CUỐI NĂM VỀ QUÊ
(Trần Mộng Tú)
Tôi đứng
nhìn chiếc vòng đai Carousel đang quay
vòng tròn, mang hành lý ra cho hành
khách của chuyến
bay từ Taipei thả xuống phi trường Tân
Sơn Nhất. Mặc dù, tiếng Việt trên
chuyến du hành bắt đầu nghe được
nhiều nhất ở trạm chuyển tiếp Taipei,
nhưng tại đây, mới đúng hoàn
toàn bắt đầu thế giới của người
Việt Nam. Hình ảnh rõ nét nhất là
hành lý. Tôi đi xa khá nhiều lần,
đến những thành phố khác nhau, nhưng
chưa tới một phi trường nào có
hành lý thả xuống
cái vòng tròn Carousel giống như những
hành lý thả xuống Việt Nam. Những chiếc
thùng to hết cỡ giới hạn và nặng chắc
cũng đến mức cuối của sức nặng
cho phép, thường là thùng cạc-tông,
băng keo vải mầu xám, chằng ngang, chằng dọc,
tên họ Nguyễn, họ Trần, hay họ Lê, viết
bằng bút nỉ đen cả bốn mặt
thùng. Tôi biết trong đó là: quần
áo, kẹo, bánh, phấn son, thuốc gội đầu,
thuốc bổ, thuốc bệnh, sữa bột, v.v,
và tất cả tình thương của người
gói, người gửi, ép vào trong
thùng. Tôi nhớ lại cảnh đi mua thêm,
đi thu xếp những thứ tích trữ từ
lâu, gói ghém, cân đo nặng, nhẹ, cho
vào thùng. Thỉnh thoảng lại có người
bạn đến gửi một gói nhỏ cho
thêm vào đó. Cái thùng cứ mỗi
ngày một to thêm, và phải lấy bớt
ra, cân đi, cân lại, cho chính xác. Nếu
người ta có thể gói một bát
mây, một ly nước mưa, hay một chén
không khí của vùng trời Âu Mỹ về
cho thân nhân quê nhà, chắc người ta
sẽ chẳng đắn đo gì. Tôi cũng
đang đứng chờ lấy ra, một trong những
chiếc thùng đó.
Những chiếc thùng bị
xây xát, có khi bị rách góc, méo
mó đến tội nghiệp, trông giống như người lính trở
về từ mặt trận, nhầu nhĩ tang
thương ! Tôi bỗng thấy giữa những chiếc
thùng này với chiến tranh đã đi qua
hình như có một gạch nối rất mơ
hồ.
Sau khi khám xét, hỏi
han, mang nhiều, mang ít, chiếc thùng được
chở ra phía ngoài. Thân nhân đang chờ
đón với bao nỗi hân hoan, được
người, được của. Chiếc thùng mang
về một địa chỉ nào đó,
được mở tung ra, giữa những tiếng
cười vui, cặp mắt sáng rỡ. Anh được
ra đi trong chương trình H.O. trở về
thăm nhà, anh nhìn thân nhân mở
thùng quà, khác chi nhìn xuống chính
thân phận mình đang được mở ra.
Anh khác thùng quà ở chỗ, cái xây
xát anh gói ở bên trong và cái ngọt
ngào, tốt đẹp anh sơn phết bên
ngoài. Anh tha hồ muốn bỏ bao nhiêu buồn tủi,
hạnh phúc, tình thương vào thùng
quà, không cần cân đo nặng, nhẹ. Anh
gói tất cả vào bên trong, miễn sao
cái thùng thân thể anh, những cái
băng vải không xây xát để anh
được nhìn như một tặng phẩm
tương đối tươm tất là anh vui rồi.
Không biết
đến bao giờ, người trở về mới hết
mang theo những chiếc thùng “dâu bể”
như thế nữa.
Tôi được
một độc giả chưa gặp mặt bao giờ,
chị đến từ email và chở tôi
trên chiếc Honda của chị nguyên một
ngày. Chị mang đến cho tôi một chiếc
mũ an toàn còn mới tinh, chị mới mua cho
khách phương xa, và một bao có hai
cái khẩu trang bằng giấy mỏng (loại
đeo một lần, vứt đi), chị mở ra, đội
nón, đeo cái khẩu trang che miệng, che mũi
cho tôi. Chị nói, đi xe ôm cho biết, cứ
nhắm mắt lại. Nhưng tôi mở mắt,
và tôi thỉnh thoảng la lên một tiếng,
làm chị giật mình. Trước tiên chị
cho ăn phở, ngay tại đầu ngõ, chỗ
nhà cháu tôi. Đây là tiệm phở
bán cho du khách và người khá giả,
giá đến $37,000 đồng một tô nhỏ,
tiệm bình dân giá $10,000 đồng đến
$20,000 đồng. Tiệm phở tên HÙNG, chủ
nhân từ Oregon bên Mỹ về kinh doanh. Người
giầu lại giầu thêm. Tôi chưa kịp
đổi tiền, chị phải đãi tôi xuất
ăn sáng, hơi cao với giá chị vẫn
thường trả. Phở khá sạch sẽ và
ngon, khách ra vào tấp nập. Đĩa rau sống
xanh mướt với ngò gai, húng rũi,
húng quế hào sảng để giữa
bàn, như vừa được hái ở vườn
vào, đĩa ớt cay hai mầu cam nhạt và
đỏ, thái mỏng, để bên cạnh những
miếng chanh cốm, cắt đôi trông vừa nồng
nàn, vừa thiết tha mời mọc ! Tất cả
như muốn nói đến cái khác biệt
của phở Mỹ, phở Việt rất rõ rệt.
Đặc biệt tiệm phở này, từ nhân
viên múc phở, nhúng bánh, đến chạy
bàn, đều rất trẻ. Cô cậu nào cũng
từ 18 đến 25 tuổi là cao nhất.
Sau ăn sáng,
địa điểm đầu tiên tôi nhờ chị
đưa đi mua sách, chị biết tiệm
sách có giảm giá 30%. Loay hoay hơn một
tiếng trong hiệu sách, tôi mua được
hơn mười cuốn, phần đông là
sách dịch từ văn bản Trung Hoa. Mua hai cuốn
Căn Phòng Riêng (A room of One’s Own) của
Virginia Woolf do nhà văn hải ngoại Trịnh Y
Thư dịch, nxb Tri Thức VN in, sẽ mang về
làm quà cho hai người bạn văn: Thơ
Thơ và Nguyễn Tường Thiết.
Chúng tôi
ngưng xe lại ở giữa đường để
uống nước dừa cho qua cơn khát. Cái
xe bán nước nhỏ của chị hàng nước,
dựng ở một gốc cây me già, sát lề
đường. Khói xe, bụi đất cứ việc
bay bám đầy chị. Chị có nón
lá, khẩu trang che chở được phần
nào hay phần đó. Cái bàn nhỏ, hai
cái ghế nhựa nhỏ, đang có hai người
đàn ông ngồi, một người uống
trà, người kia uống bia. Nắng trên trời
như đàn bướm trắng sà xuống
đậu trên hai khuôn mặt màu bánh mật.
Chị bạn mới của tôi trả giá, chọn
dừa, chê cùi dừa già, cùi dừa non
mãi; còn tôi nao nức hỏi chuyện
bán mua của chị hàng nước. Chị cho
biết những trái dừa khách uống xong, chị
bán lại cho những người làm mứt, họ
lựa những quả có cùi già về cậy
ra, sên đường bán cho hàng tết.
Cùi dừa mua hôm nay, có thể hai ba hôm
sau mới bắt đầu làm (cần thu gom đủ
số dừa) nên chắc chắn dừa sẽ bị
mốc và ôi. Người làm mứt sẽ
ngâm thuốc tẩy cho sạch, trước khi sên
đường, rồi cho mầu xanh, đỏ. Ba
ngày tết bán món gì mà không
được. Ai cũng cần có một chút ngọt
ngào trong nhà cho ngọt quanh năm. Người Việt
ở quê nhà, bao tử, ruột già chắc
đã quen với độc tố và hóa chất,
nên số bị ngộ độc không làm hốt
hoảng số chưa bị.
Những người
dân quê ở xứ dừa Bến Tre, chắc cũng
buồn lòng vì những trái dừa
tươi ngon của họ bị dân thành phố
làm cho mang tiếng một cách oan ức. Phải
chăng những cô gái Bến Tre nổi tiếng
với làn da trắng như cơm dừa, cũng
đang bị điêu đứng vì chính
cái nhan sắc mình có hay không ?
Dù không
nóng khủng khiếp như tháng bảy,
tháng tám, thời tiết Sài Gòn vào
gần tết được cho là mát, cũng
đủ làm người đến từ xứ của
gió, mưa Seattle bị đổ mồ hôi nhớp
nháp.
Sáng sớm
ngày thứ hai ở Sài Gòn, Frank rủ đi
bộ . Ngày hôm qua anh đã tìm đường
trong thành phố một mình rồi. Áo vải
mỏng dài tay, quần ngắn, giầy vải,
kính râm, nón vải, chúng tôi bắt
đầu hòa mình vào Sài Gòn buổi
sáng.
Từ nhà
người cháu, ở đường Nguyễn
Trãi, Frank hướng dẫn tôi ra công
viên có tên là: “Công Viên 23
tháng 9”, anh nói, ngày đó là
ngày kỷ niệm “Chiến thắng Điện
Biên Phủ”, sau hỏi lại, mới biết
ngày đó là ngày Nam Bộ Kháng Chiến
(23 tháng 9 năm 1945).
Tôi đi theo
Frank, mỗi lần phải băng qua đường,
tôi nắm chặt tay anh, đi băng qua đầu những
chiếc xe lớn nhỏ (nhiều nhất là xe gắn
máy) tôi cứ nhắm mắt đi theo, không
dám nhìn, vì nếu nhìn sẽ thấy tất
cả xe cộ đang cùng một lúc, tông
vào mình.
Trước khi
đến công viên, chúng tôi ghé
nhà thờ Huyện Sĩ, viếng Chúa. Trong
khuôn viên nhà thờ, núi Đức Mẹ
Lộ Đức, tượng Thánh Giuse và tượng
thánh tử đạo Gấm, đứng chung
cùng với khoảng hơn mười chiếc xe
hơi Nhật, Mỹ và rất nhiều xe gắn
máy xếp hàng như một bãi đậu.
Tôi không biết vì sân nhà thờ rộng,
nên cho thuê làm chỗ đậu xe để
kiếm lợi tức hay nhà thờ bắt buộc phải
nhường một phần đất cho thành phố
xử dụng. Tôi vào quỳ trong nhà thờ,
cầu xin cùng Thiên Chúa, cho đất nước
mình, một ngày một tốt đẹp hơn,
cho dân mình ai cũng được no cơm, ấm
áo.
Công viên
khá lớn, được thành lập từ sau
1975, trên nền của nhà ga xe lửa bị
phá đi, và rời về quận Ba. (Ga xe lửa
này xây từ thế kỷ 19). Chiều dài
công viên kéo suốt chiều dọc của
đường Phạm Ngũ Lão, chiều ngang
là khoảng cách ở giữa của hai con
đường song song Lê Lai và Phạm Ngũ
Lão. Công viên trải dài từ Công
Trường Quách Thị Trang (chợ Bến
Thành) đến chợ Thái Bình, đường
Nguyễn Trãi thì ngừng. (Chắc gặp phải
bài Bình Ngô Đại Cáo của cụ
Nguyễn Trãi.)
Sáng thứ bẩy
nên công viên không đông, Frank nói,
ngày hôm qua đông hơn, tuy nhiên cũng vẫn
có người đến tập thể dục ở
những dụng cụ được đặt chung quanh
vòng ngoài của công viên. Tôi còn
thấy, ở phía trong công viên, một
nhóm người đang tập khiêu vũ theo
âm nhạc trên một nền gạch được
xây cao hơn và có mái. (Tôi nhớ, mấy
năm trước, khi sang Hồng Kông, tôi thấy
rất nhiều công viên có chỗ dậy
khiêu vũ giống thế này). Những hàng
cây trong công viên, thân thẳng với những
tán lá khá dầy, đang nghiêng xuống
nhìn hai người lạ mới tới. Hòa trong
tiếng nhạc dập dình, tiếng bước
chân của chúng tôi trở nên e ngại, rụt
rè.
Chúng tôi
đi hết chiều dài của công viên,
băng qua mấy ngã tư nữa, đến trạm
xe bus ở bên hông chợ Bến Thành.
Khói xe tuy không nhìn thấy, nhưng hình
như bám vào tóc và quần áo rất
nhanh, giơ cánh tay áo lên ngửi thấy
mùi khen khét; tiếng máy xe nổ liên hồi,
làm rung cả một vùng không gian. Khói xe
và tiếng còi xe là hai thứ làm
nên buổi sáng Sài Gòn. Frank dắt
tôi lấy xe bus số 11 trở lại đường
Nguyễn Trãi.
Sài Gòn bây giờ
cao ốc mọc nhanh hơn nấm, nếu gọi những
ngôi nhà bề ngang bốn thước, bề
dài sáu thước, sáu, bẩy từng lầu
là cao ốc, thì chỗ nào cũng thấy một
cao ốc đang xây chen vào giữa những cửa
hàng đã mở. Khách sạn, thì giữa
trung tâm thành phố coi như đường
nào cũng có một, hai cái. Du khách da trắng
không nhiều lắm (chắc không phải dịp
hè) nhưng Việt Kiều khá nhiều, phần
đông là người lớn tuổi vế
ăn tết. Cứ thấy cách họ đi đứng,
ăn mặc sẽ nhận ra ngay. Một số ít, quần
áo vải, giầy vải, một tay cầm chai nước
khư khư, một tay ôm cái túi vải
sát vào ngực, một số nhiều hơn diện
quá so với với những người chung quanh.
Sài Gòn với
những cô gái mặc áo dài, tiếp
tân trong những khác sạn, hay những nhà
hàng đắt tiền; Sài Gòn với
áo bà ba, nón lá của những người
tất tả ngược xuôi hàng gánh,
hàng bưng trên khắp mọi ngả đường;
Sài Gòn với những nón sắt, khẩu
trang, váy ngắn, chân dài thì ít,
váy dài chân ngắn nhiều hơn; Sài
Gòn với những ngôi chùa xây mãi
không xong, (còn đợi đóng góp
nước ngoài tiếp tục gửi về) với
những nhà thờ đồ sộ được
xây trong những xóm đạo ngỡ không thể
nào cáng đáng nổi (cũng tiền của
tín hữu nước ngoài); Sài Gòn với
những cửa hàng bán những sản phẩm
nhập cảng, không biết bán cho ai ? Vì du
khách nước ngoài, những người
có tiền, không ai đến Viết Nam để
mua những cái ví xách tay mấy mười
mấy ngàn mỹ kim; Sài Gòn các cửa
tiệm ở trung tâm thành phố, các
ngôi nhà to, đẹp trên những con phố
đắt tiền hoàn toàn do những người
nói giọng “Hà Nội mới” làm
chủ; Sài Gòn với những cụ già
xác xơ, ốm yếu, chạy theo du khách
bán vé số ngoài đường; với những
em bé, quắt queo,đen đủi không kịp lớn
theo tuổi, ngay trong giờ đáng nhẽ phải ở
trường học, lại lang thang bán áo thun,
bán nón vải, hoặc ăn xin.
Và cũng chỉ
có Sài Gòn ra đường buổi
sáng, mới gặp được người cha chở
cả một gia đình trên chiếc xe gắn
máy: Cậu bé lên ba, quàng chiếc
túi nhỏ ngồi trên cùng, người cha cầm
tay lái, cô bé lên bẩy mặc đồng
phục học sinh ngồi ép sát vào cha,
và cuối cùng là người mẹ. Bà
ngồi hai chân quặp hai bên hông và trong lòng
bà hình như có một cái bọc nhỏ,
nhìn kỹ khi xe bị chậm lại để quẹo
một khúc quành, không phải cái bọc
đâu, bà mẹ đang cho một em bé sơ
sanh bú. Bà cho con bú trên đường ra
chợ, ngay trên xe gắn máy, lạ lùng
và kinh hoàng !
Sài Gòn
nhìn và ngẫm nghĩ mãi, không biết tả
thế nào cho đúng. Nó giống như một
nồi lẩu thập cẩm, sôi bập bềnh những
thực phẩm trong đó, không nhìn rõ
được những gì, cho cái muỗng
vào, có thể may mắn múc được
miếng khả dĩ lành; nhưng không may, cũng
rất dễ vớt được một miếng ăn
vào trúng độc. Cái nồi lẩu
đó do đầu bếp nào sửa soạn,
đặt ra giữa bàn ăn ? Không rõ,
nhưng tất cả những người ngồi chung
quanh đó đều ăn, không ăn thì
đói.
Sài Gòn,
những cây me già ngày xưa vẫn đứng
đó, tình yêu tuổi trẻ của
chúng ta vẫn đứng đó. Công viên
Lê Văn Tám (tên một nhân vật
được phong tặng làm anh hùng, bây giờ
được chính người kể chuyện
là Trần Huy Liệu thú nhận là chỉ bịa
ra để tuyên truyền) trăm măn sau cũng
không thể nào xóa được những vết
tích của những nấm mộ xưa. Ai
đó tưởng rằng có thể xóa
nhòa tất cả, nhưng không, đám
mây năm nào vẫn trôi trên bầu trời
cũ. Nắng chấp choáng, hai bàn chân chập
vào nhau, tôi rưng rưng bước.
tmt
8
tháng 1 năm 2010
Tác giả: Trần Mộng Tú
(Kiều Diễm sưu tầm
và chuyển)