Người Thiếu Phụ
Trong Mưa Phùn
Giữa Núi Rừng
Việt Bắc
(Đoàn Trọng Hiếu)
Viết để tưởng nhớ quý chiến
hữu đã gục chết trong lao tù Cộng Sản,
và cũng để tuyên dương những
người vợ lính VNCH, đặc biệt là
chị quả phụ của cố
Đại úy CSQG Trần Thiên Thọ Hải.
Cuối năm 1977, tình hữu nghị
anh em xã hội chủ nghĩa giữa Cộng Sản
Ta và Cộng Sản Tàu đã trở nên
tồi tệ.
Đài phát thanh Hà Nội, cái loa
tuyên truyền của Cộng Sản Ta đã
không còn ra rả phát đi lời tuyên bố
của tên Thủ Tướng Đồng "vẩu".
Trước kia, nào là "tình hữu nghị
Việt-Trung muôn đời bất diệt"
nào là "tình hữu nghị Việt-Trung
như răng với môi, môi hở thì răng
lạnh" .v.v..
Vì sau khi cưỡng chiếm được miền
Nam, các tên lãnh đạo Cộng Sản Ta
đã ngả theo Nga, mà quên đi cái
ơn của Cộng Sản Tàu trong những năm
chiến tranh "anh bộ đội cụ Hồ"
đã được Cộng Sản Tàu trang bị
cho từ chân lên đến đỉnh đầu,
từ đôi dép râu làm bằng lốp xe
đến cái nón cối đội trên đầu,
thậm chí là cả cái bát ăn
cơm, anh bộ đội chỉ có duy nhất
"cụ Hồ" là của chính anh. Để trừng trị thằng đàn em
cứng đầu vong ơn bội nghĩa, Tàu Cộng
liền cho tên Miên Cộng Polpốt quậy
phá ở biên giới phía Nam. Nhưng tên
Miên này không làm nên chuyện, nên
Tàu Cộng đã dàn quân dọc biên
giới phía Bắc để chuẩn bị cho Cộng
Sản Ta bài học số một, và như vậy
là răng đã cắn sứt môi. Lo sợ
khi Cộng Sản Tàu đánh xuống, anh em
tù phía Quốc Gia đang bị giam giữ tại
các tỉnh phía Bắc như Lào Cai, Yên
Bái, Nghĩa Lộ .v.v. sẽ tìm cách trốn
sang biên giới phối hợp với lực lượng
ly khai của Hoàng Văn Hoan đang được
Tàu Cộng ủng hộ, nên gần cuối
năm 1977 bọn Việt Cộng đã chuyển anh
em tù xuống dần phía Nam đến các trại
Vinh Quang hay Tân Lập thuộc tỉnh Vĩnh Phú
hoặc các trại Hà Tây hay Nam Hà (Đầm
Đùn, Ba Sao) gần Hà Nội.
Tình hình sức khỏe anh em khi còn ở
các trại do quân đội Việt Cộng quản
lý đã tồi tệ, thì nay càng tồi
tệ hơn dưới sự hà khắc dã man của
bọn Công An, mà anh em tù quen gọi là bọn
"Chó Vàng", tiêu chuẩn ăn uống
thì bị cắt xén ăn bớt. Mỗi bữa
ăn chỉ được một thìa cơm với
hai khúc sắn tươi, hoặc gần chục
lát sắn khô hay một chén sắn duôi
(loại sắn được nạo thành sợi hay
xắt thành cục phơi khô), vài muỗng
canh đại dương (nước muối với
vài cọng rau già), hoặc một vài miếng
sắn được nấu với muối cho nhừ
để làm canh. Họa hoằn, một đôi
ba tháng vào các ngày Lễ Tết thì
được một chén cơm trắng với hai
ba miếng thịt lợn to bằng đốt ngón tay, hoặc một vài miếng thịt
trâu từ một con trâu già đã
không còn kéo cày nổi hay bị chết
vì không chịu nổi cái lạnh mùa
đông. Với chế độ ăn
uống như vậy mà phải làm việc khổ
sai, dẫn đến tình trạng kiệt lực,
người nào cũng chỉ còn da bọc
xương. Mỗi buổi chiều hết giờ lao động, anh em tù cởi áo xuống
ao tắm, trông như một bầy khỉ ốm
đói.
Tình trạng bệnh tật và
không có thuốc men thật là đáng sợ,
bệnh kiết lỵ, phù thủng và thổ huyết
rất phổ biến. Đã có một số anh em chết
mà anh em tù quen gọi là "quay đầu về
núi" vì hầu hết tù nhân chết
đều được chôn trên các sườn
đồi. Xin đơn cử một vài
cái chết của vài anh mà tôi có dịp
ở chung.
Thiếu tá Hà Sỹ Phong, phó giám đốc
đài phát thanh Tự Do, anh ở cùng đội
với tôi, mấy ngày trước anh bị bệnh
nên cho nghỉ ở nhà trực phòng, sau
đó 2 ngày anh được mẹ ở miền
Bắc lên thăm. Buổi tối anh cho tôi nửa
chén cơm vắt và hai miếng thịt gà
kho mặn, anh thì thầm tâm sự:
- Năm 54 tôi di cư vào Nam chỉ có một
mình, ông bà cụ luyến tiếc tài sản
không chịu đi, bố tôi bị đi tẩy
não (tù cải tạo) trong đợt cải
cách ruộng đất và chết trong tù,
bây giờ mẹ tôi đã ngoài 70 tuổi
lại phải đi thăm con ở tù. Đây là lần đầu gặp lại
mẹ tôi sau hơn hai mươi năm xa cách.
Nói rồi hai hàng nước mắt anh lăn dài trên má. Tôi
lí nhí cám ơn anh về món quà anh
đã cho tôi. Sau gần 3 năm tù,
đây là lần đầu tiên tôi
được thưởng thức một món ăn quá sang trọng như vậy.
Tôi xé từng sớ thịt, rồi lại liếm
mấy ngón tay, tận hưởng
cái hạnh phúc to lớn ấy rồi thiếp dần
vào giấc ngủ. Sáng hôm sau
khi ra khỏi phòng để điểm danh thì
thiếu một người, tên thường trực
thi đua (một tên tù được đưa
lên phụ việc đóng mở cửa và kiểm
soát anh em) đi vào thì phát hiện anh
Phong đã mê man. Chúng
tôi vội cõng anh lên trạm xá nhưng
anh đã chết vài giờ sau đó.
Ít ngày sau lại đến anh
Trung Tá Lạc phòng 2 Bộ tư lệnh Quân
Đoàn II. Một buổi
chiều sau khi lao động về, anh
Lạc ghé sang khu tôi ở, móc trong túi ra
một cái bánh chưng đưa cho tôi
và nói:
- Hai cháu nó mới ra thăm, cả hai đều
được đi dậy học lại và là
"giáo viên tiên tiến" nên được
cho ra thăm "lăng Bác". Nó tìm lên thăm mua cho ít
quà, chú dùng cái bánh chia vui với
tôi, mấy ngày nữa các cháu sẽ lại
lên thăm tôi lần nữa.
Tôi đón cái bánh chưng to bằng
cái bánh trung thu và lí nhí cám
ơn anh rồi vội chia tay, vì sợ tụi
cán bộ trông thấy sẽ ghép tôi quan
hệ trái phép .v.v..
Quả thật những lúc
đói khát khó khăn thế này mới
thấy cái tình dành cho nhau nó to lớn
và sâu đậm.
Nhưng rồi không may cho anh, hai hôm sau anh
đã chết ngay tại hiện trường lao động không kịp gặp lại
các con.
Giữa năm 78 vì đói khát suy dinh
dưỡng, cộng thêm cơn sốt vàng da
đã khiến tôi kiệt lực, thân thể
chỉ còn trên 30kg. Tôi không
còn bước đi được nữa, mà chỉ
có thể bò được vài ba thước,
tôi được đưa xuống trạm xá nằm
trong "danh sách chờ". Tại đây
đã có anh Tư, anh là người hạm
trưởng đã sang Singapore rồi lại quay
về, anh bị bệnh phù thủng lại thêm
phần ân hận vì đã
quay về để rồi bị đi tù mút chỉ,
nên chỉ ít ngày thì anh chết. Rồi
đến Trung Tá Mai Xuân Hậu, Tỉnh
trưởng Kontum, Thiếu Tá Đặng Bình
Minh lái trực thăng cho Tổng Thống Thiệu,
Trung Tá Lý. Dường như chẳng còn ai
quan tâm đến cái chết, chả thế
mà vẫn còn nói đùa: "Đ.M.
mày qua mặt tao mà đíu bóp
còi".
Cũng thời gian này, có một bài
hát đã được anh sáng tác
tôi vẫn còn nhớ được ít
câu:
"Rồi một ngày mai không
có anh,
em không còn phải nhớ phải
mong
- Rồi một ngày mai thân
xác anh quay đầu về núi
Cô
đơn ngồi khóc một mình
Không một lần kịp
vuốt mắt anh
- Ôi mây lang
thang về phía trời xa vời,
nhìn trông theo cánh chim từng
đàn,
để mình ta với bao ngày tháng
xanh rêu,
bụi thời gian lấp kín hồn
mình,
đớn đau trong lòng mà nhớ về
nơi xa,
ôi ngày về còn dài bao
lâu
- Rồi một ngày mai anh chết
đi,
em không còn phải khóc phải
thương
- Rồi một ngày mai thân
xác anh đi vào lòng đất,
Cô đơn phủ kín đời
mình.
Không một lần kịp nói tiếng
yêu."
Nhưng rồi may mắn hơn, số tôi
chưa tới, nên căn bệnh sốt vàng da
không biết có phải nhờ ba cái lá ổi,
lá xoan hay không, mà tự nhiên biến mất.
Và may mắn thay, nhờ mảnh giấy tôi gửi
lén về qua một chị ra thăm chồng, tuy bị
tụi công an phát giác, nhưng
chị cũng đã nhớ cái địa chỉ
ở Biên Hòa, nên chị đã đi
tìm báo cho gia đình tôi biết. Nhờ
vậy, cuối năm 79 mẹ tôi và vợ con
tôi ra thăm, tên Vinh cán bộ giáo dục
của trại trước khi tôi ra gặp đã
chỉ cho tôi gặp 5 phút vì tôi
đã gửi lén thư, nhưng tên công
an dắt tôi ra đã cho tôi gặp gần một
giờ. Gặp lại mẹ và vợ con sau hơn 4
năm chỉ biết khóc. Chỉ nói được
vài câu thì đã hết giờ, tôi
đứng dậy chào từ biệt, lòng buồn
rã rượi, rồi chống gậy lom khom lết về
trại, một tên tù hình sự được
chỉ định giúp tôi đẩy cái xe cải
tiến chở đồ thăm nuôi vào trại. Nhờ chuyến ra thăm này mà tôi
dần dần hồi phục, lúc này mỗi tuần
đều có một vài anh em "quay đầu
về núi". Cái đồi sắn ở
phía đội 12 sau hơn hai năm đã
có gần 300 anh em tù chính trị được
chôn ở đó.
Gần tết năm 79 tôi chuyển sang đội
17 lâm sản, chuyên đi lấy củi để
sử dụng cho bếp trại, thời gian này do
áp lực của quốc tế, nên chúng buộc
phải cho gia đình đi thăm nuôi, nên sức
khỏe của đa số anh em đã dần dần
hồi phục. Một số anh em "con
bà phước" cũng được anh em
đùm bọc, nên cái bóng thần chết
đã bị đẩy lùi. Hàng
đêm tại các phòng, anh em lại tụ tập
quanh ngọn đèn dầu với ấm trà cặm
tăm, loại trà thật đặc được
pha hoàn toàn bằng búp trà "hai
tôm một tép" sao sấy cẩn thận, do anh
em đội trà lén mang về. Các tay văn
nghệ lại bắt đầu tổ chức ca hát
nhạc vàng hàng đêm, khiến tụi
cán bộ trại điên đầu, chúng bắt
đầu cảm thấy hoang mang vì thấy tù
càng bị nhốt lâu lại càng ung dung tự
tại, không còn hoang mang lo sợ, lại thêm
đám cán bộ nhí bắt đầu bị
anh em tù thu phục.
Chúng bắt đầu xin anh em chép và
dạy cho chúng hát nhạc vàng, có
tên còn xin đồ ăn
và thuốc hút. Những buổi lên lớp do
tên Trung tá Thùy nói chuyện đã bị
anh em phản kháng bằng cách vỗ tay và cười, đã làm cho
hắn ngượng ngùng. Chẳng hạn như
lúc hắn khoác lác về tên Phạm
Tuân đã bay Mig 21 lên, rồi tắt máy
phục kích ở trong mây, đợi B52 đến
rồi nổ máy tiêu diệt, hay làm phụ
lái cho tàu vũ trụ bay lên không gian
nghiên cứu bèo hoa dâu để nuôi lợn
.v.v. Rồi sang đến cuối năm 80 thì cũng
chính tin đồn anh em tù sẽ đi Mỹ,
phát ra từ trong đám cán bộ, dân
chúng quanh vùng quý tù miền Nam và
ghét cán bộ ra mặt. Anh em đã san xẻ
thuốc men cho dân ốm đau trong vùng, khi đi lao động ngoài Bến Ngọc. Anh
em thường gọi đây là công tác
dân sự vụ. Một buổi tối cuối
năm, sau khi đã điểm danh vào phòng,
anh em đang tụ tập đàn hát như
thường lệ, lúc kẻng báo tắt
đèn đến giờ ngủ thì tên
cán bộ trực tại trại đến cửa
phòng nói vọng vào yêu cầu Phan Thanh
đội trưởng lâm sản cử 4 người
đi "lao động đột xuất". Thanh, Diệp,
Tân và tôi mặc quần áo cho thật ấm
và cũng không quên mang theo tấm
nylon đề phòng mưa, vì mùa đông
miền Bắc thật lạnh, lại thường
có mưa phùn. Chúng tôi được lệnh
xuống chỗ đội 12 lấy cuốc xẻng
và thùng xách nước bỏ lên xe cải tiến đi về phía khu
nhà tiếp tân. Tên cán bộ đi theo đưa cho tôi cái đèn
bão leo lét. Ngang khu nhà tiếp tân thì
đã thấy một thiếu phụ trong bộ đồ
tang trắng đang đứng đợi.
Dường như đã được sắp
xếp, người thiếu phụ lặng lẽ đi theo, tên cán bộ ra lệnh cho
chúng tôi đi ra khu nghĩa địa. Đến nơi, hắn bảo chúng tôi
đi tìm mộ của Trần Thiên Thọ Hải.
Chúng tôi nhớ ra đại úy Hải chết
vào đợt những anh em đầu tiên năm
1977, như vậy là nằm ở sâu trong
cùng sát chân đồi. Sau gần 15 phút
chúng tôi đã tìm được
ngôi mộ của anh với tấm bia
chỉ nhỏ bằng tờ giấy học trò ghi lờ
mờ, còn nắm đất thì chỉ cao hơn
mặt đất chừng một tấc. Chúng
tôi được lệnh là đào để
bốc cốt cho chị mang về trong Nam. Việc
đầu tiên là tìm một ít cành
khô để đốt một đống lửa
sưởi ấm và lấy ánh sáng, chị
bắt đầu lấy ra môt bó nhang đốt
lên rồi quỳ xuống vái ba lạy. Cầm nguyên bó nhang chị thổn thức
khóc và nằm phủ phục lên ngôi mộ.
Dưới ánh lửa tôi thấy thiếu
phụ còn rất trẻ chỉ khoảng dưới
30, nét mặt xương xương.
Chúng tôi đứng lặng yên tôn
trọng nỗi đau của chị, cho đến khi
tên cán bộ yêu cầu chúng tôi
"khẩn trương" bắt tay
vào việc, vì trời đã lâm râm
mưa phùn. Chúng tôi dìu chị đứng
dậy sang bên cạnh và bắt đầu
đào. Chỉ không đầy 20 phút
chúng tôi đã đụng lớp ván
đã mục, vì khi tù nhân chết
thì chỉ được bỏ vào cái quan
tài nhỏ vừa khít người được
đóng bằng loại gỗ bạch đàn hay
bồ đề, một loại cây được trồng
để làm giấy, nên rất nhẹ xốp,
được xẻ thành từng thanh và
đóng hở như cái vạt giường,
nên thấy cả xác nằm bên trong và
đám tù hình sự khi đi chôn
thì chỉ đào sâu khoảng 4 tấc rồi
vùi lấp qua loa. Gỡ lớp ván
trên mặt, bên trong là bộ quần áo
tù đã rữa nát. Tôi
đi xách một thùng nước ở dưới
ruộng để rửa cho sạch đất, người
thiếu phụ cũng đã lấy ra một
cái thau nhựa và đổ vào đó một
ít rượu. Chúng tôi cẩn thận
nhặt từng cái xương rũ
cho bớt đất, rửa cho sạch rồi trao cho chị.
Chị cầm từng cái rửa trong
rượu, rồi bỏ vào cái bịch nylon hai
lớp. Chị đưa cho chúng tôi mỗi
người một gói thuốc Tam Đảo rồi
vừa làm chị vừa tâm sự:
- Giữa năm 79, em có xin phép ra thăm,
nhưng khi đến trại thì họ nói
là không có anh Hải ở đây,
nhưng ít tháng sau thì em được tin
anh Hải đã chết từ năm 77, do một chị
bạn ra thăm chồng về cho biết. Như vậy
là họ đã dấu nhẹm không báo
cho gia đình, mới đây một người
mách bảo cho em ra Bộ Nội Vụ ngoài
Hà Nội làm đơn xin bốc cốt, sau mấy
lần làm đơn cuối cùng họ
đã phải cho. Nhưng khi đến đây
thì họ chỉ cho làm vào ban đêm
và sau khi xong, họ không cho em ở lại
nhà tiếp qua đêm với lý do là
ô uế.
Sau gần một giờ, thấy
có thể đã không còn sót cái
xương nào, chúng tôi bảo chị để
tránh rắc rối chị không nên mặc bộ
đồ tang này.
Chúng tôi lấy bộ quần áo tang quấn
quanh cái bao nylon đựng cốt bỏ vào
cái bị cói lớn rồi lấy sợi
dây chuối khô khâu miệng lại để
không ai nhìn thấy. Trên đường về
trại, lúc đến chỗ rẽ, chị lý
nhí vừa thổn thức khóc vừa cám
ơn rồi dúi vào tay
chúng tôi mấy gói thuốc còn lại.
Nhìn người thiếu phụ tay
xách cái bị cói đựng cốt chồng,
lặng lẽ đi trong đêm, trên con đường
rừng cô quạnh, khiến chúng tôi vô
cùng thương cảm, ngậm ngùi, đứng
trông theo. Bỗng sự uất ức trào lên
rồi không nén lại được, tôi thốt
lên trong kẽ răng:
- Đ.M. Chúng mày rồi sẽ phải trả
giá cho hành động này !
Chúng tôi đi vào theo
cửa hông của cổng trại, rồi lặng lẽ
đi về phòng. Tên thường trực
thi đua đã đứng đợi sẵn để
mở cửa.
Đã quá nửa đêm,
cái lạnh đã thấm sâu vào người,
nằm co quắp dưới lớp chăn mỏng,
tôi thầm ái ngại cho số phận của
người đàn bà bất hạnh. Chị mang cốt chồng đi giữa
đêm trời giá lạnh của vùng rừng
núi Việt Bắc, như người vợ, người
mẹ Việt Nam đang mang nỗi đau, nỗi bất
hạnh của cả một dân tộc đi trong
đêm tối bão bùng ..
ĐOÀN TRỌNG HIẾU
(Bai Chuyen)