biết Đức Phật không bao giờ nói dối”, người đệ tử trả lời. Sau đó, Phật xòe bàn tay ra. Người đệ tử nhìn thấy quả thật có một viên ngọc quý nằm trong đó. Phật lại hỏi: “Bây giờ con có còn tin nữa không ?”. Người đệ tử đáp: “Thưa Đức Phật, không”. “Vì sao ?”, Phật hỏi. “Vì con đã thấy nó rồi”, người đệ tử đáp.

 

Từ thí dụ đó, Phật bảo “Nhận biết như người ta thấy một viên ngọc trong bàn tay”.

 

Thí dụ thật độc đáo. Và cụ thể. Tôi khoái. Nó như một tia chớp loé sáng trong đầu óc vốn đầy luận lý của mình. Khi chưa thấy viên ngọc, người đệ tử (và cả chúng ta) tin rằng chắc chắn là có viên ngọc trong bàn tay, bởi vì Phật đã nói như vậy. Phân tích kỹ, ta thấy, người đệ tử không hẳn tin vào viên ngọc mà tin vào Phật, người mà ông ta cho rằng không bao giờ nói dối. Niềm tin, như thế, có tính cách vòng vo. Nó chạy vòng vòng qua nhiều trung gian. Tin một người nào đó, vì thấy người đó đàng hoàng, ăn nói nhỏ nhẹ, hay giúp đỡ, giữ lời hứa, không ăn nói bậy bạ … Đùng một cái, người đó mưọn tiền không chịu trả. Thế là hết. Mọi thứ tin cũ đều tiêu tan. Những tính cách như “đàng hoàng”, “ăn nói nhỏ nhẹ”, “hay giúp đỡ”, “giữ lời hứa”… đều trở thành vô nghĩa. Khi “thấy” rồi, các trung gian lập tức biến mất vì thực tình những trung gian đó chỉ là “trung gian”, nghĩa là giả, huyễn cả. Trong thí dụ trên của Phật, thấy viên ngọc rồi thì ý niệm về bàn tay cũng mất, ý niệm về Phật đồng thời cũng mất mà ý niệm về viên ngọc cũng mất luôn. Y như khi ta qua đến đất Mỹ rồi, đi chợ Mỹ rồi, ăn đồ Mỹ rồi, cày trong các hãng xưởng Mỹ rồi, trả bill Mỹ rồi, hưởng thụ cũng như chịu đựng “giấc mơ Mỹ” rồi thì mọi ý niệm về một nước Mỹ tự do, bình đẳng, giàu có tự nhiên biến mất. Thấy rồi, đâu cần lý luận, đâu cần chứng minh.

 

Giáo lý của đạo Phật được gọi tóm tắt trong phạn ngữ là “chi-passika”, nghĩa là “đến để thấy” chứ không phải để tin. “Trong các bản kinh văn, những từ ngữ luôn luôn được dùng để chỉ những người đã chứng ngộ chân lý là “dhamma cakkhu”, nghĩa là “pháp nhãn” (con mắt pháp), không bụi bặm và không cáu bẩn đã phát sinh: “Người nào đã thấy chân lý, đã vượt qua hoài nghi, người ấy không còn do dự. Với trí huệ chân chính người ấy thấy sự vật đúng như sự vật (yathà bhùtam)” (2).

 

Trong một hướng tương tự, linh mục Pierre Teillard de Chardin, đã đặt việc “thấy” (voir=seeing) là yếu tố hàng đầu trong sự nghiệp khoa học và tôn giáo của ông khi nghiên cứu về con người. Trong lời tựa của một trong những tác phẩm quan trọng nhất của mình “The Phenomenon of Man” (nguyên bản tiếng Pháp là “Le phénomène humain”), ông viết “Tác phẩm này có thể tóm tắt như một dự tính là thấy và làm cho nọi người khác thấy cái gì xảy ra với con người…"Thấy". Chúng ta có thể nói rằng toàn bộ đời sống - nếu nó không là tối hậu thì ít nhất cũng là chính yếu - nằm ở động từ (thấy) này (…) Không còn hoài nghi gì nữa, đó là lý do tại sao lịch sử của thế giới sống có thể tóm tắt như là sự thêm vào của những đôi mắt càng hoàn hảo hơn bên trong một vũ trụ, ở đó, luôn luôn có thêm những điều cần được nhìn thấy. Sau hết, chúng ta đã chẳng phán đoán sự hoàn hảo của một con vật, hoặc ưu thế của một sinh vật suy tưởng bằng sự quán triệt và quyền năng tổng hợp của cái nhìn của chúng đó sao ? Nỗ lực nhìn nhiều hơn và tốt hơn chẳng phải là vấn đề tùy hứng hay tò mò hay sự phóng túng. Thấy hoặc bị tiêu diệt chính là điều kiện khiến cho mọi vật tạo nên vũ trụ, bởi vì đó là món quà bí nhiệm của hiện hữu. Và điều này, ở mức độ cao hơn, chính là thân phận con người” (3) (Những chữ in nghiêng là do tôi nhấn mạnh)..

 

Vậy, thấy ở đây, chính là nhận ra cái bản lai diện mục của sự vật. Thấy, chính là cái nhìn nội tâm, là sự thấu tình đạt lý. Ở trong Phật giáo, thấy là một trạng thái sạch không, không dính, bám, không vướng. Thấy, nói xa hơn, chính là “chứng”, là “ngộ”. Khi thành Phật, thái tử Tất Đạt Đa thấy hết, thấy suốt toàn bộ một lần. “Nói đến sự giác ngộ của chính Ngài, Đức Phật dạy “Con mắt đã phát sinh, trí thức đã phát sinh, kiến giải đã phát sinh, ánh sáng đã phát sinh”. Luôn luôn đấy là sự thấy biết qua trí hay huệ (nànađassana), chứ không phải sự tin tưởng qua đức tin” (4). Hành vi chứng ngộ, chính là hành vi thấy, thấy vật thấy người, thấy mình, thấu đạt cái thể tính uyên nguyên của sự vật. Thấy, là “kiến tánh”. Kiến tánh rồi là không vậy ! Trong một giới hạn nào đó, không ở đây tức là không tin, không còn niềm tin nữa.

 

Ai cũng trải qua nhiều lần tin và nhiều lần thấy. Thấy được cái này rồi lại tin vào cái khác, triền miên không dứt. Khi bế tắc, không thiếu lúc người ta trở về cái tin cũ, mặc dầu đã từng “thấy” nó. Chỉ vì căn cốt của mọi niềm tin là tin chính mình: chấp ngã. Mê tín bản thân. Tin một cái gì đó là vì nó thuộc một phần của tôi, có lợi cho tôi. Khi tôi không tin cái đó nữa, tôi vứt nó đi và lấy một cái khác thay thế vào. Quá trình được lặp lại: cái đó là của tôi, thuộc phe tôi. Vậy, thủy chung hay bội bạc có cái gì giống nhau: tin mình, mê mình, chỉ biết có mình. Khi thấy chung thủy không có lợi là bèn bội bạc. Cái khác là ở chỗ, đối tượng của nó thay đổi: tin cái này và không tin cái kia nữa. Mở rộng ra, cái ngã muốn thu tóm cả thế giới. Thu hẹp lại, cái ngã co cụm vào đến từng chi tiết tế vi nhất. Phật bảo: “Chấp trước vào một điều gì (một quan điểm nào) và khinh miệt những điều khác (quan điểm khác) xem là thua kém - đấy người trí giả gọi là một xiềng xích” (5). Điều này không loại trừ giáo lý giải thoát của chính Phật. Nói một cách khác, ngay cả chấp trước vào chính giáo lý giải thoát của Phật cũng là một xiềng xích. Nói một cách khác nữa, trên quá trình giải thoát, người tu hành phải loại bỏ thành lũy, chướng ngại cuối cùng: đó là niềm tin vào chính giáo lý của Phật, tin vào Phật như là chân lý.

 

Phần tin nằm trong “Kinh nền tảng Đức Tin” thường được biết là kinh Phật thuyết cho người dân Kalama, theo đó:

 

- chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó là truyền thuyết.

- chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.

- chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.

- chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở.

- chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó thuộc về lý luận siêu hình

- chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.

- chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.

- chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.

- chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó phù hợp với định kiến của mình.

- chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.

 

Hết nói ! Chẳng khác gì là một cách phủ nhận niềm tin ? Có thể. Thực ra, theo tôi, những lời khuyên đó nhằm mục đích cảnh giác con người về tính cách bất trắc của niềm tin. Luôn luôn đánh giá lại cách tin của mình. Hay nói cho rốt ráo thì không nên tin. Tìm cách để thấy.

 

Chưa thấy mới cần tin

Thấy rồi thì hết tin

 

Theo tôi, đó là thông điệp đơn giản nhất và có lẽ cũng là phức tạp nhất mà Phật gửi cho con người ở mọi thời.

 

Tiếp nhận thông điệp ấy như thế nào lại là một việc khác.

 

 

TRẦN DOÃN NHO

 

______________

 

(1) Dẫn lại theo Carl Jung, Psychological Types, bản tiếng Anh của H.G.Baynes, Princeton University Press, Princeton, W.J, 1974, tr. 12-13.

(2) & (4) Con đường thoát khổ, bản dịch Thích Nữ Trí Hải, tr. 25,

(3) Pierre Taillhard de Chardin, The Phenomenon of Man, bản tiếng Anh của Wm. Collins Sons & Cọ Ltd., London and Harper & Row, Publishers, New York

 

 

 

(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)

 

 

website counter