Văn hóa cạn chén !
(Trần Văn Giang)
…Buồn như ly rượu
đầy
không có ai cùng cạn;
Buồn như ly rượu
cạn
không còn rượu để
say…
(“Buồn” - Y
vân)
Ngoài cái tên tựa mà tôi tạm
thời chọn cho bài này, “Văn hóa cạn
chén” (the ‘bottom-up’culture), còn có
muôn vàn tên từ phàm tục, bình
dân giáo dục cho đến thi vị, bi
tráng để gọi một vấn đề (hay một
tệ nạn xã hội) - uống rượu: ăn
nhậu, nâng ly, cụng ly, cạn ly, nhâm nha, lai
rai, tiến tửu, nghinh tửu…
Cạn chén là một “bộ luật bất
thành văn” duy nhất của xã hội Việt
Nam
hôm nay được áp dụng rất “nhất
trí.” Từ cấp lãnh đạo nhà
nước, cơ quan chính quyền cho đến
xí nghiệp tư nhân, tiệc tùng ăn nhậu
gần như là một nghi lễ bắt buộc khi
tiếp quan khách cấp bậc nhà nước hoặc
tiếp các đối tác thương mại… Không có ăn
nhậu được hiểu là “không phải
phép,” “không biết điều,”
“không rượu không phải lễ (vô tửu
bất thành lễ’),” “khó
chơi,” “chơi không vô…”
Lần đầu về thăm Việt Nam sau gần
30 năm, khi tiếp xúc với thân nhân, bạn
bè, người nào cũng than vãn là:
“cuộc sống quá khó khăn,”
“làm không đủ sống,” “gạo
châu củi quế …” nhưng tôi lấy
làm ngạc nhiên
khi nhìn thấy từ thành phố lớn cho
đến thôn quê, từ đường phố lớn
đông người chen chúc cho đến ngoại
ô xa xôi vắng vẻ, từ nhà hàng sang
trọng máy lạnh cho đến quán cóc
xiêu vẹo lôi thôi nhếch nhác vỉa
hè, khi chiều tối vừa lên đèn
là đã đầy nghẹt khách nhậu
!!! Tôi có
đem chuyện vô số các quán nhậu
đầy khách ra hỏi một đồng môn cũ
hiện đang làm việc cho một ngân hàng
ở Sài gòn, thì người bạn trả
lời là:
“Ông nói đúng. Mỗi buổi chiều tan sở, có ít
nhất 5 hay 6 nơi mời tôi đi nhậu. Tôi phải lựa
chọn một chỗ ngon lành và tốt nhất
để nhậu mỗi ngày. Mà nè ! Ở thời buổi
‘đổi mới’ bây giờ, nói
không quá, không nhậu không thể làm
việc được; bởi vì các vụ
làm ăn, trao đổi, ký kết, quyết
định của cơ quan chính quyền cũng
như cơ sở dân sự thương mại đều
‘xử lý’ không phải ở trong văn
phòng; mà trên
bàn nhậu !”
Trời đất ! Ở Mỹ này, Các
nhà lãnh đạo chính phủ cũng như
xí nghiệp tư họp bàn và quyết
định mọi chuyện khi đầu óc họ tỉnh
táo, thông thoáng mà còn đôi khi
còn bị sai lầm đổ vỡ; vậy mà ở
nước ta “mọi quyết định quan trọng”
đều xẩy ở trên bàn nhậu khi
các người can dự đều say khướt
nôn ọe thì đất nước này sẽ
đi về đâu ? Có lẽ
chỉ có một con đường rõ ràng
nhất có thể nhìn thấy là sẽ xuống
hố cả nút … xã
hội mỗi ngày mỗi băng hoại hôi
hám như những bãi ói mửa quanh bàn
nhậu …
Cạn chén, cạn ly, ăn
nhậu, hũ chìm, hũ nổi… đó
là chuyện bình thường ở Việt Nam
(!) Cán bộ có
nhiều tiền, nhàn rỗi không sợ mất việc
thì nhậu đã đành; Anh thợ hồ cũng
nhậu, anh xe ôm cũng nhậu; Có bằng đại
học cũng nhậu, công nhân tép riu cũng
nhậu; Người dở người giỏi đều
nhậu; Phụ huynh người lớn nhậu, các
em tuổi học sinh bắt chước nhậu, không
uống được mười phần (như bố)
thì cũng được hai ba phần là tốt
rồi; Chuyện nhậu không còn dành
riêng cho nam giới “hữu phong” mà phụ
nữ con gái cũng theo chồng, theo con, theo bạn nhậu
quắc cần câu … Trên bàn nhậu thấy
có mặt đủ mọi thành phần, mọi
giới, mọi trình độ … và nhậu với
mọi “lý do.”
Bạn bè gặp nhau (không nhất thiết
phải là lâu ngày và tại sao) là
phải nhậu…
nhậu “giao lưu,” nhậu “kết nghĩa,”
nhậu “trước lạ sau quen...” Ma chay, cưới
hỏi, giỗ chạp, lễ hội, đại hội,
hội nghị, đình đám, khởi hành,
khai trương là phải có nhậu… Cứ nhậu trước rồi tính sau. Ông Nguyễn Hiến
Lê trong tập “Hồi ký Nguyễn Hiến
Lê” đã kể chuyện một ngôi
làng ở miền bắc chỉ họp nhau
đào một cái giếng nước nho nhỏ
thôi; vậy mà từ lúc bắt đầu khởi
công đến khi hoàn thành giếng nước,
dân làng đã tổ chức nhậu liên
tiếp từng chặng một, đánh chén hết
tổng cộng 42 con heo (?)… Thiệt tình văn
hóa ăn nhậu của nước
ta đã đến mức siêu đẳng
…. Một hai ba cả
nước chúng ta cùng nhậu, cùng nhau
“liên hoan” mệt nghỉ cho tới ngày xuống
hố một lượt cho tiện sổ sách …
Chuyện đáng buồn là ở
Việt Nam,
nhậu còn được xem là một lợi thế
thăng tiến trên đường công danh (?) Nhiều
xếp lớn của cơ quan nhà nước cũng
như xí nghiệp cần tuyển người
“nhậu giỏi” để làm phụ
tá giúp mình “uống” trong các buổi
nhậu giao tiếp …, hãi thật!
Theo thống kê của Bộ Y tế
Việt Nam (?) (dân tị
nạn “phản động” ở hải ngọai
nên biết là cái “Bộ chuyên
môn” này đã có một lúc - những
năm 1980’s - nhà nước siêu việt của
ta gọi là “Bộ Các Thứ Bệnh”
cho nó “ăn theo” với "Xưởng
Đẻ" và “Nhà ỉa...” Sau đó vì bị
dân chúng cười chế nhạo quá
xá, nhà nước phải đổi tên lại
cho “hoàn chỉnh” là “Bộ Y Tế”)
mỗi năm cái quốc gia “ra ngõ
đã thấy anh hùng” tiêu thụ khoảng
350 triệu lít rượu, trong đó 90% sản
lượng là rượu nấu thủ công. Nên biết danh từ “rượu nấu thủ
công” để chỉ Rượu Trắng
(còn được gọi nhiều tên khác
nhau như: Rượu Đế - rượu trắng nấu
lậu trốn thuế được đem đi dấu
ở các bụi cỏ lau, cỏ năng, cỏ đế
khi bị “Tây đoan” (một loại cảnh
sát của thực dân Pháp chuyên đi bắt
rượu lậu) lùng bắt; Rượu Ngang -
rượu lậu phải đi tắt về ngang để
đem bán; Rưọu Quốc Lủi - bán lậu
như con cuốc trốn lủi trong bụi, trái nghĩa
cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng với
“Rượu Quốc Doanh” của nhà nước…) Cứ tạm cho là thống
kê của “Bộ Các Thứ Bệnh” (chắc
chắn phải kể cả bệnh nhậu ! và bệnh
teo não !) nhà nước ta đúng thì
trung bình dân tộc Việt Nam anh hùng
tính đổ đầu từ già cho đến
sơ sanh nốc cạn chai trên 3 lít rượu
trắng mỗi năm (?)
Úi chà chà ! Thế có chết người
không ?
Không phải chỉ nốc rượu
vào dạ dày là xong đâu. Uống
rượu thì phải có “mồi” chứ
ai mà uống rượu suông ? Chả thế mà các
tiệm nhậu, ở mọi nơi, mỗi ngày
sáng chế ra thêm nhiều món thực
đơn nhậu từ phong phú đến kinh
hãi: “đặc sản” thịt rừng (nai,
heo rừng, cá sấu …), thịt chuột,
cóc, nhái, ếch, lươn, rắn, thỏ,
đuông, cua đinh, bọ cạp… Rừng Việt Nam càng
ngày càng ít đi vì bị tàn
phá khai thác không luật lệ, không
nương tay thì lấy đâu ra “đặc
sản” “hương vị quê
hương” cung cấp cho hàng hà quán nhậu
mỗi ngày đều đặn như thế
… Ai có đủ
khả năng phân biệt thật hay giả ? Mà đã không
có ai kêu ca than phiền gì về chuyện
“đặc sản” thật hay giả thì thắc
mắc làm gì cho mất thời giờ nhậu
quí báu …
Cộng thêm các tên gọi mênh
mông tình dân và đậm đà
thói đảng như: “món ăn ba miền,”
“nước mắt quê hương,” “thịt
bò tùng xẻo,” “ngọc dương tiềm
thuốc bắc,” “cá sấu hoa cà,”
“cá kèo nướng mọi,” “sò
huyết rang me,” “gà quay lu ketchup, “dựng
bò nấu bia,” “ngầu pín xắt
lát…”
Rượu bia làm gan, dạ dầy,
tim mạch, lục phủ ngũ tạng “banh ta
lông” hết trơn hết trọi. Rượu làm thần
kinh rối loạn, tâm thần như đang treo
ngược trên cành cây - Không biết đầu
mình đang đội trời hay đầu đang
đội đất ???
Đâu có ai buồn để ý đến
hậu quả tai hại của việc
uống rượu uống bia.
Mới 30 tuổi đầu, giữa ban ngày ban mặt
đã lăn đùng ra chết vì bệnh
gan; hoặc đột ngột “tạ từ trong
đêm” vì tim ngừng đập (“cardiac
arrest”, hay là bị “thương mã phong ?” Chỉ có trời
biết). Rồi gia
đình bợm nhậu quá cố đưa tin
là bợm chết vì xui xẻo, trúng gió ? (Gió
“lào?”)
Chưa tới 50 tuổi đã đột quỵ
tai biến mạch máu não,
tàn phế vĩnh viễn. Đất nước
còn trông mong vào sức lực và trí
óc ở đâu ra để sản xuất, để
thăng tiến giầu mạnh… Men rượu
còn làm thay đổi cả cá tính con
người, làm mất đi sự đàng
hoàng, sự kính trọng. Rượu vào lời ra
làm bạn nhậu gây gổ thanh toán
chém giết lẫn nhau; Rượu gây xâm phạm
tình dục, bạo hành gia đình (say rượu
đánh vợ đánh con dã man, vợ
chém chồng …)
tan hoang cửa nhà sau khi say xỉn; Chạy xe
gây tai nạn lưu thông chết người cũng
vì say xỉn…
Những tệ nạn này các thơ phú
văn chương lãng mạn; những tập phim bộ,
phim kiếm hiệp bi tráng đâu có nhắc
đến …
Thật vậy.
Thơ nhạc lãng mạn đã tạo
nên những hình ảnh nam nhi với thần
thái hào sảng uống rượu như nước
lã; khác hẳn đời sống thực tế
của con người phàm tục say rượu,
ói mửa, phờ phạc, mệt mỏi, mất hồn
…
Đầu tiên hãy thử nghe ông thi sĩ
Vương Hàn (xì thẩu này chỉ là
quan văn), trói gà không chặt, còn
mơ ngủ ngay trong ban ngày trời sáng, của
thời thịnh Đường (thế kỷ thứ 8
sau Công Nguyên) ca ngợi sự bi tráng của
chiến sĩ uống rượu trước khi ra trận
như sau:
Bồ đào mỹ tửu dạ
quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã
thượng thôi
Túy ngọa sa
trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ
nhân hồi.
(Lương Châu Từ - Vương
Hàn)
Dịch nghĩa nôm là:
Rượu bồ đào cùng với
chén lưu ly
Muốn uống nhưng tỳ bà
đã giục lên ngựa
Say khướt nằm ở sa trường, bác chớ cười
Xưa nay chinh chiến mấy
ai trở về.
Dịch ra thành thơ
Bồ đào rượu ngát
chén lưu ly
Toan nhắp tỳ bà đã giục
đi
Say khướt sa
trường anh chớ mỉa
Xưa nay chinh chiến mấy
ai về.
(Trần Quang Trân)
Rượu bồ-đào, chén
dạ quang
Muốn say,
đàn đã rền vang giục rồi
Sa trường say
ngủ ai cười
Từ xưa chinh
chiến mấy người về đâu
(Trần Trọng
San)
“Xưa nay chinh chiến
mấy ai về.” Nhận
xét này của ông Hàn gàn bát
sách luận gần đúng không cần phải
bàn thêm. Bởi
vì đi đánh trận khác xa với đi
“shopping” hay đi dạo trong công viên. Trận mạc là chỗ
tên bay đạn lạc chiến sĩ mất mạng
dễ như không.
Nhưng cái ông Hàn trói gà
không chặt này không những đã
xúi bậy mà còn có máu khôi
hài: “Sa trường say ngủ ai cười.” Ậy ! Uống rượu say khướt
rồi vào chui phòng đắp chăn ngủ với
vợ còn có thể chết (xin đọc lại
tai nạn “âm thầm tạ từ trong
đêm!” ở bên trên). Chứ ra trận mà say
rượu thì chết là chắc chắn chăm
phần chăm. Quờ quạng
nửa tỉnh nở mê đi ngơ ngơ giữa lằn
tên mũi đạn thì không chết vì
đạn của quân địch cũng chết
vì đạn lạc của quân ta.
Bây gi nghe ông danh sĩ thứ
hai - nhà thơ Nguyễn Bá Trác - cũng lại
ca nỗi niềm bi tráng của chí sĩ tị nạn
lưu vong thất thời qua bài “Hồ Trường:”
Hồ trường,
hồ trường
Ta biết rót
về đâu?
Nào ai tỉnh…
Nào ai say…
Chí ta biết,
lòng ta hay…
Nam nhi sự nghiệp
ư hồ thỉ
Hà tất
cùng sầu đối cỏ cây…
[Hồ Trường
- Nguyễn Bá Trác dịch thoát từ một
ca khúc của Trung Hoa - tên là “Nam
Phương Ca Khúc”
- vào khoảng năm 1912 (???)]
Bài này
đã làm những người yêu thơ
rượu rất thích thú cái phong vị khảng
khái mà bi tráng của kẻ sĩ vì vận
nước phải dọc ngang trời đất
(nói nôm na là đang sống đời tị
nạn lưu vong) cho đến khi già lụ khụ,
tóc bạc răng long (hay đầu hói răng giả)
hết rồi mà vẫn thất chí; mượn
chai rượu (cognac) để than thở với người
đồng hưong …
Riêng cá nhân tôi cũng là dân
tị nạn vượt biển, vì không biết
uống rượu và cũng không phải thi sĩ
cho nên đọc và thấy bài thơ bất
hủ này có vài vấn đề:
- Thứ nhất
“Rót vào đâu ?” Rượu thì phải
rót vào chén hay vào ly hay cùng lắm
là rót thẳng vào miệng chứ không
thể rót lung tung được; hay đổ lầm vào mũi
sặc sụa chết bỏ
!
- Thứ hai,
“Nào ai tỉnh, nào ai say ?” Đã tính chuyện
đi cứu nước thì luôn luôn phải
“alert,” tỉnh táo như con sáo sậu. Chứ cứ say túy
lúy thì ngay bản thân mình còn
chưa cứu được nói gì đến
chuyện trọng đại cứu nước cứu
dân …
Bây giờ quay trở
lại vấn đề say xỉn ở trong nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa ta…. Cán bộ cao cấp nhậu
say xỉn xong ngày mai đi họp đại hội
đảng hay hội nghị tổng kết thành quả
thì chắc chắn phải được việc rồi;
chứ anh thợ bần cố nông thành trì
cách mạng say xỉn mà ngày mai phải
đi làm công việc lao động sản xuất
bằng tay chân ở nhà máy; phải sử dụng
máy tiện, máy cắt, máy cưa thì
cơ hội được nghỉ hưu non (tất
nhiên là không lãnh lương) rất cao
! Kể ra, cán bộ
giầu có dư ăn dư mặc hay dân đen
vô sản khố rách áo ôm đều say
rượu khướt đằng nào cũng tiện
cho nhà nước cả … Nếu tỉnh
táo mạnh giỏi họ lại cắc cớ nghĩ
ra việc phản tỉnh, nộp đơn xin bỏ
đảng, đòi hỏi thêm quyền này
quyền nọ, biểu tình kêu oan ăn vạ rất
phiền toái làm mắt mặt mất mũi
đảng và nhà nước trước
các con mắt của quan sát viên ngoại quốc. Mà làm cái
quái gì phải ngăn cấm việc liên
hoan, uống rượu cho mệt xác; Chỉ tổ
làm phương hại đến ý nghĩa của
châm ngôn cao cả mà đảng và
nhà nước ta đã hết lòng đề
phát: “Độc lập, Tự do Hạnh
phúc.”
Không hiểu
lãnh đạo nhà nước sáng mắt
hơn nghệ sĩ Văn Vỹ không chứ: Cái
quang cảnh đời sống của dân càng
khó khăn, dân càng nhậu mút mùa lệ
thủy không phải là dấu hiệu tốt
đánh dấu sự thăng tiến của “Kinh
tế thị trường định hướng
XHCN” đâu !
Dân phải uống rượu nhiều để
giải sầu, để cố quên đi cái thực
tế quá cay đắng mà họ không thay
đổi được !
Nước xã hội chủ nghĩa anh em vĩ
đại Liên sô trước đây cũng
có tỉ lệ dân đen nghiện rượu
(volka) cao nhất thế giới vì cùng một
lý do; không phải vì họ sống đầy
đủ, ấm no hay “tự do hạnh phúc”
đâu !
Lãnh đạo cao cấp
nhà nước đang bận tham nhũng vơ
vét; đang bận củng cố địa vị
ăn trên ngồi trốc, tất tật tận dụng
đời bố củng cố đời con, cha truyền
con nối; và quá bận tâm đến việc
ngăn chặn các cao trào của nhân dân
đòi quyền dân chủ (còn có nhiều
nhóm phản động đòi xin tí huyết
của lãnh đạo đảng…) Cán bộ cấp địa
phương một mặt thì thì bận
sách nhiễu dân chúng, một mặt chu
đáo tiếp đón các phái
đoàn từ trên xuống… Ngoài ra,
không hề thấy có một biện pháp hay
phương án nào để cảnh giác,
để làm giảm thiểu hay giáo dục tệ
nạn ăn nhậu tới bến mút chỉ
này ? Mặt khác,
các báo in, điện báo (“internet”),
phim ảnh còn thi đua nhau giới thiệu, quảng
cáo các món ăn chơi và nhậu nhẹt,
rủ rê bợm nhậu gia nhập các hội
nhóm (clubs) nhậu … Trên toàn quốc,
các nhà máy bia, nhà nấu cất rượu
“chính qui” cũng như “chui” mọc
lên như nấm.
“Cầu” nhiều thì tất nhiên phải
có “cung.” Sản
xuất không đủ thì cứ việc nhập
cảng thêm rượu bia từ nước ngoài
vào cho đủ. Uống
rượu không đủ nồng độ (vì
thường có nhiều rượu giả !) thì
cứ cho thêm thuốc rầy, cồn sống…
vào để uống cho ói ra mật xanh, cho
“tím cả chiều hoang biền biệt…” mới đã.
Tóm lại,
“Cách mạng vô sản vô địch”
và tiếp theo là “Kinh tế thị trường
định hướng XHCN” chỉ ban phát cho
dân một thứ tự do duy nhất thật quí
báu và ý nghĩa.
Đó là “tự do
ăn nhậu” (không cần biết là tiền
lấy ra từ đâu để nhậu ?)… Tương lai và hy vọng
thì mù mịt, nhưng rượu lúc
nào cũng có sẵn và đầy đủ:
Rượu đế ngâm sâm nhung, tắc kè,
bìm bịp, rắn hổ, rắn ngũ xà, rắn
cửu xà, bao tử nhím, hải mã … tha
hồ uống cho bổ dương, bổ thận, bổ
… nhào !
Tái bút:
“Đừng bao giờ
mong uống rượu để nhận chìm nỗi
buồn; bởi vì buồn biết bơi” (People
who drink to drown their sorrow should be told that sorrow knows how to swim -
Ann Landers)
Trần Văn Giang
09/04/2009
(Bai Chuyen)