Chông
chênh
(Đoàn
Thị Trần Hồng Linh)
Chị Ninh đứng nhìn
phòng khách chật ních thùng các-tông,
chiều nay chị giao nhà cho người ta, tối
mai anh chị bay sang Los đoàn tụ với gia
đình con gái.
Ngày chị sinh Lan, bên ngoại
lẫn chồng chị đều thất vọng, mẹ chị
có bốn cô con gái, đứa cháu ngoại
đầu tiên lại là gái, ông ngoại
không vui chứ không phải bà ngoại.
Ông ngoại cười ruồi,
lại con gái, chả trách ông được,
hai mươi năm nay ông sống bên "ngũ
long công nương" tính luôn bà vợ
của ông cho chẵn con số năm, toàn tiếng
khóc mỹ nhân làm mềm lòng nam nhi.
Ông buông một câu thật
mếch lòng, bà chỉnh ngay, ô hay sao ông lại
nói thế, ông không sợ con gái buồn
à, anh chị sui không chê con gái, mình
bên ngoại mắc chi mà than. Ông chả trả
lời đến bên chiếc nôi nhìn con
bé Lan, trông nó giống mẹ, giống
ông ngoại nữa đấy, ông cuời thầm,
cháu ngoại là cháu mình, chắc ăn
như bắp, thôi thế cũng được.
Được quá đi chứ,
con bé Lan năm lên tám đã biết nấu
cơm phụ mẹ và trông em, cu Lộc nhỏ
hơn chị hai tuổi mà chả biết làm
gì cả, ông ngoại cưng Lộc như trứng,
cháu ngoại cùng họ, mang tên lót
bên ông, Nguyễn Phúc..., ông hả dạ lắm.
Đám cháu ngoại của
ông sau này toàn con trai, ông hả hê, trời
bù đắp, bõ công ông trông đợi
bao nhiêu năm, nhưng mấy thằng cháu sau
không mang họ Nguyễn, toàn là, Lê Nguyễn,
Vũ Nguyễn... cố gán ghép cái họ
Nguyễn của ông cũng không "lấn
được cái họ bên chồng”.
Ngày Lan sinh con gái đầu
lòng, chị Ninh chẳng buồn tí nào, ba thế
hệ đều có con đầu là gái, chị
cho đó là phúc lộc, may là ông ngoại
của Lan đã mất, nếu còn sống
ông lại hoài công mong đợi, đứa
cháu cố đầu lòng lại là con
gái.
Chị Ninh vui lắm, cả
tháng nay đồng nghiệp trong công ty chị
làm, ai cũng vui với chị, có con gái
có khác, hô một tiếng là nó bảo
lãnh anh chị đi. Chả bù con trai, muốn nó
lo cho mình sang, phải chờ quyết định của
"bà dâu”, không phải cách mệnh
đổi đời, mà cái trời TTy xa xôi
kia đã đổi phận đàn bà,
bây giờ họ bình quyền đến phát
khiếp. Nói theo kiểu Sàigòn thời
thượng, trên mức tuyệt vời, sướng
nhé các bà tha hồ đe nẹt chồng, nhẹ
tay thôi, nhỡ ông nhà "hóa rồ"
quay về bên nhà cứu vớt đám phụ
nữ liều mạng lấy "chồng ngoại
bang”, bà coi như trắng tay.
Mẹ con chị đã bàn
với nhau, sang Mỹ chị sẽ ở nhà trông
hai cháu để Lan học nốt, lấy xong
cái bằng kế toán, lúc đó
các cháu tự ăn, tự đón xe bus
đi học, chị sẽ đi làm, bước
đầu chồng chị đi làm trước để
không gây phiền hà con rể.
Những ngày đầu
đoàn tụ, tiệc nhà này nhà nọ,
ra mắt ba mẹ, ông bà nhạc với bạn
bè, nhộn nhịp cả cái xóm Việt Nam
trong khu nhà Lan, ai cũng mừng cho gia chủ, chuyến
này chúng mày tha hồ tay trong tay dung dăng
dung dẻ đi chơi.
Chồng chị Lan "ở
không" bên nhà khá lâu, khi
Sàigòn bị đổi tên, ngày anh cởi bỏ
áo lính vì thời cuộc, anh đóng vai
xe ôm chở chị đi buôn, tròm trèm ba
mươi năm anh chưa hề bước chân
vô sở đi làm. Sàigòn mở cửa,
Tây Tàu đổ vào miền nam kinh doanh, chị
Ninh nhảy vào sở tây làm việc,
lương vài trăm đô một tháng, anh
có nhiệm vụ sáng đưa chị đến
sở, chiều đón về. Tám giờ chị
làm việc trong sở, anh ngao du mấy quán
cà phê với đám bạn già, anh thuộc
hàng tỷ phú thời gian, số anh đẻ bọc
điều, lớn lên đi lính mười mấy
năm, sau đó vợ nuôi, trách anh cũng tội,
lính ngụy ai cho làm việc.
Cô em vợ chanh chua xếp anh
vào một cái nghề mới toanh, "làm
thinh”, ai đi làm mặc họ, anh thinh lặng ở
nhà hưởng đời, sáng chiều làm
"xe ôm" đưa vợ đến sở
là quá lắm rồi, đòi hỏi nhiều
cũng không được, đàn ông bên
nhà là "zua”, đàn bà lộn xộn
ăn bộp tai như chơi.
Nhờ cách mệnh "đổi
đời", anh ngơi mấy chục năm nay, qua tới
Mỹ, thiên đàng hạ giới, sao anh thấy
đời khổ quá, thiên hạ lao động
như goulag bên Sibérie, vợ con bắt anh đi
làm, mà làm cái gì, anh chỉ biết
làm thinh, tay chân không quen lao động. Mấy
ông Việt Cộng dối trá, lao động
là vinh quang hồi nào, qua đây cày hai ba
job là biết liền, dân bên nhà sống
nhờ tiền chu cấp của người thân
nên họ tiêu xài thoải mái, đua
đòi phát khiếp.
Lan hỏi ba muốn làm nghề
gì để con tìm, con nhỏ chậm tiêu, ba
mày là chuyên viên "làm thinh”, tự
dưng bắt ổng "làm thiệt”, con nhỏ
bất hiếu, ác thiệt. Anh bí lối,
gãi đầu, từ từ tính, ba mới qua
chưa "đầy tháng”, kiểu này chắc
chờ "thôi nôi" ba biết bò, biết
lật hẳn hay, người ta nói dân
Sàigòn lười không sai.
Xin lỗi, nhà dột có chỗ,
đừng vơ đũa cả nắm, mếch
lòng dân ta, người nghèo, người lao
động chân chính bên nhà làm việc
hơn mười giờ một ngày, làm gì
được lãnh tiền overtime, đa số thầm
lặng đó, bị lãng quên bên lề
xã hội, không ai đoái hoài, họ
đáng được trân quí.
Bị ép uổng dữ lắm,
sau khi suy nghĩ "hơn thiệt”, anh mới chịu
đi làm, tội nghiệp anh, đôi khi anh muốn
bỏ về Sàigòn quách cho rồi, thiên
đàng của ai chứ đâu phải của
anh. Đàn ông bên này mất giá trầm
trọng, chả có quyền hạn chi cả, la mắng,
đánh đấm vợ con là bị
"hươn nai gì đó”, ờ nai quờ quạng (911)
nó còng tay làm thịt mình, anh ráng ở
ít bữa, thành Việt kiều, anh về
Sàigòn cưới hoa hậu, người mẫu
thời trang, hoặc Em Mờ Xi (MC) cho bỏ ghét.
Tội nghiệp anh "hai
lúa" của xứ Cờ Hoa, muốn thành Việt
kiều, phải ở lại ít nhất năm
năm, thi xong cái bằng quốc tịch, lúc
đó phải đọc đúng là nai oanh
oanh, chớ có đọc nai quờ quờ, là rớt
một cái bịch, tàn mộng Việt kiều
đấy. Từ đây tới đó hy vọng
cuộc sống mới bên này thay đổi
cái nhìn méo mó của anh. Chị Ninh thẹn
đỏ mặt những ngày đầu ra mắt bạn
bè của con gái, chị đường
đường là trợ lý GĐ cho công ty
nước ngoài, anh ngồi nhà ngơi như
người thất học.
Bên này hở ra phải
lái xe, anh tính nhẩm, dại gì học
lái, ngày nghỉ mất công chở con
cháu đi chơi, đi chợ, anh đẩy vợ
đi học lái xe, nại cớ, mắt mờ,
chân chậm. Mỗi ngày vợ đưa
đón anh đi làm, xứ Mỹ này tàn
ác hơn cán Cộng, nó đảo lộn cuộc
sống an nhàn của anh, mấy ông Việt kiều
về nước nghỉ hưu là phải lắm,
dân chơi sành điệu có khác,
hãy đợi đấy, ông sẽ về cho
mà xem.
Mới đó đã ba
mùa lá rụng, chân tay chồng chị Ninh cũng
rụng rời theo nhịp vắt sổ, anh kiên nhẫn
chờ thêm vài tháng nữa, Lan ra trường
đi làm, thả vợ anh về "cứu" anh.
Tối đến hai vợ chồng
hủ hỉ, anh tán vợ:
- Mẹ nó ở nhà
mãi, cùm chân một chỗ, chắc nhớ việc
làm.
Chị ngây ngô :
- Ừ, cũng nhớ chút
chút, nhưng thương các cháu quá, rời
chúng nó không đành.
Anh mất vía:
- Thế mẹ nó không
định đi làm trở lại à, ở
nhà lụt nghề làm sao.
Chị ỡm ờ:
- Từ từ tính, mấy chục
năm nay cày rồi, vả lại bên nhà
dùng tiếng Tây, qua đây "chuyển ngữ"
qua tiếng anh, phải đi
học ESL mới "cập nhật" trình
độ ngôn ngữ được.
Rồi chị kết một
câu, xé nát tim anh:
- Ở nhà quen đâm lười,
vả lại đến thiên đàng rồi,
ngơi thử xem có đúng như người ta
đồn không.
Anh tiu nghỉu, sao tự nhiên chị
đòi "hưởng đời" sớm thế,
chị vốn siêng năng, không lẽ cái xứ
này làm chị hư người, bao nhiêu hy vọng
thầm kín, ấp ủ những ngày an nhàn
sắp tới bỗng chốc mong manh như chuông treo
tóc tơ.
Anh căm hờn, anh cắn răng
cày, chờ ngày phục thù định mệnh
đang đì anh, trong lúc đó chị tỉnh
queo, cắp sách đi học, chắc mấy bà Mỹ
chỉ bảo chị cách sống bình đẳng,
bình quyền đây. Hỡi ơi, thiên
đàng xứ Cờ Hoa, chỉ ưu đãi
đàn bà thôi, bọn đàn ông, một
thời hét ra lửa bên nhà, dẫn xác
qua đây làm chi, giờ bị "chế độ
tự do quá trớn" bạc đãi, muốn
la hét đánh đấm cho hả cơn giận,
phải gờm mấy thằng "nai một một"
(911). Cụm từ mã hóa này, bọn anh
nói với nhau trong quán cà phê để
tránh tụi "phú lích" nghe được
(police), "thổ ngữ" của mấy ông "bất
đắc chí”, nuối tiếc thời vàng
son "chồng chúa vợ tôi" đã
lùi vào thế kỷ 20 vừa qua.
Trời không phụ lòng
anh, đủ tháng đủ ngày, anh vác
chõng đi thi quốc tịch, nhờ đi làm mấy
năm nay, tiếng Mỹ nghe quen tai nên anh không khớp,
vả lại chị Ninh kèm anh liền tù tì
mấy tháng mới nên cơm cháo ngày
nay.
Mảnh bằng quốc tịch vắt
vai, chuyến này anh thành Việt kiều thứ
thiệt, hỏng phải dân "green card"
đâu nhé, cụm từ này anh dùng tiếng
Mỹ chính thống, không cần dùng "thổ
ngữ”, bây giờ mình thành "Mỹ
giấy" thứ thiệt, nên phân biệt rỏ
giữa công dân Mỹ với "thường
trú nhân”.
Năm năm chờ đợi, chuyến
này anh quyết quay về Sàigòn cho bõ nỗi
nhớ nhà, về để thưởng thức
cái mác Việt kiều dính cứng trên
người anh, nhất là
"chị em ta" bên nhà thể nào chả
vờn tới vờn lui níu kéo. Anh mỉm cười
một mình, ưng ý lắm, thầm nghĩ, mẹ
nó liệu hồn mà ngoan ngoãn, ông cặp
kè với gái trẻ vài bữa lấy oai, mẹ
nó chỉ có nước "lạy ông"
ông mới quay về.
Chưa đỗ ông nghè
đã đe hàng tổng, anh hơi chủ quan, Việt
kiều lúc này thua xa Đại gia, tiền
đô la đổ mồ hôi sôi con mắt
bên này, bì sao nổi với tiền của mấy
ông "quan đỏ" chuyên "kinh doanh tiền
viện trợ" của các nước đổ
vào VN. Anh chỉ ngon lành với dân lao động
chân chính, chưa chắc khá hơn dân chủ
công ty Tờ Nờ Hờ Hờ (trách nhiệm hữu
hạn), thua xa ca sĩ nghệ nhân chạy show từ
Nam chí Bắc, bì sao được với việt
kiều "tái hồi hương" lập nghiệp,
"tái" là vì sau mấy chuyến đi về
thăm dò, xét thấy "quê hương
là chùm khế ngọt" nên ta "xin chọn nơi này
làm quê hương”.
Nhằm nhò gì ba cái
chi tiết lẻ tẻ đó, lòng anh đã
vững như kiềng ba chân, anh phải về cho hả
cơn thèm anh nhịn mấy năm nay, sẵn đe
bà vợ, may là chị Ninh vẫn ngoan ngoãn
đưa đón anh đi làm, đe trước
cho bả ngán.
Cái ngày mong đợi
đã đến, máy bay sắp đáp xuống
phi trường Tân Sơn Nhất, anh đi vào WC
sửa lại bộ vó, trang phục đúng
điệu Việt kiều, đội thêm cái
"kết" có chữ
"du xi eo lây" (UCLA) chánh hiệu con nai
vàng dân "Cani" (Cali).
Vừa đến Sàigòn,
anh đã hò các bạn họp mặt tại
một quán ăn "bao bụng" (buffet), sau buổi
ra mắt hội ngộ, bạn bè lần lượt
gặp riêng anh, tri kỷ là đây, anh biếu
các bạn chút tiền cà phê, gọi
là hâm nóng tình bằng hữu, đồng
tiền đi trước là đồng tiền
khôn. Chị Ninh tranh thủ đi sắm áo
dài cho con cháu, chị như chìm trong cái
thế giới áo dài của riêng chị, chị
rảo hết Sàigon, tơ tằm, gấm lụa ...
thứ nào chị cũng gom vào. Chị ưng
ý nhất bộ áo dài gấm bốn
mùa, nghe "nghệ thuật" như tác phẩm
bốn mùa của Vivaldi, thật ra là gấm Mai
Lan Cúc Trúc, mỗi áo một loài hoa in nổi
trên nền gấm màu đỏ Bordeaux, màu
xanh biển sậm ...
Sàigòn ngày về, anh
chạnh lòng nhớ lại thời oanh liệt, thấy
mình lạc lõng giữa con phố thân quen giờ
không còn quen thân vì cây cảnh cũng
như con người đã đổi thay. Bỗng
anh nhớ nhà, cái nhà bên Mỹ, đi xa
mới thấy nhớ, cái xóm yên tịnh nhiều
kỷ niệm, mới năm năm mà anh thấy gắn
bó, có lẽ cuộc sống sinh động
bên đó đã hoàn chỉnh quan niệm
sống của anh. Giấc mộng hồi hương phai
dần, anh thấy mình trôi nổi chông
chênh giữa cái thành phố thay đổi
đến chóng mặt, tuổi già của anh
khó "hội nhập" vào cái xã hội
bát nháo anh vừa bỏ đi vài năm nay.
Anh thất vọng thấy không
ít người có khuynh hướng sống kiểu
"chùm gửi”, nhất cử nhất động
réo gọi "tiền đô”, cưới hỏi,
ma chay, tiền chợ, điện nước, tiền nghĩa
vụ quân sự, lao động XHCN, cả tiền du
lịch ngày lễ ... thân nhân bên kia bờ
đại dương bao trọn gói, công thức
hai hay ba trong một, y như quảng cáo dầu gội
đầu, bột giặc.
Không ngờ mấy năm ngồi
máy vắt sổ, anh đã giã từ
cái nghề "làm thinh" và thân phận
chùm gửi năm xưa, tuy chưa "yêu lao
động" như đồng hương cày hai
jobs, nhưng đi làm có tiền rủng rỉnh
vẫn hơn xoè tay xin tiền vợ.
Bây giờ anh bớt căm hờn
cái thiên đàng của đàn bà, xứ
Mỹ "chơi ép" đàn ông, nhưng
đối với mấy ông "chồng
chúa”, cái bọn "nai một một"
đôi khi giúp họ dừng tay đúng
lúc, tránh cảnh tan nhà nát cửa, mấy
bà cũng đừng dựa vào mấy ông
"nai" ăn hiếp chồng tội nghiệp, chồng
mình mình cưng đâu có ai cười.
Máy bay sắp đáp xuống
phi trường Los, anh đi vào WC sửa lại bộ
vó, trang phục đúng điệu VN, tee shirt in
hình bản đồ chữ S, cái "kết"
in chữ "Sàigòn Tourist”. Phi cơ chao đảo
khi sà xuống đường băng, ruột gan anh
đánh thót một cái, thôi rồi anh vừa
để quên con tim ở đâu đó giữa
Sàigòn và Cali, tọa độ nghiêng về
hướng USA.
Đoàn
Thị TRẦN HỒNG LINH
(Huon
Trinh sưu tầm và chuyển)