GIẤC MỘNG DÀI
(Nguyễn
Thị Thanh Dương)
Tôi
vừa về đến nhà là bố tôi hỏi
ngay:
-
Thủ tục đã xong xuôi chưa con?
-
Xong cả rồi bố ạ, bên ấy ông Mấn
chỉ đợi phỏng vấn thôi.
Ông
Mấn là chú của bố tôi, người
mà tôi phải gọi bằng ông trẻ.
Ông đang sống ở miền Bắc Việt Nam ,
và bố tôi đang làm thủ tục bảo
lãnh chú sang Mỹ theo diện du lịch.
Sau năm
1975, bố tôi phải đi “Học tập cải
tạo” ròng rã 8 năm trời. Ra tù, về
nhà bố tôi sống khép kín cho qua
ngày, vả lại, một người sĩ quan chế
độ cũ đi tù về, chẳng có cơ
hội nào để vươn lên trong xã hội
mới cả. Cho tới khi có chương trình
HO, cho những người tù cải tạo được
định cư tại Mỹ, thế là cả
nhà tôi đi Mỹ.
Cuộc sống mới
nơi xứ người đã phục hồi lại
con người thật của bố tôi, bố mẹ
đã đi làm, nuôi chúng tôi ăn học,
cuộc sống dần dần ổn định mọi bề.
Năm 2000 bố mẹ
và tôi lần đầu tiên về thăm
quê hương Việt Nam , hay nói cho đúng
hơn là về miền Bắc để tìm lại
người thân. Bố đã gặp lại
người mà bố muốn gặp, đó
là ông Mấn, vì bố đã nghe tin
ông vẫn còn
đang sống ngay tại làng quê cũ.
Ký ức tuổi
thơ của bố vẫn còn những kỷ niệm
đẹp với ông chú, thuở còn trai trẻ,
chú Mấn đã bỏ làng, đi buôn
bán phương xa, từ buôn bè trên
sông đến buôn hàng chuyến đủ loại
thượng vàng hạ cám, miễn là cuộc
đời được giang hồ tứ xứ.
Đi xa như thế, mỗi
lần trở về làng, dù lời lãi hay
không, chú Mấn đều mang quà về cho
nhà, bố tôi là cháu ruột, cũng
được nếm đủ loại quà bánh
của chú, ngon như bánh cốm, bánh xu
xê, bánh đậu xanh, bánh khảo của Hải
Dương, hay tầm thường thì có những
cục kẹo lạc, kẹo vừng hay kẹo bột ngọt
ngào mà trẻ con nào không ưa thích
!
Bố đã
nhìn ông chú bằng ánh mắt kính phục
và ngưỡng mộ, đôi chân chú khoẻ,
đi hoài mà không biết mỏi, không chịu
quay về làng quê ở hẳn như gia
đình mong muốn. Ngoài quà bánh,
chú Mấn còn có nhiều câu chuyện kể
cho lũ cháu trẻ ranh làm chúng nó
mê mẩn, bố tôi thích nhất những
câu chuyện chú Mấn đi buôn bè
trên sông, thả gỗ từ thượng nguồn
xuôi về hạ nguồn, có khi gặp nước
lũ, bè trôi, những người buôn
bè phải chống trả với phong ba bão
táp, những hình ảnh ấy hồi hộp
và ly kỳ hơn trong phim truyện. Đến nỗi
bố đã từng mơ, lớn lên sẽ
đi buôn bè, giang hồ dọc ngang như
chú Mấn.
Chú Mấn rất hào phóng, nhiều
lúc chú đã dúi tiền cho bố
tôi, bảo tao cho mày, cất đi mà
tiêu, đừng cho bố mẹ mày biết. Những
đồng tiền
ngày đó đối với bố tôi
đã lớn biết bao.
Chúng tôi đến
nhà con gái ông Mấn, họ bảo ông
đang ở căn lều ngoài nghĩa địa,
ông thích ở riêng, khỏi phiền con
cháu, mà nhà chúng nó cũng chẳng
phải là một căn nhà nên ông chẳng
chen chân vào làm gì, rồi lại mang tiếng
ở nhà con rể.
Đứa cháu ngoại
của ông dẫn chúng tôi đến căn lều,
cô hơn 20 tuổi mà trình độ, kiến
thức của cô vẫn ngô nghê như một
đứa trẻ bậc Tiểu học, làm như từ
hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ, cô chỉ
từ làng quê này đi kinh tế mới
Lào Cai, và trở lại làng, nên chẳng
biết gì hơn ngoài núi rừng và
đồng ruộng
Huyền thoại về
“chú Mấn” cũng làm tôi thích
thú và khao khát được gặp ông
bằng xương bằng thịt. Bây giờ
“chú Mấn” là một ông già 73
tuổi, ông to cao như cây cổ thụ, nước
da nâu sẫm của người nông dân cả
ngày phơi mặt ngoài đồng. Ông Mấn
dựng một túp lều nhỏ ngay tại nghĩa
địa, sống một mình, ngoài thì giờ
làm vườn, làm ruộng, ông về lều
thảnh thơi ngồi uống rượu như một
kẻ nhàn du.
Khi tôi hỏi
ông ở một mình nơi nghĩa địa
ông có sợ ma không? Thì ông Mấn coi
như đó là một câu hỏi ngớ ngẩn,
ông bảo ma sợ ông chứ ông sợ
gì nó!
Ông có một
đứa con gái, hai vợ chồng nó nghèo
xơ xác, căn nhà ọp ẹp dựng ở
ven đê, mùa mưa con đường đê
dấy lên bùn sình như bột nhão,
đặt chân xuống bùn, dở lên để
đi bước nữa thật là vất vả
và khó khăn, vợ chồng chị đã từng
đi kinh tế mới ở Lào Cai, chẳng thể sống
nổi lại kéo nhau về làng cũ với
căn bệnh sốt rét, nay ốm mai đau, tiền
bạc không có, ruộng vườn trắng tay,
đành phải ra đê mà ở là vậy.
Sau này cũng
đơn lên đơn xuống các cấp
xã, huyện, mới xin được một mẩu
đất ruộng xấu nhất cuối làng, để
cày cấy lấy hạt gạo đổ vào mồm,
tuy không đủ no nhưng có còn hơn
không. Vợ chồng chị đều ốm yếu,
con thơ nhếch nhác, nên ông Mấn
đã phải xông pha, mang hết sức lực
ra, đổ mồ hôi trên ruộng vườn
để phụ giúp con cháu suốt bao nhiêu
năm nay, ngoài ra ông còn sẵn sàng
làm thuê cuốc mướn cho những nhà
khác nữa.
Khác với
lòng mong ước và sự tưởng tượng
của tôi. Ông Mấn không hề vồ vập
hay xúc cảm với bố tôi, thằng cháu
nhỏ năm xưa ông từng âu yếm cho
quà và cho tiền, ông nhìn chúng
tôi bằng ánh mắt không thiện cảm cho
lắm, ánh mắt ấy như nói rằng, lũ
chúng tôi đã chạy theo "Mỹ Ngụy"
chẳng tốt lành hay ho gì.
Suốt câu
chuyện, ông kiêu ngạo và hãnh diện
khoe đất nước Việt Nam sau cuộc chiến
thắng vinh quang 1975, đã dần dần đổi
mới và tiến lên. Cụ thể là
ngôi làng này, con đường làng bụi
đất và gồ ghề khi xưa nay đã
được tráng nhựa, nhiều nhà gạch
xây lên và có điện thắp sáng,
có ti vi, có đài radio, dân không phải
nghe tin tức bằng cái loa ở trụ sở ấp
nữa …
Dĩ nhiên,
không phải cả làng ai cũng khá giả
như thế, bằng chứng là nhà con gái
ông và ông vẫn chưa có những thứ
ấy. Nhưng ông Mấn vẫn khẳng định
chắc như đinh đóng cột, trong tương
lai nhà nhà sẽ no ấm hơn, cuộc sống
tiện nghi đầy đủ hơn, xã hội chủ
nghĩa sẽ đi đến đỉnh cao của
thành công và quang vinh.
Ông Mấn
khoe thêm, cuộc sống bây giờ dân chủ,
ai có tiền thì cứ việc ăn ngon mặc
đẹp, không như dạo xưa, giết một
con gà để ăn cũng phải lén lút,
dấu diếm sợ hàng xóm phê bình.
Tội nghiệp ông!
Đã trải qua những năm dài đăng
đẳng đói ăn, thiếu mặc của miền
Bắc trong thời kỳ chiến tranh, đã quen với
những vùi dập của cơ chế bao cấp thị
trường, gạo, thịt, nhu yếu phẩm mua bằng
tem phiếu. Nay được hưởng một
chút tiện nghi rất sơ đẳng, rất
bình thường, đã cho là đổi mới
vĩ đại, đã hài lòng mãn nguyện.
Chúng tôi
được biết ông Mấn đã là
đảng viên, đang lãnh lương hưu
trí, số tiền hưu cho một anh bộ đội
quèn chẳng là bao, nhưng nó khẳng định
cái giá trị công lao của anh đã
đóng góp cho đảng và nhà nước.
Bố tôi và
tôi đều thất vọng về “chú Mấn”
ngày xưa, bố mẹ đã biếu ông Mấn
một số tiền và đặc biệt là một
cái áo ấm bằng da mà chính tay bố
đã mua cho ông, vì bố đã biết
mùa Đông đất Bắc mưa phùn
gió bấc lạnh thế nào!
Tuy ông Mấn có
ý chê trách chúng tôi theo “Mỹ Nguỵ”,
nhưng ông không chê những món quà của
“Mỹ Ngụỵ”, ông cẩn thận gấp
những đồng tiền đô la bỏ vào
túi và mặc thử cái áo ấm to
dày với vẻ hài lòng. Tôi liếc
nhìn quanh căn lều chông chênh, trống toang
toác của ông, bốn bề gió lộng giữa
bãi tha ma, làm sao mà không lạnh!
Về tới Mỹ,
nghĩ đi nghĩ lại, bố tôi vẫn
thương “chú Mấn”, ở cái tuổi
già bên Mỹ đã được nghỉ
ngơi, an hưởng đời sống đầy đủ
từ vật chất đến y tế thuốc men,
thì ông Mấn vẫn cơ cực làm
công việc nặng nhọc, mà đời sống
vẫn thiếu thốn mọi bề, chỉ có những
giấc mộng của ông thì đầy ắp những
ấm no, giàu đẹp. Không biết giấc mộng
sẽ kéo dài tới bao lâu ? Và ông
có còn sống để mà hưởng
không hay phải đợi đầu thai kiếp
khác?
Mỗi năm sau
đó, chúng tôi vẫn gởi tiền về
cho ông Mấn, dù bất đồng ý kiến,
nhưng chẳng ai nỡ nhìn người thân của
mình ở tuổi già gần đất xa trời
vẫn loay hoay đánh vật với cuộc sống
để kiếm cơm cháo qua ngày như thế
!
Cô cháu ngoại của
ông Mấn thỉnh thoảng viết thư cho
chúng tôi, kể về ông, năm nay ông 79
tuổi rồi, không còn khoẻ như hồi chúng
tôi về thăm nữa. Bố tôi ngậm
ngùi thương cho ông, và có ý định
làm bảo lãnh cho ông Mấn sang Mỹ
thăm thân nhân, coi như một món quà bất
ngờ cho ông. Một con người từng yêu
thích ngang dọc một thời, đây là
cơ hội ông không thể bỏ qua, dù
ông chưa tin tụi Mỹ cho lắm.
*** *** ****
Ba
tháng sau, ông Mấn của chúng tôi
đã đặt chân đến Mỹ, ông
như người từ cung trăng vừa rơi xuống
mặt đất này, cái phi trường, nơi
ông vừa ra khỏi máy bay đã làm
ông choáng váng, ông bảo nó to đẹp
cực kỳ mà ông chưa bao giờ tưởng
tượng được.
Rồi
đường xá, xe cộ … Trời ơi,
thì ra có đất nước giàu có
và tiện nghi cao cấp vượt bực đến
vậy! ông bảo có nằm mơ ông cũng
không thấy, ông đi từ ngạc nhiên
này đến ngạc nhiên khác, mỗi
ngày ông biết thêm những điều
mà ông cho là từ “vô lý”
đến “đại vô lý” không thể
tin được.
Ai
đời, một người khách lạ đến
từ nước khác, một nước theo xã
hội chủ nghĩa như ông, mà chẳng cần
phải khai báo, đăng ký tạm trú với
chính quyền địa phương gì cả, tự
do dân chủ đến độ ông không tin nổi
!
Ai
đời, người già, người tàn tật,
dù không sinh đẻ ở Mỹ, dù chưa
đi làm ngày nào trên đất Mỹ,
chỉ được thân nhân bảo lãnh sang
đây, cũng được hưởng tiền trợ
cấp và bảo hiểm sức khoẻ !
Ông
bảo nước Mỹ giàu có quá hoá
… ngu ! Chúng nó bảo lãnh nhau sang
đây, được nước chủ nhà cho
định cư là qúy rồi, thì vợ chồng,
con cái chúng nó phải nuôi nhau, lo cho nhau,
việc gì nhà nước phải đứng ra
trợ cấp ?
Đã
thế, tiền trợ cấp hàng tháng được
gởi tới tận nhà, không bao giờ trễ
nãi hay sai sót, trong khi ở làng quê ông,
có chuyện gì cần đến xã, đến
huyện thì thật là nhiêu khê, với
đầy đủ giấy tờ, chứng cớ trong
tay mà phải chầu
chực, xin xỏ, có khi vẫn không xong.
Đây
là những bài học dân chủ lần đầu
tiên ông học được trong đời .
Hai
tháng ở Mỹ, ông đã lên cân, khoẻ
mạnh hẳn ra và vui vẻ thư thái, có
lẽ vì ông được ăn uống đầy
đủ, không phải vác cuốc ra đồng
mỗi ngày, và nhất là ông đã
cảm nhận một đời sống tự do, thoải
máỉ.
Dường
như ông thấy thời gian trôi quá nhanh,
ông chưa muốn trở về làng quê,
dù đôi lúc ông cũng nhớ con nhớ
cháu, dòng máu giang hồ đang trổi dậy
trong người ông, y như ngày xưa, ông
trôi dạt đó đây, thú vui
phương xa đã níu giữ bước
chân ông.
Ông
Mấn đến Mỹ với chiếc áo ấm to
dày mà ngày xưa bố mẹ tôi
đã mang từ Mỹ về để tặng
ông, chắc đây là chiếc áo ông
quý lắm và chỉ mặc khi có chuyện
“đại sự” nên trông vẫn
còn tốt. Nhưng bố tôi vẫn bảo
ông bỏ đi và dẫn ông đi sắm
vài bộ đồ khác ở chợ Wal- Mart.
Ông
Mấn tưởng đây là cửa hàng quần
áo sang trọng bậc nhất thế giới mà
ông đã hân hạnh được vào,
dù bố tôi đã nói là cửa tiệm
bình dân, nhưng ông nào tin, cứ cho
là bố tôi khiêm nhường hay nói
đùa.
Ba
tháng du lịch của ông Mấn trôi qua, tới
ngày ông phải trở về Việt Nam .
Chúng tôi sắm cho ông hai va li đầy những
quần áo và quà cáp.
Cả
nhà ra phi trường tiễn ông, trước khi
đi vào trong cổng, ông đã nắm tay bố
tôi, ân cần, thân thiện như
“chú Mấn” ngày xưa, và rưng
rưng:
- Năm xưa cháu về
Việt Nam , chú đã tuyên truyền cho
cháu một thiên đường trong mộng,
nhưng vẫn không bằng một góc cái hiện
tại này, thực tế này, mà các
cháu đang được hưởng. Gẫm lại,
cùng một kiếp người mà đời
chú và con cháu của chú đã
gánh chịu bao nhiêu thiệt thòi. Cả thời
tuổi trẻ, chú từng đi xa, đây
là một chuyến đi xa đẹp nhất và
có ý nghĩa nhất trong cuộc đời
chú.
Rồi
ông cười nhếch mép, vừa đùa vừa
tủi thân:
- Kiếp
sau, chú vẫn sẽ là một thằng thích
giang hồ, xa xứ. Nhưng chú mong sẽ bước
tới bất cứ miền nào, vùng đất
nào có tự do, dân chủ và no ấm
như nước Mỹ này.
Máy
bay cất cánh, mang ông Mấn trở về Việt
Nam, về ngôi làng quê, nơi có con
đường tráng nhựa, có những căn
nhà gạch, có ánh điện, có ti vi,
có đài …
Nhưng
chắc chắn giấc mộng dài của ông về
một đất nước xã hội chủ nghĩa
thì không còn nữa.
Nguyễn Thị Thanh Dương
(Hong-Con
Ta sưu tầm và chuyển)