Viễn Thám
(Lâm Chương)
Bảy thằng Viễn Thám chúng tôi
được trực thăng vận vào vùng
hành quân. Theo kế hoạch, giữa trưa sẽ
nhảy xuống khu rừng giáp ranh đồn điền
cao su Choup, thuộc lãnh thổ Kampuchia. Nhưng mấy
thằng phi công ôn dịch cứ bay tít ở
trên cao, và lượn tới lượn lui
mãi. Chắc nó muốn ăn đạn phòng
không ? Nó không biết phía dưới
có hàng vạn quân Bắc Việt đang
giương mắt ngó lên sao ? Bay lượn
cái kiểu trêu người này, chẳng
khác nào báo cho địch biết rằng,
tao sắp thả mấy thằng Viễn Thám xuống
đây, hãy chuẩn bị bắt nó. Nhưng
làm sao nói với thằng phi công ? Lỗ tai
nó đã bịt kín lại bằng cái
máy nghe. Gió tạt mạnh và tiếng
cánh quạt phần phật làm át đi mọi
tiếng nói. Không những thế, nó còn
làm sai bét cả nguyên tắc nghi binh của
Viễn Thám. Một chiếc trực thăng đổ
quân, hai chiếc Cobra yểm trợ có trang bị
đại liên và rocket, sà xuống bắn xối
xả, ít nhất là vài ba cái trảng
trống trong rừng. Trong những lần sà xuống
ấy, chúng tôi nhảy ở một nơi
đã được chọn lựa trước,
để địch không biết chắc chúng
tôi xuống điểm nào. Đằng này,
sau khi quần cho đã, bỗng chiếc đổ
quân hạ ngay xuống điểm chính. Hai chiếc
Cobra kè hai bên, bắn qua loa vài phát. Xong,
cất đầu lên, bay về luôn.
Thằng Sử trợn mắt nhìn theo, chửi
thề: "Đù má ! Nó làm ăn
cái kiểu gì kỳ cục vậy ?"
Không ai có thì giờ ở đó
mà chửi phụ họa theo thằng Sử.
Chúng tôi lủi nhanh vào lùm rậm. Kiểm
lại quân số. Rồi tức tốc rời khu vực
vừa đổ quân, càng xa càng tốt. Chậm
trễ, địch kéo tới bao vây thì bỏ
mạng.
Vào đất Kampuchia lần này, chúng
tôi có nhiệm vụ theo dõi tình
hình và ghi nhận những nơi tập trung
quân của địch. Đây không phải lần
đầu tôi nhảy toán. Nhưng chuyến
đi này, tôi lo lắng rất nhiều, nếu
không nói rằng sợ. Theo tin phòng nhì,
Công Trường 7 và Công Trường 9 của
Bắc Việt, hiện đang có mặt trong
vùng rừng rậm Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt,
trải quân chiếm cả hai đồn điền
cao su Choup và Mimot. Mấy tháng trước, chiến
đoàn phối hợp nhị thức Bộ Binh Thiết
Giáp, vào Choup và đã bị
đánh bật ra ngoài, gây tổn thất
khá lớn về nhân mạng. Sau đó,
người ta không muốn dùng lực lượng
bộ binh để tấn công vào đồn
điền nữa, vừa tốn kém nhiều, lại
không nắm chắc được phần thắng.
Vì thế, Không Quân và Pháo Binh
được nghĩ đến. Và Viễn Thám
được điều động vào vùng,
để đưa những mục tiêu lên
"lưới".
Liên tiếp trong hai tuần lễ vừa qua,
có hai toán Viễn Thám được thả
vào đồn điền Choup. Nhưng tất cả
đều mất tích một cách khó hiểu.
Những chàng Kinh Kha thời đại, chẳng ai tiễn
qua sông mà cũng một đi không trở lại.
Toán chúng tôi là toán thứ ba. Kế
hoạch có thay đổi chút ít. Xuống ở
vùng rừng rậm, để từ đó,
mò vào Choup. Lấy hướng Đông,
xuyên qua đồn điền, về điểm hẹn
tại biên giới Việt Nam. Trên đường
đi, sẽ chấm tọa độ đóng
quân của địch, đưa lên "lưới
viễn thám" cho phi pháo oanh kích. Nhiệm
vụ đơn giản chỉ có thế, nhưng thi
hành thì tính mạng ngàn cân treo sợi
tóc.
Từ nửa tháng nay, tinh thần chúng
tôi hơi căng. Lúc những đơn vị lớn
nằm án binh bất động, là lúc bọn
Viễn Thám lao vào vùng địch. Thời
gian hạn định cho một chuyến công tác
là ba ngày hai đêm. Đã hơn mười
ngày rồi, hai toán trước vẫn biệt
tăm. Máy siêu tần số của trung tâm vẫn
trực 24/24. Không một tín hiệu gọi về.
Đứt liên lạc. Tình hình địch ra
sao, không nắm vững. Trong chiến tranh, mạng
người như những đồng bạc lẻ,
tiêu pha không tiếc. Mất mười bốn thằng
Viễn Thám, chẳng nghĩa lý gì so với
với những thiệt hại vừa qua ở Dambert,
Soul, Mimot, Choup. Thí mạng thêm bảy thằng Viễn
Thám nữa, để thăm dò tình
hình địch, không phải là một
cái giá quá đắt.
Tôi được gọi lên phòng thuyết
trình, nhận lệnh hành quân. Sáu thằng
trong toán lảng vảng bên ngoài, lo lắng.
Khi tôi bước ra, không thằng nào lên
tiếng hỏi, nhưng những cặp mắt ái ngại
nhìn tôi, chờ đợi một câu trả lời.
Tôi nói ngắn gọn: "Chuẩn bị".
Có mấy tiếng lảm nhảm chửi thề.
Đó là dấu hiệu của sự bất
mãn. Trong cái đầu của những thằng
lính trận, hình như luôn luôn có sự
bất mãn. Và miệng sẵn sàng tuôn ra
những câu chửi thề vô tội vạ. Bất
mãn, chửi thề là cái bệnh chung của
anh em. Không cần chữa trị, căn bệnh
này cũng biến mất lúc đứng trước
thượng cấp. Vì thế mà kỷ luật
được duy trì, mệnh lệnh được
thi hành một cách triệt để.
Trong lúc anh em lo kiểm lại cấp số
đạn dược, và sơn mặt ngụy trang,
tôi bảo trung sĩ Năng lên kho tiếp liệu,
lãnh khẩu phần cho cả toán.
Khi vác khẩu phần về, Năng
nói:"Kèo nài mãi, mới xin dư
được một túi mưu sinh".
Thằng Nhiêu hỏi: "Để làm
gì ?"
"Bán cho mấy thằng trực thăng. Cũng
được chầu nhậu linh đình".
"Chưa biết còn mạng trở về hay
không. Nói chi đến chuyện nhậu".
Năng sừng sộ: "Đù má ! Sắp
hành quân. Miệng ăn mắm ăn muối,
đừng nói bậy nhe".
"Mày là thằng sợ chết nhất. Mới cưới
con vợ ngon lành. Sáu tháng chưa về
phép. Đêm ngủ mộng tinh. Bỏ vợ
nhà lâu quá, hôi ê".
Anh em cười rộ.
Năng nhìn tôi:
"Xong chuyến đi này, trung úy đề nghị
cho tôi về phép ?"
Tôi trợn mắt:
"Mày giỡn ? Tình hình đang căng thẳng,
cắm trại trăm phần trăm. Ai dám cấp giấy
phép cho mày ?"
"Lúc nào cũng
nghe nói tình hình căng thẳng, và cắm
trại. Đánh giặc lâu dài, chứ
đâu phải đôi ba bữa là xong.
Không thể trấn con người ta vô rừng
mãi được. Phải liệu cách giải
quyết chứ ?"
"Mày có gan
thì lên gặp Đại Bàng Già mà
khiếu nại. Trên ổng còn có Mặt
Trăng, Mặt Trời, Bắc Đẩu …, cứ
theo hệ thống quân giai mà khiếu nại
dài dài lên Tổng Thống. May ra trường
hợp của mày được giải quyết".
"Những thằng
lính văn phòng, chẳng cần phép tắc
mà vẫn tà tà ở thành phố,
ôm đít vợ hằng đêm. Còn
mình trông cái phép gần chảy máu
mắt, không được. Bất công !".
Năng càm ràm.
Tôi nói: "Bất
công là lẽ thường. Trên cõi đời
chó má này, làm gì có sự
công bình ?"
"Nghĩ tức. Nhiều
khi muốn đào ngũ".
"Cứ đào ngũ
đi. Bọn Quân Cảnh ngồi ngáp gió,
không có việc gì làm. Nó đang chờ
mày đấy. Còn ở đây, không
có mày thì có thằng khác thế
vào"
Thượng sĩ nhất
Sử, nói: "Năng ơi, trước khi hành
quân, mày đừng lải nhải ba cái chuyện
đó nữa, được không ? Nhìn bộ
mặt nhăn như cái bánh bao của mày,
tao nản !"
Thằng Sử là
toán phó Viễn Thám. Nó ra trường
Đồng Đế năm mười chín tuổi.
Liều mạng và háu đá. Năm năm
chiến trường, chưa một lần bị
thương. Nó khoe, thầy của nó tu luyện
ở Thất Sơn, chuyên môn uống máu
dơi và ăn gan rắn hổ. Ngày vẽ
bùa trấn ma. Đêm ngậm ngải mà ngủ.
Cái nanh heo rừng, nó đeo lủng lẳng
trước ngực, thầy nó đã tươm
bùa vào rồi. Nó coi cái nanh này
là một thứ bùa hộ mạng, bom đạn
không thể xâm phạm được nó. Từ
tiểu đoàn Biệt Động Quân, nó
xin qua Viễn Thám. Mới đầu, tôi không
chịu nhận nó vào làm toán phó.
Tôi chỉ cần thằng nào dè dặt
và cẩn trọng, chứ không cần liều
mang và háu đá. Bởi nhiệm vụ của
chúng tôi là theo dõi địch tình,
và né tránh tối đa những đụng
độ. Nhưng nó nói, ông thầy yên
tâm đi, thằng Sử này cũng biết
tùy hoàn cảnh, không phải lúc nào
cũng làm ẩu đâu. Tôi nhận, và
đề nghị cho nó đi thụ huấn một
khoá Viễn Thám ở Dục Mỹ. Học xong,
nó về với tôi, đã hơn năm. Sau
những lần vào ra hang hùm, tôi thấy
nó đã biết … sợ.
Từ lúc đổ
quân cho đến chiều, chúng tôi luồn
lách trong khu rừng rậm. Phát hiện nhiều
dấu vết di chuyển của địch qua cây cỏ
bị rạp. Phần lớn rạp xuôi về hướng
đồn điền. Chiều gần chạng vạng,
chúng tôi dừng lại bên ven rừng,
giáp ranh đồn điền. Dự định
"lót ổ" qua đêm. Tôi mở
máy siêu tần số, báo về trung tâm
hành quân những gì đã nhìn thấy,
và ước đoán tình hình địch
đang dồn thêm quân về Choup.
Có tiếng của
Đại Bàng Già: "Dấu vết mới hay
cũ ?"
Tôi trả lời:
"Có mới, có cũ".
Lệnh Đại
Bàng Già: "Ngày mưa phùn. Chồn
Đầu Bạc lần theo dấu mới. Hết".
Trong đặc lệnh
truyền tin, "ngày mưa phùn" là
ngày mai. Ám danh của trưởng toán 3 Viễn
Thám là Chồn Đầu Bạc. Chẳng biết
tại sao, khi làm đặc lệnh truyền tin,
người ta lại lấy tên của con thú
đặt cho tôi ? Đã là chồn, thì
có chồn hôi, chồn mướp, chồn
đèn. Làm gì có chồn đầu bạc
?
Có lần, đang ngồi
chơi trước Bộ Chỉ Huy, trông thấy vị
sĩ quan truyền tin đi qua, tôi gọi: "Thuận
Phong Nhĩ. Sao đặt tôi là Chồn Đầu
Bạc ?"
Hắn cười:
"Chồn già".
"Trai ba mươi tuổi
còn son. Gái ba mươi tuổi đã toan về
già. Tôi ba mươi, sao gọi rằng
già?"
"Già mưu
mô, như con chồn của La Fontaine dụ con gà
trống gáy. Còn bạn, sao gọi tôi là
Thuận Phong Nhĩ ?"
"Trong Tây Du
Ký, Thuận Phong Nhĩ là thằng truyền tin của
Ngọc Hoàng, có cái lỗ tai nghe xa ngoài
ngàn dặm".
Hắn gục gật
cái đầu: "À, ra thế".
Rồi bỏ đi.
Cái tướng phục phịch như con gấu
đực, nhưng vô cùng chung thủy. Không
bao giờ hắn chơi đĩ. Hắn sợ mắc
tiêm la, rồi sang mầm bệnh cho vợ. Nhiều thằng
lén rỉ tai, hắn bị vợ khoá cu,
không cho chơi bậy.
Tôi chọn chỗ ngủ
có nhiều gai góc, và lùm bụi che khuất.
Ban đêm, nếu địch di chuyển qua
đây, cũng phải né tránh những
nơi vướng mắc khó đi. Thế là
chúng tôi được an toàn. Bóng tối
đổ xuống rừng già rất nhanh. Đêm
mù. Khí ẩm hơi sương. Thỉnh thoảng,
có những trận gió cuốn qua, rào
rào trên đọt cây. Tiếng hú của
cú mèo, như tiếng ma kêu. Tiếng "cốc
cốc" của con chim gì không biết, như
tiếng gõ nhịp song lang. Chúng tôi nằm
im, nhưng không thằng nào ngủ được.
Nghĩ đến mai đây, lần theo dấu địch
vào đồn điền cao su, ai cũng ớn
xương sống. Địch đông như kiến
cỏ. Chúng tôi chỉ bảy thằng. Nếu bị
lộ tung tích, biết chạy đàng nào ?
Thằng Năng, nằm
kế bên tôi, thì thầm: "Xong chuyến
này, thế nào trung úy cũng ráng
tìm cách cho tôi về thăm vợ vài
ngày ?"
Thì ra, thằng
Năng không ngủ vì nhớ vợ. Chẳng phải
như chúng tôi, không ngủ vì lo một
ngày mai.
Tôi nói nhỏ:
"Lúc này, cầm giấy phép về phố,
Quân Cảnh cũng nắm đầu. Tao sẽ năn
nỉ, xin Đại Bàng Già cấp sự vụ
lệnh cho mày đi công tác. Lợi dụng
chuyén đi này, mày ghé về thăm vợ".
"Trung úy hứa
thì giữ lời nhe".
"Tao giữ lời.
Còn cấp trên chịu cho hay không, là chuyện
khác".
"Tôi nghĩ, trung
úy nói là ổng thông cảm liền".
Tôi nằm xích lại
gần Năng hơn: "Tao hỏi thiệt. Đêm động
phòng, vợ mày còn nguyên không ?"
"Làm sao biết
còn hay không ?"
"Rách màng
trinh, chảy máu".
"Tối quá.
Không nhìn thấy".
"Có tỏ vẻ
đau đớn không".
"Không biết. Chỉ
nằm im như khúc gỗ. Có thể đau,
nhưng mắc cở nên cắn răng chịu đựng".
"Có
"bót" không ?"
"Bình thường".
Tôi vặn:
"Bình thường là sao ?"
Năng lí nhí:
"Hỏi khó nói quá".
"Mày như con
bò rừng. Chỉ biết hùng hục, chẳng
nhận xét gì cả".
Năng nói, nghe rất
tội nghiệp như tự nói với chính
mình: "Người ta thương mình. Chịu
làm vợ mình, đủ rồ. Mất hay
còn trinh, không quan trọng. Miễn sau này,
đừng bậy bạ với thằng nào. Trước
khi lấy người ta, mình cũng … tơi bời
hoa lá, chứ tốt lành gì, mà
đòi hỏi người ta còn nguyên xi".
Nằm một lúc
lâu, Năng khều vai tôi: "Hồi còn
bên Trinh Sát, nghe trung úy sắp cưới vợ
?"
Tôi nói:
"Xù rồi".
"Ai xù ?"
"Đàng
gái".
"Tại sao ?"
"Ông bố của
cô ta bảo, khi nào tao xin được về
văn phòng, mới chịu cho đám cưới.
Mà gia đình tao nghèo, không quen "gốc
lớn". Làm sao xin ?"
"Thương thì
lấy. Văn phòng hay tác chiến, đâu
quan trọng ?"
"Ổng sợ con ổng
sớm thành goá phụ".
Năng chửi thề:
"Đù má ! Đi tác chiến, đều
là những thằng gia đình nghèo nàn,
không thân thế. Sống hùng sống mạnh,
nhưng không sống lâu".
"Thôi, ngủ
đi Năng ơi. Khuya, mày còn lên phiên
gác".
Tôi lan man nghĩ về
cô sinh viên Sư Phạm. Tưởng mối
tình sẽ tốt đẹp, sau khi cô ra trường.
Nào ngờ, bố cô như một bóng đen
trùm xuống với một điều kiện,
mà tôi biết rằng tôi không đủ
khả năng thực hiện. Thế là cô ta
đi lấy chồng. Rồi mọi chuyện cũng
đâu vào đó. Cô vẫn bình
thường, như chưa từng trải qua một lần
thề sống chết với tôi. Khi tôi tình
nguyện qua Viễn Thám, có thằng bảo
tôi thất tình, lao vào chỗ chết.
Tôi chỉ cười. Thật ra, tôi có buồn
buồn một thời gian. Nhưng không quằn quại
đau thương bỏ ăn mất ngủ, đến
nỗi điên khùng muốn tự tử, như mấy
thằng bạn nói.
Rọ rạy một hồi,
Năng lại hỏi: "Không cưới được
vợ, có thất tình không ?"
Tôi nói có.
Năng bảo nhiều thằng vì thất tình
mà trở thành thi sĩ. Và hỏi tôi
có làm thơ thất tình không ?
Tôi trả lời bằng
cách đọc ẩu:
Em như cục cứt
trôi sông
Anh như con
chó đứng trông trên bờ
Em như cục cứt
dật dờ
Anh như con
chó trên bờ đứng trông.
Năng cười
rúc trong cổ: "Thơ thất tình gì
mà chỉ thấy chó với cứt. Con vợ
tôi nghe được bài thơ này, chắc
cười chết bỏ".
Tôi nhắc lại lần
nữa: "Thôi, ngủ đi Năng ơi. Khuya,
mày còn lên phiên gác".
Trời hừng
sáng. Đủ loại chim rừng hót rộ
trên cây. Chúng tôi nhìn nhau, thấy lạ.
Màu chàm ngụy trang trên mặt cho tiệp với
màu xanh cây lá, đã đã làm mặt
người đổi khác. Tôi trải tấm bản
đồ, chỉ cho cả toán biết điểm tập
trung trong ngày, nếu chẳng may thất lạc.
Lại dặn dò hạ
sĩ Nhiêu: "Mày đi đầu, không cần
phải theo đúng phương giác địa
bàn. Tùy theo địa thế mà đi. Phải
hết sức cẩn thận".
Theo đội hình
hàng dọc, Nhiêu là khinh binh đi đầu,
kế là tôi …, và thằng Sử
toán phó, đi sau cùng.
Đồn điền
Choup. Những cây cao su được trồng ngay
hàng thẳng lối. Thân cây già cỗi,
to đến cả người ôm. Tàn lá rợp,
che bóng mặt trời. Thời kỳ chiến tranh,
đồn điền bị bỏ hoang nhiều năm.
Gai mắc cở là đà ngang đầu gối.
Cỏ dại gần lút đầu người. Những
loài cây tạp cũng chen nhau, vươn lên
cùng với cao su. Lợi dụng địa hình
che khuất, quân Bắc Việt đã vào
đây trú ẩn.
Gần đứng
trưa. Thằng Nhiêu dừng lại, nép vào
gốc cao su, ngoắc tay gọi tôi lên.
Nó nói nhỏ:
"Lắng nghe".
Trên trời có
tiếng rì rì như tiếng của con ong bay quạ
Tôi nói: "Con
đầm già L19, bay quan sát".
Nó lắc đầu,
chỉ tay về phía trước. Có tiếng
nói văng vẳng, vọng lại từ xa. Thỉnh
thoảng có tiếng động, hình như tiếng
chặt cây.
Tôi ngó về
phía sau, làm thủ hiệu cho anh em bố trí
tại chỗ. Tôi và thằng Nhiêu len lỏi
mò lên. Không dám tới quá gần
vì sợ bị lộ, nhưng tôi cũng ghi nhận
được những dữ kiện cần thiết
để ước đoán tình hình. Khi quay
lại chỗ cũ, tôi mở máy báo về
trung tâm hành quân. Thuận Phong Nhĩ tức tốc
gọi Đại Bàng Già đến ngay đầu
máy.
Tiếng Đại
Bàng Già: "Tao đưa mục tiêu lên
"lưới". Chồn Đầu Bạc xáp lại
gần, quan sát, điều khiển "thiên
lôi" làm việc, và cho biết kết quả.
Hết".
Trời đất ! Phi
pháo dội xuống mục tiêu. Quân địch
như ổ kiến lửa, bị động sẽ bung
tràn lan ra ngoài. Đại Bàng Già bảo
xáp lại gần. Ông tưởng bọn tôi
có thể tàng hình trước con mắt
địch quân hay sao ?
Tôi bảo mấy thằng
trong toán: "Lệnh là thế. Nhưng tụi
mình phải "dọt" khỏi chỗ này
cho xa".
Chúng tôi đổi
phương giác. Né tránh mục tiêu. Chừng
mười lăm phút sau, pháo nổ ầm ầm
dữ dội. Dứt đợt pháo, phản lực
cơ bắt đầu gầm thét và thả bom
Napalm, đốt cháy một khu vực đồn
điền.
Đang di chuyển,
tôi nghe tiếng Đại Bàng Già hỏi, tốt
không, có cần điều chỉnh gì
không ?
Nhìn về phía
mục tiêu, tôi nói tốt rồi. Đâu
biết phi pháo dội có chính xác hay
không. Tôi nghĩ, dù sao cũng phải lo cho mạng
sống của bảy thằng chúng tôi trước.
Bỗng có tiếng súng AK nổ dòn, bên
hông trái đội hình. Tiếp theo, nhiều
loạt súng khác nổ ran.
Trời ơi ! Né
tránh chỗ đóng quân, lại đâm
đầu vào "chốt" tiền đồn của
địch. Tôi la lên trong máy: "Đụng
rồi". Và bấm cái nút báo động
đỏ. Máy siêu tần số trang bị đặc
biệt cho Viễn Thám, khi bấm nút đỏ,
sẽ tự động báo nguy về máy trung
tâm bằng những tiếng "cạp … cạp
… cạp …" liên tục, như tiếng vịt
kêu hoảng hốt.
Chúng tôi vừa
bắn trả, vừa tạt về bên phải. Chạy!
Tiếng súng đuổi nà theo sau lưng. Phi
pháo vẫn hoành hành ngút khói tại
mục tiêu chính.
Chạy trối chết
ra khỏi đồn điền, chúng tôi lủi
nhanh vào rừng rậm, nơi đã dặn
dò điểm tập trung. Kiểm lại quân số.
Không thấy thằng Nhiêu. Những cặp mắt
tởn thần mở lớn, chưa hết nỗi kinh
hoàng. Địch quân đang truy lùng khắp
khu vực. Tôi liên lạc về trung tâm,
báo tổn thất của ta, và ước
đoán thiệt hại của địch.
Lệnh của Đại
Bàng Già: "Tung tích đã bị lộ.
Lo dọn bãi đáp. Trực thăng bốc về".
Trong khi ẩn trốn, chờ
thằng Nhiêu, tôi mệt mỏi nằm gối
đầu trên chiếc ba lô. Đến chiều vẫn
không thấy tăm hơi. Có thể nó
đã gục ngã ngay đợt nổ súng
đầu tiên. Nếu tính cái giá hơn
thua bằng xác chết, thì mất một thằng
Nhiêu, đổi lại bao nhiêu sinh mạng địch
quân trong trận oanh kích vừa qua. Nhưng
tình cảm con người, không đơn giản
như đơn vị đo lường. Chúng
tôi buồn thảm nhìn nhau. Tự dối
lòng, biết đâu thằng Nhiêu vẫn
còn thất lạc đâu đó.
Ngày thứ ba, kể
từ khi vào đất Kampuchia. Không thể
xuyên qua đồn điền để về điểm
hẹn tại biên giới Việt Nam. Chúng
tôi đi ngược về phía rừng già,
tìm bãi bốc trực thăng. Nhưng trực
thăng không xuống được. Những con chuồn
chuồn vừa lảng vảng vào khu vực,
đã bị phòng không từ dưới
đất bắn lên. Đành phải bay về.
Địch quyết phong tỏa vùng trời, để
chận bắt cho được chúng tôi.
Liên tiếp hai ngày sau, vẫn thế.
Lương thực mang
theo đã cạn. Chúng tôi bắt đầu
mở túi mưu sinh. Túi này chỉ trang bị
đặc biệt cho Viễn Thám. Những chàng
phi công phải mang dù khi cất cánh, đề
phòng bất trắc. Còn chúng tôi
được trang bị túi mưu sinh, phòng khi
gặp khó khăn không trở về đúng
thời hạn. Trong túi chứa đủ thứ lỉnh
kỉnh. Thuốc tăng sức, dùng khi có biến
phải chạy thoát thân. Chẳng biết
đây có phải là thứ thuốc
chích cho ngựa chạy trường đua hay
không. Dẫu sao điều này cũng không thực
tế. Vì khi gấp rút chạy bán mạng,
thì giờ đâu mà mở túi mưu sinh
để lấy thuốc? Thuốc chống buồn ngủ,
dùng ban đêm, lúc cần phải tỉnh thức
canh chừng. Thuốc muỗi thoa ngoài da. Thuốc lọc
nước, có công hiệu sát trùng rất
mạnh. Sáu cái bánh mặn, theo chỉ dẫn,
mỗi ngày chỉ dùng hai cái. Những
viên thịt bò khô màu nâu, mỗi
viên làm ngọt nước một tô canh. Một
chùm lưỡi câu, lớn bé đủ loại.
Một cuộn dây cước màu xanh nhạt,
làm dây câu cá. Và sau cùng là
quyển sách nhỏ, in hình một số cây
lá trong rừng, cùng những lời giải
thích để phân biệt loại nào
có thể, và không thể ăn.
Có túi mưu
sinh, chúng tôi vẫn bị đói. Không
tìm được cây, lá, củ, trái
nào giống như trong sách chỉ dẫn.
Có lần, moi được củ khoai, như một
loại khoai mỡ, ruột màu vàng nhạt. Thằng
Năng bảo khoai nần. Muốn ăn phải xắt
lát, ngâm nước vài ngày cho ra hết
chất độc, sau đó phơi cho thật
khô, rồi mới luộc. Nhưng thằng Sử cắn
một miếng nếm thử. Nó khẳng quyết
đây là một trong những loại khoai mỡ,
và muốn lên lửa để nấu.
Tôi nói: "Muốn
chết hả ? Nếu địch quân nhìn thấy
khói, dù bọn mình có mọc cánh cũng
bay không thoát".
Sau chừng mười
phút, bàn ra tán vào về cái củ
khoai lạ, môi miệng thằng Sử bị ngứa
và sưng vều lên. Mọi người đều
hoảng. Cũng may, nó chỉ nếm thử, chứ
chưa nuốt.
Chúng tôi xuống
sức vì đói. Đêm nằm trong vùng
đất ẩm, lại bị vắt hút máu. Mặt
người phờ phạc. Tinh thần khủng hoảng.
Tôi thường xuyên kêu cứu về trung
tâm. Nhưng mỗi lần trực thăng vào
vùng lại bị phòng không. Địch biết
chúng tôi chưa ra khỏi vùng, báo động
khắp nơi. Chúng tôi lẩn vô rừng
già. Đi về hướng Bắc, nơi có lữ
đoàn Dù đang hoạt động ở Dambert.
Hy vọng đi gần về phía quân bạn, sẽ
bớt được áp lực của địch.
Tiết trời nóng
nực, mà rừng rú vẫn xanh um cây
lá. Tiếng ve buồn râm ran mùa hạ.
Như những con thú hốt hoảng, chúng
tôi sợ hãi bất cứ tiếng động
nào. Sợ nhất là những con chim "tắc
cọ". Loài chim quái ác ! Mỗi khi thấy
có người đi, nó sẽ lượn theo
mãi ở trên đầu, và la "tắc cọ
… tắc cọ …" vang cả rừng. Gặp
trường hợp này, phải dừng lại ngồi
im trong lùm, không dám động. Kêu một
hồi không thấy ai, nó sẽ chán, và
bay nơi khác. Ngược lại, cũng nhờ chim
"tắc cọ" báo động, mà
chúng tôi biết địch đang di chuyển từ
xa, để kịp thời tránh né. Lính
hành quân trong rừng, gọi loài chim này
theo cái tên nhà binh: "chim tiền
sát".
Chúng tôi lại
chạm địch lần thứ hai. Hoả lực địch
rất hùng hậu. Tôi biết ngay đây
là một đơn vị lớn, không phải
"chốt" tiền đồn. Chúng tôi thối
lui, đồng thời ném những trái mini lựu
đạn về phía sau, nhưng không cản
được bước địch. Súng nổ
rát bên mang tai. Địch đuổi theo, truy bức.
Tôi thấy thằng Năng chạy cà nhắc. Một
chân nó đã bị đạn. Tôi lướt
tới, kè thằng Năng bằng cách nắm
cánh tay của nó choàng qua vai mình,
lôi bừa.
Năng lắc đầu
tuyệt vọng: "Thôi, chạy đi".
Tôi hét:
"Ráng !"
Nó xô tôi ra:
"Không được". Và sà xuống một
gốc cây, xả súng bắn ngược về
phía sau cản địch, cho những thằng
còn lại thoát thân.
Từ hai ngày trước,
tôi yếu sức vì đói. Nhưng bây
giờ, tôi chạy rất khoẻ. Đôi chân
nhanh nhẹn lạ thường. Tuôn qua những gai
góc, phóng qua những lùm bụi dễ
dàng. Thân thể tôi dường nhẹ
tênh, lướt như bay qua những chướng ngại.
Những thằng kia cũng nhanh không kém. Nó
chạy mà không cần biết anh em có theo kịp
hay không. Nhờ thằng Năng cản địch,
chúng tôi bỏ tiếng súng xa dần.
Lúc dừng lại, tôi hấp tấp báo về
trung tâm hành quân. Tiếng nói đứt
quãng. Vừa nói vừa thở hổn hển
như sắp đứt hơi. Bây giờ, tôi mới
để ý đến tôi, và thấy mệt
như chưa bao giờ mệt đến thế.
Bom và trọng
pháo lại dội tan tành xuống mục
tiêu. Đại Bàng già quyết định,
bằng mọi cách phải mang chúng tôi về.
Trong khi địch đang bị sấm sét, lợi dụng
cơ hội này, trực thăng lao vào vùng,
thả dây cấp cứu. Năm thằng chúng
tôi ôm nhau thành một khối, treo tòn teng
phía dưới trực thăng. Gió ù ù
rát mặt. Từ trên cao nhìn xuống,
tôi thấy một vùng khói mù. Oanh tạc
cơ vẫn còn tiếp tục thả bom. Giữa
ngàn xanh mênh mông u uất dưới kia,
có thằng Nhiêu, thằng Năng vĩnh viễn nằm
lại đất Kampuchia.
Tôi xin ra khỏi Viễn
Thám từ dạo ấy. Đời lính vẫn
thường chứng kiến nhiều thương đau
mất mát của anh em đồng đội. Thế
nhưng, những đêm nằm rừng, nghe tiếng
súng xa xa, tôi lại nghĩ đến hai thằng
em trong toán của tôi, nhất là thằng
Năng. Tội nghiệp, sau cái đêm động
phòng với vợ, nó đi luôn không bao
giờ về nữa.
Lâm Chương
(Bai Chuyen)