Sự tích Hoa Trinh Nữ
(ST)
Thuở ấy, nhà nọ từng có hai kiếp đàn bà,
cả hai kiếp đến lượt mình, đều chôn chân thờ chồng đi lính.
Hai người đàn ông lần lượt ra đi, nhưng người về thì chỉ một. Người chiến binh dũng cảm ấy về làng trong tiếng tiền hô hậu ủng, xênh xang trong mũ
áo vua ban và làm vẻ vang
cho dòng họ. Nhưng khi đón chồng, người đàn bà
thứ hai khóc thầm: “Cân đai,
mũ áo, bổng lộc vua ban … tất cả đều đẹp nhưng mái đầu ta và ông ấy tự lúc nào
đã ngả sang
màu sương!…”
Vậy nên, kiếp đàn bà
thứ ba vừa lọt lòng và nhoe
nhoe khóc, thì cả
bà, cả bố và mẹ cô bé chắp tay: “Lạy Phật! Lại thêm một cái tội nữa. Nhưng lần này, chúng ta
sẽ không gả nó cho bất kỳ một người lính nào
đâu nhé. Hai đời,
chúng ta đã đợi chờ đến bạc tóc, thế còn chưa đủ sao?”.
Cô bé lớn lên mơn mởn như nụ hồng. Từ nhỏ đến lớn cả nhà không cho
cô được
nói chuyện với bất cứ một người lính nào
để cô giữ lời nguyền thuở trước.
Một buổi sáng, xa xa vẳng tới tiếng trống ngũ liên.
Cô gái bước ra
vườn, đến bên bờ giậu đẫm sương. Chàng trai
nhà bên đang gấp
gáp khăn gói lên đường. Vốn
là đôi trẻ vẫn cũng nhau chơi trò “đố lá”, họ cùng nhìn nhau
rồi cùng cúi mặt, lớp lông măng
ngăm ngăm trên mép chàng trai khẽ rung. Tiếng trống thúc dồn. Chàng trai
đánh bạo:
- Thế … có chờ … không?
- Sao không hỏi xem bông tầm xuân có nở trước khi mặt trời lên không? -
Cô gái cắn
môi, nước mắt lăn tròn
trên má.
Và thế là mặt chàng trai đỏ đến tận chân tóc.
Lâng lâng như vừa được chắp cánh, chàng bấm bụng: “Ta có thể ra đi, dù
“da ngựa bọc thây”.
Cô gái trở vào, mắt ngấn nước và thẫn thờ như người ốm, trong tiếng trống ngũ liên xa xa
thúc dồn. Vậy là cả nhà biết. Họ trách lẫn nhau, rồi hai người đàn bà
ôm nhau khóc. Bà cô gái thắp ba nén hương khấn người chồng quá cố: “Ông ơi! Có lẽ cháu ông
đúng, bởi
tôi nghiệm rằng, nếu bây giờ ông sống dậy, lại ra trận, thì tôi vẫn chờ ông. Ôi!
Cái kiếp
đàn bà! …”. Mẹ
cô gái nức nở: “Chỉ tại mẹ thôi, chính mẹ đã truyền cho con dòng
máu “đợi chờ”! Con làm sao
khác được!”.
Ông bố cố gạt đi: “Thì
cũng phải
có một
đứa con gái nào
đó chờ thằng bé ấy chứ, cũng như ngày xưa, trong căn nhà
này bà chờ
tôi vậy!
Bây giờ, chỉ còn biết mong sao thằng bé ấy trở về!”.
Nhưng thằng bé không sớm trở về. Chàng tân binh
hăng hái giết giặc trong vài trận rồi ngôi sao chiếu mệnh mỉm cười với chàng ta, đấng quân vương vốn giỏi chọn người, vừa nhìn thấy chàng trai
đã nhận ra
ngay rằng đây là một tên lính hầu trung thành vô
hạn. Thế là, ngài cho
rút chàng trai về,
ngày đêm cận kề bên ngài, một bước cũng không
được rời xa. Khi còn giặc giã, vua cần chàng đưa vồng ngực vạm vỡ ra che làn đạn giặc, còn khi hết giặc, vua càng cần chàng hơn, để giữ gìn quyền uy tối hậu. Chàng là lưỡi kiếm “trừng phạt” tuyệt hảo, sẵn sàng giáng xuống đầu bất kỳ ai, theo lệnh đấng quân vương.
Đã mười bảy năm rồi, cô gái chờ người lính ấy. Từ một thiếu nữ như nụ hoa chớm hé, nàng
đã trở
thành một
cô gái quá lứa nhỡ thì. Bà
nàng, rồi cha
mẹ nàng theo nhau lần lượt trở về cõi Phật. Trước khi nhắm mắt, họ đều gọi con gái đến bên giường dặn dò: “Mai
ngày nếu
sinh con gái …”. Cô gái lặng lẽ khóc khi bà
và bố mẹ mất, lặng lẽ khóc khi người yêu của chúng bạn trở về hay tử trận và cuối cùng, lặng lẽ để tang người yêu năm xưa, vì đã mười mấy năm rồi, chàng biệt vô âm
tín.
Thế rồi một buổi chiều có tiếng vó ngựa ghé sát
bên thềm.
Bước xuống từ yên ngựa là một người đàn ông
phong trần và nhìn mọi vật từ trên xuống qua ánh mắt lạnh lẽo như thép. Ngang lưng anh ta thắt chiếc đai vàng vua
ban. Đó là phần thưởng sau khi anh ta lập được công đâm
vào lưng người bạn cũ. Người bạn này đã cả gan ngăn vua khi
ngài hạ lệnh chém một danh tướng. Ông này chỉ vì mắt kém mà
trót dâng vua một quả táo bị sâu ăn. Sau bữa tiệc ngập máu ấy, vua đã cất nhắc anh ta và cho
phép anh ta về
thăm nhà sau mười mấy năm xa cách. Mười mấy năm qua, người lính đó
vẫn không quên người yêu xưa. Giữa cuộc đời bụi bậm, giữa triều đình đầy mưu kế sâu độc, cô trinh nữ nhà lành cắn môi cố nuốt giọt nước mắt chia ly vẫn không mờ nhạt mà thật lạ kỳ, lại càng như vầng trăng xa thẳm gọi anh về.
Người con gái lỡ thì bước tới vài bước rồi sững lại. Nàng hoang mang tự hỏi, không biết đó có phải là chàng trai
hàng xóm năm xưa rụt rè mãi mới dám hỏi: “Thế … có chờ… không?”.
Nhưng khi người đàn ông ấy gọi tên nàng bằng giọng nói thân thuộc, nàng khóc,
tiếng khóc nghe như ngàn mảnh thủy tinh rơi, vì nàng phải chờ đợi quá lâu,
và người
nàng chờ nay
đã biến
thành người
đàn ông có cái nhìn lạnh lẽo như thép.
Làng xóm
đua nhau chúc mừng
nàng. Các ông
làm nghề
“gõ đầu trẻ” đem mối tình chung thủy của hai người rao giảng trong các lớp học. Thế là từ đấy có thêm nhiều cậu bé chỉ mơ về chiến trận. Mơ về một mai mình được hầu cận đấng quân vương. Còn những cô bé
thì chỉ ao ước sao mai này lớn, được chờ người yêu đến khi lỡ thì!
Không chậm trễ gì, người ta làm lễ cưới cho đôi
tình nhân chung thủy.
Vua ban áo tím cho nàng trinh nữ lỡ thì và
đám cưới trọng thể hết chỗ nói. Hoàng
hôn xuống, cạnh chén rượu bên mâm cỗ, quan khách
tròn xoe mắt
nghe chú rể kể chuyện. Mười mấy năm hầu cận vua, anh ta đã
quen tính kín miệng.
Và chỉ bốc lên khi rượu đã ngà
ngà. Nhưng
anh không biết
nói chuyện
gì khác, ngoài chuyện
chém giết.
Anh kể về những bữa tiệc đầy sơn hào hải vị ngập máu trong thời bình và say sưa mô tả các kiểu chết của nhiều người khác nhau dưới tay kiếm của anh. Cuối cùng, vì sao
vua đã ban cho anh ta chiếc
đai vàng.
Người trinh nữ nghe chuyện của chồng mới cưới và nàng
đứng không vững nữa. Lảo đảo, nàng lùi dần về buồng. Nép mình
trên giường
trong bóng tối,
nàng như ngửi thấy mùi tanh lợm của máu, và
trên mặt
nàng như
có làn môi lạnh
toát của những oan hồn lướt qua. Nàng
vùng dậy,
run lật bật, vội vàng châm lửa lên tất cả các ngọn đèn dầu lạc mà nàng
tìm được
trong buồng. Ánh
đèn chập chờn đỏ quạch càng làm
nàng thêm sợ
hãi.
Vừa lúc đó,
có tiếng kẹt cửa. Thân hình to
lớn của người chồng mới cưới chuếnh choáng tiến vào. Theo
thói quen, anh ta vẫn
mang theo thanh kiếm.
Nàng nhìn lên, và thấy anh không vào một mình. Theo liền sau anh là một người đàn bà
trong veo, tóc xoã - chỉ
có bộ
tóc là còn màu sắc - mặc quần áo đại tang, đang cầm một tấm áo đẫm máu giơ lên và cất giọng đều đều một cách kỳ lạ, lặp đi lặp lại như không bao giờ dứt:
-Hãy trả chồng cho ta! Kẻ giết bạn kia, trước khi mi bước vào giường cưới! Hãy trả cha cho năm đứa con thơ dại của ta! Hãy trả …
Vậy mà chồng nàng không
nghe thấy gì cả, anh dựng thanh kiếm vào vách, rồi xáp tới đặt tay lên ngực nàng. Ngay
lúc đó, nàng nhìn thấy máu từ tấm áo trong tay người đàn bà
xoã tóc rỏ xuống hai bàn tay người chồng mới cưới. Nàng ôm mặt rú lên kinh
hãi:
- Ôi kìa,
máu! Máu nhiều
quá! Máu đỏ cả hai bàn tay!
Chồng nàng giật mình nhìn lại. Anh vẫn không thấy gì cả, ngoài những vết sẹo ngang dọc nơi bàn tay mình.
Anh dỗ dành:
- Ồ! Can đảm lên, cô em ủy mị! Chẳng qua là vì em
quá hồi hộp đó thôi!
Đã bao ngày ta chờ
phút giây này. Nào, hãy vui lên.
Anh nói vậy, nhưng miệng không cười và mắt vẫn lạnh như thép, cũng như từ ngày về đến giờ, chưa một ai nhìn thấy anh cười. Người trinh nữ bỏ hai bàn tay che mặt. Nàng không
nhìn thấy người đàn bà
tóc xoã nữa, nhưng trên khuôn mặt đang gần xuống mặt nàng, nàng chỉ thấy khóe miệng mím chặt và cái
nhìn lạnh lẽo như cái nhìn của Thần Chết. Lại sợ hãi cuống quít, nàng
van vỉ:
-Hãy mỉm cười đi anh! Em van đấy! Hãy cười lên để em thấy anh của ngày xưa. Bao năm chờ đợi, em đâu muốn anh buồn …
Người chồng cố hết sức để mỉm cười. Đã lâu lắm rồi anh không làm
cử chỉ đó nên
bây giờ anh
không biết bắt đầu một nụ cười như thế nào. Khó nhọc lắm, anh mới nhớ ra rằng, khi cười người ta phải để lộ ít nhất là một hàm răng. Anh
nhếch môi, để lộ hẳn hai hàm răng chắc khỏe.
Nhưng anh quên rằng, khi người ta cười, chính
đôi mắt cười trước, cái miệng cười sau, thậm chí chỉ cười bằng mắt cũng đủ. Mà đôi mắt muốn cười, trước hết tâm hồn phải cười đã, cho
nên cố gắng để mỉm cười, trông anh lại thêm vẻ dữ dằn đe dọa của một con sói. Ngay lập tức, vợ anh co rúm lại và quay mặt vào trong, thổn thức cố kìm tiếng khóc.
Người chồng buồn bã soi trong tấm gương cười, ngắm kỹ mình, rồi tuyệt vọng:
- Thôi, thế là hết, cả một đời chờ đợi! Em chối từ ta, em ghê tởm ta ư?
Anh rũ xuống thành giường, rồi gầm lên như một con thú bị thương:
- Tại sao em chờ ta cả đời, để rồi chối từ ta? Tại sao em bắt ta phải cười! Còn đâu
nữa chàng trai với lớp lông măng
trên mép ngày xưa! Ta
đã trở
thành “người
đàn ông không cười”
của triều đình, từ khi bàn tay
này nhúng vào máu bạn bè, bên những bàn tiệc
đầy sơn hào hải vị. Đấng quân vương sai ta giết hết những kẻ bất tuân thượng mệnh bằng các chiếc đũa. Trong mọi chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc đều có một lưỡi dao tinh tế giấu ở trong …
Anh nức nở, đôi vai rung
lên dữ dội:
- Ôi! Bạn ta! Người bạn đã cùng
ta tựa vào lưng nhau tìm hơi ấm chống đỡ cơn gió lạnh chiến hào. Thôi, thế là hết và đây
là đêm tân hôn vĩnh biệt, phần thưởng cuối cùng cho người lính quá nửa đời phụng sự đấng quân vương.
Tiếng nức nở dữ dội của người chồng mới cưới rung chuyển cả căn phòng. Rồi xách kiếm trên tay, anh bỏ đi biệt xứ. Có người nói rằng anh đã đến tìm vua, định bắt vua phải đền tội đã biến anh thành người đàn ông
không biết cười. Nhưng vua đã kịp giết chết anh trước, bằng chính một trong những chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc. Cũng có người bảo rằng anh lại lao vào những cuộc chém giết mới không ghê tay
cho quên ngày tháng.
Chỉ còn lại nơi quê nhà người trinh nữ lỡ thì. Nàng sống âm thầm như cái bóng,
mà không một lần nghĩ đến chuyện tự giải thoát bằng cái chết. Nhưng cái tật hễ có tiếng chân hay tiếng động mạnh là đưa tay lên ôm mặt thì nàng
không sao bỏ
được.
Một hôm, người xã trưởng được mời đến để làm giấy chứng tử cho nàng. Nàng
chết mà hai tay che mặt, người khâm liệm nắn thế nào cũng
không bỏ ra.
Vài ngày
sau, trên mộ
nàng rùm roà mọc một loài cây thấp lòa xòa mang
hình tròn tim tím buồn man
mác. Mỗi khi
có chân bước qua
hay va chạm mạnh, những chiếc lá lăn tăn
lại giật mình khép lại, xuôi xuống như bàn tay ai che mặt.
Những loài hoa cỏ mọc đầy chung quanh lấy làm lạ lùng lắm về chuyện đó. Một hôm, chúng chặn chàng Gió lại:
- Này, anh
Gió! Ở
đây, không có ai già như anh và trẻ như anh. Vậy anh hãy nói
cho chúng tôi biết
vì sao loài cây mới
đến kia, tầm thường đến vậy, lòa xòa
bên vệ cỏ, khách bộ hành dễ dàng giẫm lên, có
gì đặc biệt đâu mà phải gìn giữ, hơi một tí lại lấy tay che mặt, điệu đà làm vậy?
Từng trải như chàng Gió
mà cũng không trả lời được.
Thế là một đêm thanh tĩnh,
dịu dàng, muôn hoa
cỏ đang mơ màng trong giấc ngủ êm đềm, chàng Gió lướt tới bên loài
cây tầm thường ấy, khẽ hỏi:
- Này cô
em bé bỏng!
Sao em hay che mặt thế? Ở đây có ai
chọc ghẹo em sao? Em hay e thẹn lắm à? Nếu không, tại sao người ta lại gọi em là cây
trinh nữ?
Đắn đo một chút, rồi loài cây ấy nhẹ nhàng
đáp:
- Không phải thế đâu, mặc dù chết đi, em vẫn là trinh nữ. Em che mặt vì sợ. Ngày nay người ta càng tranh
giành nhau dữ hơn, những bàn tiệc ngập máu vẫn còn nhiều. Vậy nên, mỗi va chạm, mỗi bước chân tạt qua đều làm em giật thót mình. Em
sợ người ta sẽ gửi đến cho em đôi
bàn tay đầy
máu và khuôn mặt người yêu xưa chẳng biết cười.
Cây trinh nữ chợt co mình lại vì vừa nghe tiếng chân qua.
Đó là bước
chân sóng đôi của một đôi trai
gái đang đi trong sương
mù. Trước khi
cẩn thận khép những mắt lá lại, cây trinh nữ cầu khẩn: “Ôi! Lạy Phật! Cầu cho đây
không phải
là bước
chân của những người phải tiễn nhau về nơi ấy …”.
ST
(Huon Doan sưu tầm
và chuyển)