Sự Tích Con Dã
Tràng
(Tác Giả: Truyện Cổ
Tích)
Có hai vợ chồng một ông già
tên là Dã Tràng. Trong vườn họ
có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ
gần đấy, ông già vẫn thấy có một
cặp vợ chồng rắn hổ mang ra vào trong
hang.
Một hôm, con rắn chồng bò ra khỏi
hang một mình. Ông nhìn vào, thấy rắn
vợ nằm cuộn ở trong. Vì mới lột
nên mình mẩy của nó yếu ớt
không cựa quậy được. Một lúc
lâu rắn chồng bò trở về, miệng tha một
con nhái đút cho vợ ăn.
Ít lâu sau. Dã Tràng lại thấy rắn
vợ bò ra khỏi hang một mình. Lần
này rắn chồng đến kỳ lột, nằm
im thiêm thiếp, lốt da cũ còn bỏ lại
bên hang. Hồi lâu, rắn vợ trở về,
theo sau một con rắn đực khác khá lớn.
Dã Tràng thấy hai con bò đến cửa
hang thì dừng lại rồi quấn lấy nhau
như bện dây thừng. Một lát sau, con rắn
đực một mình bò vào hang. Dã
Tràng biết con rắn đực này toan làm
gì rồi. Ổng cảm thấy ngứa mắt, muốn
trừ bỏ con rắn đó đi để cứu
con rắn chồng đang lúc suy nhược. Lúc
đó bên mình không có cái gì
cả, ông bèn rút một mũi tên nhằm
con rắn đực mới đến, bắn ngay một
phát. Không ngờ mũi tên lại trúng
vào đầu con rắn vợ chết tươi,
còn con kia hoảng hồn chạy mất. Dã
Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái,
nhưng trong cái thương có lẫn cả giận,
nên ông chán nản bỏ đi về nhà.
Từ đó ông không thèm để
ý đến hang rắn nữa. Chừng dăm bảy
ngày sau, một hôm Dã Tràng nằm
võng thuật chuyện vợ chồng con rắn cho vợ
nghe và vui miệng, ông kể luôn những việc
mình đã thấy và đã làm.
Ông kể vừa dứt lời thì bỗng nghe
trên máng nhà có tiếng phì phì.
Cả hai người hốt hoảng nhìn lên
thì thấy có một con rắn hổ mang rất
lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu
vươn gần chỗ ông nằm, miệng nhả một
viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng
nghe được tiếng rắn nói:
- Ông là ân nhân mà tôi cứ
ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi
đợi ông trên máng này chỉ chực
mổ chết để báo thù cho vợ tôi.
Nhưng hồi nãy nghe ông kể chuyện rõ
ràng, tôi mới biết là lầm. Xin biếu
ông viên ngọc nghe nàỵ Đeo nó
vào mình thì có thể nghe được
mọi tiếng muông chim ở thế gian.
Từ kinh ngạc đến sung sướng,
Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ
đó không bao giờ rời.
Một hôm, Dã Tràng đang hái rau, tự
dưng có một bầy quạ đến đậu
ở mấy ngọn cau nói chuyện lao xao. Chúng
nó bảo Dã Tràng như thế này:
"Ở núi Nam
có một con dê bị hổ vồ. Hãy
lên đó lấy về mà ăn nhưng nhớ
để lòng lại cho chúng tôi với".
Dã Tràng làm theo lời quạ, quả thấy
xác một con dê trên núi Nam. Ông xẻo lấy
một ít thịt xâu lại xách về. Đến
nhà, ông vội mách cho xóm giềng biết
mà đi lấy, không quên dặn họ để
bộ ruột dê lại cho bầy quạ. Nhưng
ông không ngờ người trong xóm nghe tin ấy,
đua nhau đi đông quá, thành ra họ lấy
tất cả, chẳng chừa một tí gì.
Lũ quạ không thấy ruột dê, cho
là Dã Tràng đánh lừa, bèn đổ
xô đến vườn ông réo om sòm. Thấy
vậy ông biết là người trong xóm
đã làm hại mình, không giữ chữ
tín với bầy quạ. Ông phân trần mấy
lần nhưng bầy quạ không nghe, cứ đứng
đó chửi mãi.
Tức mình, ông bèn lấy cung tên ra
bắn vào chúng. Chủ ý là để
đuổi chúng đi chứ không định giết.
Chẳng ngờ bầy quạ thấy vậy cho là
ông lấy oán trả ân, liền cắp mũi
tên có tên Dã Tràng ở đuôi,
tìm dịp báo thù. Lúc bay qua sông, thấy
một cái xác chết trôi, đàn quạ
bèn đem mũi tên ấy cắm vào yết
hầu xác chết. Khi quan sở tại đến
làm biên bản, thấy mũi tên, liền
đoán Dã Tràng là thủ phạm, sai
lính bắt ông, hạ ngục.
Dã Tràng bị bắt bất ngờ, hết
sức kêu oan, nhưng mũi tên là một chứng
cớ sờ sờ làm cho ông đuối lý,
đành chịu chui đầu vào gông. Tuy
nhiên, ông vẫn một mực xin quan xét giải
ông về kinh để vua phân xử.
Từ đề lao tỉnh, ông bị điệu
đi. Dọc đường trời tối, bọn
lính dừng lại quán ăn uống và nghỉ
ngơi. Dã Tràng cổ bị gông, chân bị
xiềng nằm trên đống rơm buồn rầu
không ngủ được. Lúc trời gần rạng,
ông nghe có một đàn chim sẻ bay ngang
đầu nói chuyện với nhau:
- Nhanh lên ! Chuyến này sẽ không lo
đói nữa mà cũng chả sợ ai
đánh đuổi cả.
Một con khác hỏi:
- Của ai mang đến bỏ vương vãi
như thế ?
Con nọ trả lời:
- Của Vua nước bên kia. Họ toan kéo
sang đánh úp bên này. Ngày hôm
qua, quân đội giáo mác kéo đi
liên miên không ngớt. Nhưng xe thóc vừa
sắp đến biên giới thì bị sụp hầm
đổ hết. Họ đang trở về lấy thứ
khác cho nên chúng ta tha hồ chén.
Nghe đoạn, chờ lúc bọn lính
thúc dục lên đường, Dã Tràng bảo
họ:
- Xin các ông bẩm lại với quan rằng
việc oan uổng và nhỏ mọn, không nên
bận tâm, mà giờ đây chỉ nên lo
việc quốc gia trọng đại thôi, và
còn cấp bách nữa là khác.
Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng
ông không nói gì thêm, chỉ nài rằng
hễ có mặt quan, mình mới tỏ bày
rõ ràng.
Khi gặp mấy vị quan đầu tỉnh,
Dã Tràng liền cho họ biết rằng Hiến
Đế ở phương bắc đã sai tướng
cầm quân sang đánh úp nước
mình. Hiện họ đang đóng quân đầy
ở biên giới, chỉ vì bị sụp hầm,
xe lương đổ hết, chưa tấn công
được. Bây giờ họ đang vận
thêm lương, chờ đầy đủ sẽ
vượt cửa ải sang Nam. Bọn quan tỉnh lấy
làm lo lắng nhưng cũng cố hỏi ông có
dám chắc như vậy không. Dã Tràng chỉ
vào đầu mình mà đoan rằng nếu
có sai, ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu
lời của ông đúng thì xin bề
trên thả ra cho. Ngay lúc đó, những
tên quân do thám được tung đi tới
tấp mọi ngõ để lấy tin. Và nội
ngày hôm sau, Dã Tràng được thả
vì lời mách của ông quả không sai
và vừa vặn đúng lúc để chuẩn
bị đối phó với địch.
Được tha, Dã Tràng đi bộ lần
về quê nhà. Bóng chiều vừa ngả,
ông mới đến vùng Hồng Hoa. Ông
tìm vào nhà người bạn rất
thân là Trần Anh nghỉ chân.
Gặp lại bạn cũ, vợ chồng Trần
Anh vui mừng khôn xiết. Nghe tin ông bị tra tấn
giam cùm và suýt mất đầu, hai vợ chồng
rất cảm thương bạn. Thấy bữa ăn tối
thết bạn không có gì, Trần Anh xuống
bếp bảo vợ:
- Bạn ta đến, lại gặp lúc trong
nhà chả có gì ăn. Sẵn có cặp
ngỗng, con nó đã khôn, ta làm thịt
một con, ngày mai đãi bạn lên đường.
Người vợ bằng lòng nhưng dặn
chồng sáng sớm bắt ngỗng và cắt tiết
vặt lông giúp mình một tay. Trong khi hai vợ
chồng bàn tính thì cặp ngỗng ở
ngoài chuồng nghe được câu chuyện. Ngỗng
trống bảo ngỗng mái:
- Mình ơi ! Mình hãy ở lại
nuôi con, tôi sẽ đứng sẵn cho chủ
nó bắt. Ngỗng mái không nghe, xin chết
thay cho chồng. Nhưng ngỗng trống nhất quyết
hy sinh, nên chạy ra sân từ giã đàn
con:
- Con ơi ! Các con ở lại với mẹ
nghe. Cha sẽ không bao giờ gặp lại các con
nữa.
Song ngỗng mái vẫn lạch bạch chạy
theo, đòi chết thay chồng cho bằng được.
Lúc bấy giờ Dã Tràng nằm
trên bộ ván đặt kề cửa sổ
nên nghe được tiếng ngỗng than thở.
Ông bỗng thấy thương con vật vô tội
chỉ vì mình mà phải lìa đàn
con bé bỏng. Ông toan nói trước với
bạn, nhưng thấy bất tiện. Ông
đành nghe ngóng ở chỗ chuồng ngỗng
chờ lúc bạn ra bắt thì sẽ cản lại.
Suốt đêm hôm đó tuy mệt
mà ông không dám ngủ. Quả nhiên,
vào khoảng canh tư, Trần Anh thức dậy
bước ra chuồng. Ngỗng trống xua ngỗng
mái chạy rồi vươn cổ để cho bắt.
Trần Anh sắp cắt cổ ngỗng thì Dã
Tràng đã lật đật chạy xuống bếp
nắm lấy đao. Ông nói:
- Xin bạn thả nó ra. Tính tôi
không hay sát sinh. Tình thân của
đôi ta lọ phải cỗ bàn mới thân.
Nếu bạn giết nó thì tôi lập tức
đi khỏi chỗ này.
Thấy bạn có vẻ quả quyết, Trần
Anh đành thả ngỗng ra, rồi giục vợ chạy
đi mua tép về đãi bạn.
Cơm nước xong, Dã Tràng từ
giã bạn lên đường về nhà.
Đến ao, ông đã thấy vợ chồng ngỗng
cùng với bầy con đứng chực ở đấy.
Ngỗng đực tặng Dã Tràng một
viên ngọc và nói:
- Đa tạ ân nhân cứu mạng.
Không biết lấy gì báo đền,
chúng tôi xin tặng người viên ngọc
này, mang nó vào người có thể
đi được dưới nước dễ
dàng không khác gì trên bộ. Nếu
đem ngọc này xuống nước mà khoắng
thì sẽ rung động đến tận
đáy biển.
Ngỗng lại nói tiếp:
- Còn như con tép là vật đã
thế mạng chúng tôi thì từ nay,
dòng dõi chúng tôi sẽ xin chừa
tép ra không ăn, để tỏ lòng nhớ
ơn !
Dã Tràng không ngờ có sự
báo đáp quá hậu như thế, sung
sướng nhận lấy ngọc rồi về.
Khi đến bờ sông, Dã Tràng muốn
thử xem công hiệu của viên ngọc mới,
liền cứ để nguyên áo quần đi xuống
nước. Thì lạ thay, nước rẽ ra
thành một lối cho ông đi thẳng xuống
đáy sông. Ông dạo cảnh hồi lâu
rồi cầm viên ngọc khoắng vào nước
nhiều lần để thử xem thế nào.
Hôm đó, Long Vương và các triều
thần đang hội họp ở thủy phủ bỗng
thấy nhà cửa lâu đài và mọi
kiến trúc khác bỗng nhiên rung động,
cơ hồ muốn đổ. Ai nấy đều
nháo nhác không hiểu duyên cớ. Vua lập
tức truyền cho bộ hạ đi dò la sự
tình.
Bộ hạ Long Vương theo con đường
sóng ngầm lọt vào cửa sông thì thấy
Dã Tràng đang cầm ngọc khoắng vào
nước. Mỗi lần khoắng như thế, họ
cảm thấu xiêu người nhức óc. Tuy biết
đích là thủ phạm, họ cũng không
dám làm gì, chỉ tiến đến
dùng lời nói khéo mời ông xuống
chơi thủy phủ.
Gặp Long Vương, Dã Tràng cho biết
đó là mình chỉ mới làm thử
để xem phép có hiệu nghiệm chăng.
Long Vương và triều thần nghe nói, ai nấy
đều xanh mặt. Nếu hắn làm thật
thì thế giới thủy phủ sẽ còn
gì nữa ! Vì thế, Long Vương đãi
Dã Tràng rất hậu. Ông muốn gì
có nấy. Cho đến lúc ông ra về, Long
Vương còn đem vàng bạc tống tiễn
rất nhiều để mong nể mặt.
Dã Tràng lên khỏi nước có bộ
hạ của Long Vương tiễn chân về tới
tận nhà mới trở lại. Bà con xóm giềng
thấy ông đã không việc gì mà
lại trở nên giàu có thì ai cũng lấy
làm mừng cho ông. Từ đó Dã
Tràng rất quý hai viên ngọc. Ông may một
cái túi đựng chúng và luôn
luôn đeo ở cổ.
Một hôm Dã Tràng đi bộ nửa
ngày đường đến nhà một người
bà con ăn giỗ. Lúc đến nơi Dã
Tràng sờ lên cổ giật mình mới nhớ
ra vì vội vàng quá nên ông
đã bỏ quên mất túi ngọc ở
nhà. Ông thấy không thể nào an tâm
ngồi ăn được. Mọi người đều
lấy làm ngạc nhiên thấy ông vừa
chân ướt chân ráo đến nơi
đã vội cáo từ về ngay.
Nhưng khi về đến nhà, ông tìm
mãi vẫn không thấy túi ngọc
đâu cả. Ông rụng rời cả người.
Đi tìm vợ, vợ cũng không thấy nốt.
Nóng ruột, ông lục lọi khắp nơi. Cuối
cùng ông bắt được một mảnh giấy
do vợ ông viết để lại gài ở chỗ
treo áo. Trong đó, vợ ông nói rằng
có người của Long Vương lên bảo
cho biết hễ ai bắt được túi ngọc
đưa xuống dâng Long Vương thì sẽ
được phong làm hoàng hậu. Bởi vậy
bà ta đã trộm phép ông, đưa
túi ngọc xuống thủy phủ rồi, không
nên tìm làm gì cho mệt.
Đọc xong thư vợ. Dã Tràng ngất
đi. Ông không ngờ vợ ông lại có
thể như thế được. Ông cũng
không ngờ âm mưu của Long Vương
thâm độc đến nước ấy. Nghĩ
đến hai thứ bảo vật, ông tức
điên ruột. Sau cùng, ông dự tính chở
cát lấp biển thành một con đường
đi xuống thủy phủ để lấy lại
túi ngọc vì ông còn nhớ cả
đường lối đến cung điện của
Long Vương. Mặc dầu mọi người can
ngăn, ông cũng không nghe, bèn dọn
nhà ra bờ biển làm công việc
đó. Ngày ngày ông xe cát chở
đến bờ quyết lấp cho bằng được.
Cho tận đến chết, Dã Tràng vẫn
không chịu bỏ dở công việc. Chết rồi
ông hóa thành con còng còng hay cũng gọi
là con Dã Tràng ngày ngày xe cát
để lấp biển. Tục ngữ có câu:
Dã Tràng xe cát biển
Đông.
Nhọc lòng mà chẳng nên
công cán gì.
Hay là:
Công Dã Tràng hàng
ngày xe cát,
Sóng biển dồn tan tác
còn chi.
Hay là:
Con còng còng dại lắm
không khôn.
Luống công xe cát sóng dồn
lại tan.
Người ta nói ngày nay loài ngỗng
sở dĩ không bao giờ ăn tép là
vì chúng nó nhớ ơn loài tép
đã thế mạng cho tổ tiên mình
ngày xưa. Họ còn nói loài ngỗng
có một cái mào trắng trên đầu
là dấu hiệu để tang cho Dã Tràng
để nhớ ơn cứu mạng.
(VÕ NGÔ sưu tầm và chuyển)