Viết cho Tháng Tư
Đen 2010:
Những Người Lính Bị Bỏ
Quên
(Võ Trang)
Tác giả
thuộc lớp tuổi 50’, cư dân San Diego; Kỹ
sư điện cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ,
đã nhận giải danh dự Viết Về Nước
Mỹ 2009, với ba bài viết hợp thành một tự truyện
ba hồi: Ký ức đau thương về người
cha bị cộng sản chôn sống trong trận Tết
Mậu Thân tại Huế, tâm trạng một trí
thức gốc Việt vừa
biết ơn quê hương thứ hai, đồng thời
cũng "mang trong lòng một mối hận người
Mỹ đã bỏ rơi đất nước
mình". Và sau cùng là “một
thoáng hạnh phúc” tìm thấy từ
nước Mỹ sự tử tế không chỉ với
đồng loại mà với cả muôn loài.
Bài mới nhất của ông được ghi
“Viết cho tháng Tư Đen 2010”.
***
“Anh ơi anh, đi dùm em một
cuốc xe đi anh
Anh ơi anh, đi dùm em một
cuốc đi anh !...”
Tôi quay lại để
nói lời từ chối. Nhưng ngay khi nhìn thấy
khuôn mặt của người kéo xe thì
dù chỉ trong khoảnh khắc, tôi cảm nhận
ngay cái định mệnh khắt khe cho những con
người như thế này.
. . .
Thuở ấy, vào khoảng
năm 1960-1963 gia đình tôi dọn từ Tuy
Hoà về Đà-Nẵng nhưng chỉ ít
lâu sau thì đã di chuyển tiếp vào Hội
An. Là một công
chức liêm khiết sau khi giải ngũ vì thương
tích, “thẳng thắn” và “bất trị”
ba tôi bị thuyên chuyển đi rất nhiều
nơi trên miền Nam Việt-Nam. Tại Hội-An nơi khu
chúng tôi ở, chỉ trên 1 con đường
Nguyễn Thái-Học mà giờ đây đang
được biến thành khu phố cổ cho du
khách tham quan, gia đình tôi cũng đã
dọn nhà đến 3 lần. Cái thành phố nhỏ
này thật ra đã để lại cho
chúng tôi nhiều kỷ niệm, những kỷ niệm
học trò, những cơn lụt mỗi năm,
nước dâng lên đuổi chúng tôi
lên tận căn gác trên cùng …
Vốn hiểu được
chúng tôi không có khiếu buôn bán,
làm ăn, mẹ tôi thường khuyên anh em
chúng tôi nên cố gắng học hành
để sau này tự nuôi lấy thân
mình. Thuở ấy
tôi chỉ mới học lớp Nhì nhưng anh Cả
tôi thì đã học đến lớp đệ
Ngũ. Anh Cả tôi
là người được me tôi thương
yêu và nuông chiều nhất. Để khuyến khích
anh học hành, me tôi cho phép anh đem bạn
bè về học chung, thậm chí ăn ngủ
trong nhà rồi thành ra quen thân, gọi me
tôi như mẹ nuôi tinh thần…
Thuở ấy chính quyền
VNCH rất cần quân nhân để chiến đấu
nhưng vẫn mở một cánh cửa cho học
sinh tiếp tục học trình. Chúng tôi phải trải
qua rất nhiều kỳ thi trước khi vào đại
học. Kỳ thi Trung Học
Đệ Nhất Cấp là để tuyển chọn
học sinh vào lớp đệ Tam (lớp 10 bây
giờ) tại các trường Công lập (học
không tốn tiền).
Kỳ thi Tú Tài Bán Phần (Tú
Tài I) là để lọc học sinh lên lớp
đệ Nhất (Lớp 12) và kỳ thi Tú
Tài Toàn Phần (Tú Tài II) là để
lọc sinh viên vào đại học. Từ lớp đệ Nhị
(lớp 11 bây giờ) cho đến khi ra đại học,
học sinh chỉ được ở lại lớp 1 lần trong tất cả
các kỳ thi. Nếu
nhiều hơn thế thì họ phải tạm xếp
bút nghiên lên đường thi hành
quân dịch.
Sau hơn ba năm ở Hội-An,
chúng tôi dọn trở lại Huế. Nhưng chỉ ít lâu
sau thì các bạn anh tôi lại từ từ rủ
nhau tụ tập lại, học hành như
xưa. Căn nhà Từ
Đường 3 gian 2 chái của dòng họ ngoại
là nơi chúng tôi “dùi mài kinh sử”. Năm nào cũng vậy,
lớp bạn anh tôi chọn học đêm
vào mỗi mùa thi.
Thuở ấy tôi còn nhỏ nên chỉ
thỉnh thoảng ham chơi mới thức khuya với họ. Nhưng kỷ niệm những
đêm hè êm ả, trời trong và đầy
trăng sao, dưới những tàng cây vú sữa
đã mấy chục tuổi của Ngoại sẽ
mãi mãi là những huyền thoại của cả
một thời niên thiếu ….
“Học tài thi phận”,
tôi đã chứng kiến nhiều buổi chia tay
của những người con nuôi của me
tôi. Những buổi
tiệc chia tay dù bùi ngùi nhưng không
sướt mướt như “thà như mưa
gió đến ôm tượng đá
…” hay hoàn toàn tuyệt vọng như
là “…đời anh khi ra đi là coi
như đã hết, thôi, xin em đừng chờ
mong …”
Những người con tinh thần
của me tôi kể cũng lạ. Không đỗ đạt
được để thành ra “ông này
bà nọ” thì đi lính cũng phải
chọn thứ lính “chiến” - như Biệt
Kích Dù, Biệt Động Quân… Có
người chỉ vài năm sau là chúng
tôi đã cùng nhau đi đưa
đám. Trong
đám con nuôi tinh thần của me tôi có người anh tên
Nguyễn văn Thông, năm ấy (1968) là Trung
Úy tiểu đoàn 37 (39?) Biệt Động
Quân. Anh Thông
người Quảng Nam, không cao nhưng mập mạp. Tôi nhớ anh có những
ngón tay đầy đặn như những trái
chuối tiêu nhưng khi gảy đàn nghe cũng có
hồn lắm, nhất là trong những ngày cuối
trước khi nhập ngũ …
“Hành Trang Giã Từ”
tuy không phải là một tuyệt tác của
thế giới nhưng đã để lại cho
tôi những dấu ấn sâu đậm nhất
trong đời…
“… Đây gói
hành trang,
xếp lại cho trọn để
anh đi nhé!
Xin chớ u buồn,
vì trong những ngày
dài anh nhớ em luôn…”
Có ưu tư nhưng đầy
bi tráng. Trong chết
chóc, tình yêu thương vẫn ngập
tràn. Phải chăng
đây chính là nhân bản? Tôi tin những người
con nuôi của me tôi hiểu được ý
nghĩa của bi kịch “giết hoặc bị giết”
trên chiến trường.
Trong những buổi nói chuyện với họ
tôi chưa bao giờ thấy được nét hớn
hở khi giết được nhiều “quân
thù”. Không phải
chỉ vì kẻ chết cũng là người Việt
da vàng như họ mà còn vì bản chất
của chiến tranh vốn là tàn nhẫn nên
trong tận cùng vốn không có gì để
hãnh diện. Thậm
chí có người vì không chịu
được những tương tranh trong suy nghĩ,
như Trung Sĩ Ngô Hòa Kha, một người con
nuôi khác của me tôi đã tự hủy
hoại thân thể để khỏi phải thấy
thêm cảnh chém giết trên chiến trường.
Mùa xuân năm 1968, sau khi quân đội Quốc
Gia đã tái chiếm lại thành phố, hai
trong số những người con nuôi của me
tôi có theo tiểu đoàn 37 Biệt Động
Quân về đóng tại sân vận động
Huế, nhưng
đã quá muộn để có thể cứu
ba tôi đã bị đặc công nằm
vùng bắt đi và chôn sống trước
đó …
Sau tháng Tư năm 1975,
tôi ở lại và tiếp tục học
trình ở trường Y-Khoa SàiGòn nhưng
thật tình không có tâm trí nào
để xây dựng tương lại hay sự nghiệp
gì nữa. Thỉnh thoảng bạn bè ở cả
2 trường Khoa Học và Y khoa của tôi
lác đác biến mất hoặc thản
nhiên bỏ học vì trong khung cảnh đó
có ra trường cũng chưa chắc gì
đã kiếm sống
được trong khi đời sống hằng
ngày là câu hỏi thúc bách trước
mắt. Nếu được
đi du học sau khi đậu Tú Tài Toàn
là một giấc mơ thì có cơ hội
đi như “Bác” là giấc mơ vô
bờ bến của chúng tôi sau ngày miền
Nam thất thủ. Qua bức
màn sắt , chúng tôi không biết gì
nhiều về thế giới bên ngoài và
mãi đến 4 năm sau, nhờ một tổ chức
cho ứng trước một số tiền nhỏ
chúng tôi mới có cơ hội liều mạng.
Theo chương trình, sau khi xuống
đến Rạch Giá, chúng tôi sẽ ngủ
tạm một đêm tại nhà một người
quen của ban tổ chức.
Sáng hôm sau, chúng tôi phải tự
mình ra một bến đỗ ở gần
đó để
lên ghe nhỏ “về quê”. Địa điểm
này là một nút chặn trên đường
ra cửa biển của ghe lớn mà chúng
tôi phải đuổi theo cho kịp khi ghe lớn
đi ngang… Người
đưa đường chỉ đi xa xa cho chúng
tôi biết mà theo vì không muốn bại
lộ và còn phải đưa nhiều người
khác nữa. Ra khỏi
nhà người dân địa phương,
chúng tôi lầm lũi đi nhanh mong sớm đến
bến đỗ.
*
“Anh ơi anh, đi dùm em một
cuốc xe đi anh!
Anh ơi anh, đi dùm em một
cuốc đi anh!...”
Tôi quay lại để
nói lời từ chối vì nếu cứ để
cho người phu xe này năn nỉ hoài thì
bại lộ hết.
Đi chui như thế này không nên gặp
ai cả. Từ Sài
Gòn về đây chúng tôi đã khổ
sở tránh né nhiêu lần rồi… Bàng hoàng tôi nhận
ra đó là anh Thông, đen đủi trong chiếc
áo rách, quần đùi và đi chân
không. Hai “bắp
chuối” ở tay, chân rắn lại như
là dấu chứng của những năm tháng
kéo xe kiếm sống.
Ôi! Còn đâu người lính Biệt
Động Quân trong bộ quân phục rằn ri
oai hùng. Anh Thông cũng
nhận ra tôi và hình như muốn nói rất
nhiều nên cứ dục tôi lên xe để
anh kéo cho. Người
đưa đường thì cứ nhìn lại
thúc dục… đứng nói chuyện bên
đường cái như thế thật là nguy
hiểm vì dù đã cải trang thành
nông dân, bộ mặt lơ láo non chẹt của
chúng tôi ai cũng dễ hoài nghi. Tôi đành nói với
anh là tôi phải đi ngay, quên cả
đưa cho anh số tiền còn lại vì nếu
đi lọt thì số tiền Việt-Nam sẽ
không làm gì được nữa.
Chúng tôi đi không lọt
và cũng may nhờ chút tiền đó
mà trở lại được Sài Gòn. Khoảng 15 phút sau,
người anh thứ Hai của tôi lên ghe cho hay
anh cũng đã có gặp anh Thông. Can đảm hơn tôi,
anh để cho anh Thông kéo anh đi một đoạn
đường để có dịp nói chuyện.
Giờ nghĩ lại tôi cứ trách mình. Sợ hãi làm tôi
đã như vô tình, vì kể từ
ngày đó chúng tôi chưa bao giờ gặp
lại anh Thông nữa.
Tàn cuộc chiến, người
lính bị buộc phải thua trận này
không tìm về quê cũ ở Quảng Nam
mà cô đơn lưu lạc ra tận biên giới
miền Nam để kéo xe. Anh không chịu
trình diện, cũng không chịu đầu
hàng? Anh Thông
có dự tính gì hay không thì tôi
không biết. Nhưng
nếu tiếp tục ở lại, tuy anh không bị
đi học tập cải tạo nhưng vì như
thế anh không nằm trong diện “Cựu
tù nhân của cộng sản” để
được di trú sang Mỹ 10 năm sau
đó….
Lần thứ hai, 3 tháng sau,
chúng tôi được cho trở lại để
vượt biên lần nữa, đỗ bến ngay tại
chân cầu Rạch
Giá vào lúc xế chiều. Quả như suy
nghĩ, chúng tôi không thể gặp lại anh
Thông lần nữa. Lần
này chúng tôi đi lọt để bước
sang một trang mới, hoàn toàn khác hẳn của
cuộc đời.
Các trại tị nạn đóng cửa
vào khoảng năm
1995 trong khi CSVN đã nối lại ngoại giao với
Hoa Kỳ và đang tiến hành chính
sách “đổi mới” để cứu nguy
cho nền kinh tế
và chính trị đang chìm vào
đáy vực thăm thẳm… Nào ngờ
đâu 35 năm sau, khi đất nước
đã thống nhất và thanh bình - và
ngay cả khi tôi viết những dòng chữ
này thì người Việt Nam của quê
hương tôi, trong cả hai miền Nam Bắc vẫn
còn tiếp tục trốn chạy xứ sở của
mình, chấp nhận làm lao nô, ngay cả
bán thân, để sống lây lất trong rừng
hoang của xứ lạ, qua chính sách
“xóa đói giảm nghèo” của
chính nhà cầm quyền tự xưng là
chính quyền nhân dân, do dân và vì
dân của họ…
Từ những thành phần từng
bị xếp loại là cặn bã, đĩ, điếm,
phản quốc của xã hội, những người
tị nạn như chúng tôi bỗng trở
thành “khúc ruột ngàn dặm” của
nhà cầm quyền CSVN.
Cũng như tình nghĩa đối với
“người anh em Trung-Quốc”, cái tình
nghĩa “trâng tráo” đến độ
vô liêm sỉ này quả là khó nhận. Tự đồng hóa
mình với nhân dân, và xa hơn nữa, với
cả dân tộc, nhà cầm quyền CSVN và
tay sai kêu gọi người Việt tị nạn
hãy xoá bỏ hận thù, hòa hợp
hòa giải để cùng nhau xây dựng
đất nước, dĩ nhiên là vẫn dưới
quyền lãnh đạo độc tài của họ. Người dân Việt-Nam,
kể cả ba miền chưa bao giờ chia rẽ nên
không cần phải hòa hợp hòa giải
gì cả. Nếu cần
thì họ cần hiểu nhau hơn, đoàn kết
với nhau hơn để cùng đấu tranh chấm
dứt chế độ độc tài đảng trị
của CSVN. Còn đối
với nhà cầm quyền CSVN và tay sai của họ
thì người dân dù ở trong nước
hay ở hải ngoại cũng không cần hòa hợp
hòa giải với sự độc tài và
tàn ác của họ - vì bản chất của
họ vốn không bao giờ thay đổi.
Tôi tin rằng những người
con nuôi của me tôi chưa bao giờ có
ý tưởng “cao cả” giải phóng
loài người. Trong
tâm hồn có lẽ họ chỉ nghĩ
đơn giản chiến đấu là để bảo
vệ cho tiếng nói
của họ và cho quê hương họ. Nếu
những người CSVN tin rằng họ có quyền
“giải phóng” miền Nam thì tại sao
những người miền Nam không có quyền sống
với niềm tin của chính mình? Những người con
nuôi của me tôi có thể đã chiến
đấu, đã chết hay đã bị bỏ
rơi trong cô đơn nhưng họ không bao giờ
có thể bị bôi nhọ. Dù là kẻ bại
trận, những hy sinh của họ muôn đời vẫn
trong sáng - vì là con người, họ
có quyền chiến đấu để bảo vệ
cho niềm tin của chính mình.
Con đường đấu tranh
để khang phục quê hương vẫn còn
và đang tiếp diễn.
Tôi vẫn tin rằng, trong đấu tranh
chính sự hy sinh cao cả chứ không phải chiến
thắng mới làm nên ý nghĩa. Lần
này người Việt có cả thế giới
nhân bản và tiến bộ làm hậu cứ,
có đủ lịch sử để hiểu rằng
không nên trông cậy vào bất cứ thế
lực ngoại bang nào để khỏi bị lệ
thuộc hay bị bán đứng, có đủ
trí tuệ để hiểu không phải
cách mạng nào cũng cần phải ngập
máu mới thành công mà chính niềm
tin, nhân cách và tình yêu quê
hương, dân tộc mới là những nhân
tố quyết định sau cùng - vì ngay
chính như CSVN, đã từng được cả
thế giới cộng sản yểm trợ cho biết
bao chiến cụ để toàn chiếm miền Nam
Việt-Nam, thế mà sau 35 năm “xây dựng”
họ đã làm được gì hay chỉ
đưa quốc gia đến chỗ lạc hậu,
dân tộc đến nguy cơ nô lệ
phương Bắc một lần nữa ?
Đảng CSVN ngày nay quả
có nhiều công an mật vụ để
đàn áp, có nhiều tay chân, thủ hạ
bưng bợ để xin chia phần, có cả
cái “thế giới” tư bản “vì lợi nhuận sẵn
sàng bán cả cái dây thòng lọng
để treo cổ chính mình” . Nhưng cái “sức mạnh”
đó không phải là yếu tố quyết
định.
Có đêm lang thang trong một
sòng bài ở Las Vegas lúc trời đã gần
sáng, tôi chứng kiến nhiều bàn chơi
không có khách, người chia bài đứng ngáp dài mệt
mỏi… và bỗng dưng tôi chợt nhận
ra một điều thú vị mà cay đắng
rằng trong một cuộc chơi, không phải
người chủ sòng mà chính những tay
chơi mới là những người quyết định
canh bạc. Không hiểu
ông Thánh Ghandi có lần nào vào
sòng bài để để phát giác ra
chủ thuyết bất bạo động và bất
hợp tác đã giải phóng quê
hương ông khỏi cả một đế quốc
tự hào mặt trời chưa bao giờ lặn
trên lãnh thổ của họ?
Thấm thoát thế mà
thêm một 30 tháng Tư nữa lại sắp trở
về. Trong những vật
lộn với cuộc đời mới, nhiều lúc
tôi đã quên những đứa con nuôi
như anh Thông, anh Kha của me tôi. Nhưng thỉnh
thoảng, trong ngấn lệ của kỷ niệm, họ
vẫn trở về trong trí nhớ, cười
cười nói nói như thuở nào trên
xứ Huế liêu trai, vào những đêm
hè đầy trăng sao, dưới cây vú sữa…
Và còn bao nhiêu người chiến sĩ VNCH
nữa đã chiến đấu, đã chết
âm thầm để cho những người như
chúng tôi được yên thân tiếp tục
học hành, để được công
thành danh toại, vợ đẹp con ngoan? - Vì tất
cả những huy chuơng, danh dự , những bổng lộc
chỉ có giá trị thực tế cho những ai
còn sống sót - như có người
đã nói:
“Nhất tướng danh thành vạn cốt
khô!”
Võ Trang
(Bai Chuyen)