Thời
buổi "31 Tháng Tư" của Vương Hồng
Sển
(Ngô
Nhân Dụng)
“… Cái buổi 31 Tháng Tư sẽ
đến hồi kết thúc, người Việt Nam
có ngày lại trở về làm người
Việt Nam, giống như “trước 30 Tháng
Tư”!…”
Nhà văn Vương Hồng Sển
không hay bàn chuyện chính trị. Cụ
thường kể chuyện Sài Gòn năm
xưa, rỉ rả về thú chơi đồ cổ,
tự chế nhạo mình sống “hơn
nửa đời hư” . Năm 1993,
đã ngoài 90 tuổi, cụ vẫn gắng sức
ngồi viết kể tiếp những chuyện mình
đã từng trải qua cuốn Nửa Ðời
Còn Lại (Văn Nghệ xuất bản, California,
1996). Trong sách này, có hai chỗ Vương Hồng
Sển nhắc đến ngày 31 (sic) Tháng Tư
năm 1975! Lần đầu, ở trang 285, cụ viết:
“...tôi xin được lẩn thẩn lấy
theo sức học đáy giếng mà luận việc
trên cao để được tỏ chút nỗi
lòng một dân Nam thấp hèn buổi
31-4-1975”. Nhắc lại: một dân Nam thấp
hèn buổi 31 Tháng Tư 1975!
Ai cũng biết Tháng Tư chỉ
có 30 ngày. Riêng cái ngày 30 Tháng
Tư năm 1975 là một ngày mà người
dân Việt Nam thuộc thế hệ trên 40 tuổi
không thể nào nhớ lộn, không thể
nào lầm lẫn được. Cụ còn viết
một lần nữa, trang 291: “...tôi đây
đã trải cảnh chịu đựng sau ngày
31-4-1975 ở Sài Gòn, làm tôi bắt nhớ
Nguyễn Du năm 1802..”.
Có phải cụ Vương Hồng
Sển tuổi già viết lộn hay người
đánh máy bấm lộn một nút? Giả
thiết tác giả đã lẫn, viết sai 2 lần,
khó tin. Vì đọc cả cuốn hồi
ký, tự sự này, chúng ta thấy ông
còn rất minh mẫn. Ông nhắc lại những
chuyện thời 1922, 1946, vẫn nhớ và ghi lại
từng chi tiết. Vương Hồng Sển nổi tiếng
là người có thói quen ky cóp cất
giữ các kỷ vật, ghi chép các biến
cố trong đời mình rất cẩn thận.
Ông còn giữ cái toa thuốc của Bác
Sĩ Nguyễn Văn Thinh viết ngày 17 Septembre 1924.
Còn người đánh máy, nếu ngón
tay bấm sai thì chỉ lộn zero sang số 9 chứ
không phải số 1, vì trên bàn máy
hai số zero và số một rất xa nhau.
Cho nên, có thể
đoán khi cụ Vương viết hai lần
ngày 30 ra 31 như vậy, chắc là cố
ý. Ðó là một cách phát biểu
ý kiến về chính trị. Cuốn sách vẫn
theo lối văn “rất Vương Hồng Sển”!
Tức là cụ kể chuyện miên man, chuyện
nọ xọ chuyện kia, lối văn “cà rởn,
cà tửng” theo phong thái miệt Vườn
hay nhái giọng Triều Châu. Lâu lâu,
tác giả “đánh du kích” một
câu thấm thía, đó là lúc
bàn xéo về chính trị! Viết 30
thành 31 là một lối cà tửng rỡn
chơi, gửi một thông điệp cho người
hiểu văn mình!
Hai lần “cố ý” viết
ngày 30 ra ngày 31, là hai lần tác giả Sài
Gòn Năm Xưa viết với tấm
lòng đầy cảm khái, kể tâm
tình như đang muốn trút ra những “nỗi
riêng lớp lớp sóng vùi”. Lần thứ
nhất, cụ nói đến thân phận “một
dân Nam thấp hèn buổi 31-4-1975”! Tự nhận
mình thấp hèn như ếch ngồi
“đáy giếng” đòi bàn luận
việc “trên cao”, dù chỉ bàn một
chuyện văn học, người miền Bắc gọi
là “nói kháy”. Lần viết lộn
thứ hai là đoạn Vương Hồng Sển tự
so sánh mình với kiếp “hàng thần lơ láo phận mình
ra đâu” của Nguyễn Du khi phải về
làm tôi triều Nguyễn. Vương Hồng Sển
đã viết rất dài về tâm sự Nguyễn
Du trong thời gian đầu thế kỷ XIX, để
biện luận rằng trong thân phận “hàng
thần” đó Tố Như không thể
bình tâm mà sáng tác Truyện Kiều
được. Ðó là ngẫm mình mà
suy ra tâm trạng người xưa. Còn lần thứ
ba, ở trang 333 khi chỉ mô tả khách quan quang cảnh
một khu phố Sài Gòn thay đổi, thì
Vương Hồng Sển viết đúng: “...từ
ngày 30-4-1975 và hiện nay đã trở
nên phố xá tấp nập lớp buôn
bán, lớp làm cửa hàng to...” Ba lần
viết đến ngày 30 Tháng Tư, hai lần viết
lộn. Phải nghi là nhà văn cố ý.
Cố ý, nhưng là ý
gì? Hàng chữ “buổi 31-4-1975” của
Vương Hồng Sển đã tóm gọn tất
cả những năm tháng sau ngày 30 Tháng
Tư năm cũ, sau cuộc đổi đời!
Bây giờ đọc cụ Sển, độc giả
vẫn chia sẻ được nỗi niềm của
người dân miền Nam, đặc biệt là
người Sài Gòn, ngậm ngùi nghĩ tới
“buổi sau ngày 30 Tháng Tư”! Vương Hồng Sển
là một nhân chứng, một nhà viết sử
dân gian của thành phố Sài Gòn với
70 năm bao kinh nghiệm biển dâu. Với
con mắt tinh tế, ngòi bút hóm hỉnh, mặc
dù nhất định không bàn chuyện
chính trị, tìm cách tránh né lưỡi
kéo kiểm duyệt của các nhà xuất bản,
cụ Vương vẫn ghi cho chúng ta những
nét chấm phá về thế cuộc để
các sử gia sau này phải tinh ý chăm
chú mà gạn lọc.
Vương Hồng Sển không
bị rơi vào cảnh tù cải tạo,
nhưng đã nhắc đến thời đoàn
quân của Nguyễn Ánh ra chiếm Bắc
Hà, chỉ có hai người trong giới sĩ
phu của Nhà Lê và Nhà Tây Sơn bị
chế độ mới hành hạ, là Phan Huy
Ích bị đánh trước Văn Miếu,
và Ngô Thì Nhậm bị đánh đến
chết vì thù riêng. Nhắc chuyện cũ,
chính là để so sánh với chính
sách lừa bắt hàng trăm ngàn người
đi tù mút mùa gọi là “cải tạo”!
Thân phận người
trí thức miền Nam có những nỗi đau
đớn vì mất tự do. Có đoạn
đang bàn chuyện Phạm Quỳnh, cụ
Vương đánh một câu: “trong này
(tức là trong miền Nam) ngày nay (tức là
khác trước 1975) có miệng mà khó
nói nên lời, có tay cầm viết mà
khó ghi lời nào khỏi bị sửa chữa, cắt
xén - vả lại tôi là người gì
mà được phép nói...” (trang 267).
Tôi là người gì mà dám nói?
Cụ Vương có lúc bỗng trở nên nồng
nhiệt, dầu vẫn rụt rè nhưng nhất quyết
phải nói, khi cụ lên tiếng bênh vực
Phan Thanh Giản, một danh nhân miền Nam vẫn bị
đảng Cộng Sản buộc tội và bêu
riếu một cách thô bạo, bất công. Sau
khi biện luận để phục hồi danh dự Phan
Thanh Giản, Vương Hồng Sển viết: “...người đời
nay học thuyết mới, tư tưởng theo mới,
quên ơn kẻ trồng cây, quên ơn sanh
thành đào tạo...” Ý nói:
Người đời nay theo Mác xít, quên cả
ơn cha mẹ, quên cả ơn thầy!
Mặc dù tự nhận
thân phận thấp hèn của một người
dân miền Nam trước đoàn quân chiếm
đóng, nhưng khí phách miền Nam vẫn
không để phai mờ. Chống lại cả guồng
máy “tuyên giáo” của đảng Cộng
Sản, nhưng vẫn đứng lên bênh vực
Phan Thanh Giản! Ai cũng biết, sau ngày 30 Tháng
Tư 1975, lẫn trong đám các nhà văn,
nhà thơ và học giả miền Bắc
vào Sài Gòn, có nhiều người mang
thái độ kiêu ngạo của đoàn
quân thắng trận, lên mặt “dạy dỗ,
cải tạo” giới văn nghệ và học
thuật miền Nam theo đúng đường lối
đảng, cùng với bọn văn nghệ
cách mạng 30 nhi nhô đóng cai chỉ điểm.
Cảnh tiếp xúc hai miền Nam Bắc lúc
đó, Vũ Hoàng Chương đã diễn
tả qua hai câu: “Rằng
vách có tai, thơ có hoạ - Biết
lòng ai đỏ, mắt ai xanh”! Những
người trí thức Sài Gòn như
Vương Hồng Sển (hoặc Nguyễn Hiến
Lê, Dương Nghiễm Mậu ...) chọn sống ẩn
dật chứ không chịu ra làm tay sai cho bọn
vua quan mới. Cụ Vương viết: “Tôi dư biết cho thân, thà
làm dế sống trong hang, có lẽ được
yên thân hơn là múa gáy cho trẻ nhỏ
nó biết chỗ trốn, chúng đổ nước
ngập hang, bắt dế về nuôi trong hộp
diêm, hộp quẹt, thỉnh thoảng bắt ra
đá độ, gãy càng queo râu toi mạng”
(trang 84).
Sống trong một xã hội
đầy những “vách có tai, thơ có
hoạ” nhìn chung quanh không “biết
lòng ai đỏ, mắt ai xanh”, Vương Hồng
Sển không dám nói thẳng mà chỉ
dùng mật ngữ. Có lúc cụ kể chuyện
Sài Gòn đời xưa từ 1867, qua trào
Tây, trào Nhật, quay qua nói chuyện vua
Napoleon III bên Pháp, rồi chợt cảm khái:
“Trở lại người
dân đất Sài Gòn, như tôi
đã nói, dám chắc không dân
nào trí lanh tay xảo hơn. Khi bỏ áo
giáp, tuột giầy trận, chịu đi
đày, bán từ bàn thờ tổ tiên,
bán ván gõ để nằm dưới gạch,
căn đầy kiếp đoạ, tiếc đã muộn
...” (trang 55). Trong mấy dòng này là những
ám hiệu chỉ cốt cho “dân Sài
Gòn” hiểu với nhau thôi! Những nét
chấm phá độc đáo: Kẻ thì
“bỏ áo giáp, tuột giầy trận, chịu
đi đày”; người ở lại nhà
thì “bán bàn thờ tổ tiên, căn
đầy kiếp đoạ”! Và tất cả
đều “tiếc đã muộn”!
Tiếc đã muộn! Chỉ
ba chữ, ba chữ gói ghém bao nhiêu nỗi
đoạn trường của cái thời buổi
“31 Tháng Tư”!
Chỉ mấy trang tiếp, sau khi kể
chuyện cà kê Kép Tư Út hát
bài Anh Khoá đời xưa, tiếp đến
chuyện ngôi nhà Tổng Ðốc Phương bị
tháo gỡ bán qua Ðài Loan bây giờ, bỗng
nhiên Vương Hồng Sển lại viết: “Dân Sài Gòn tự
khoe tiến bộ ký quỹ, gửi tiền nhà
băng, Giải Phóng vào, hốt sạch sành
sanh, thua xa dân Thổ Trà Vinh, Sóc Trăng ...
bán lúa mùa này xong, chôn bạc giữa
lẫm rồi đổ lúa mới lên
trên...” (trang 57). Nhắc lại phương
cách cất giấu tiền của dân Thổ
đời xưa, để so sánh với dân
Sài Gòn thời 1975, chỉ cốt viết một
câu kết án: “Giải phóng vào, hốt
sạch sành sanh”! Trong 7 chữ, Vương Hồng
Sển cực tả một vụ cướp bóc
đại quy mô, bây giờ còn gọi là
“ăn cướp hoành tráng”. Hốt sạch
sành sanh! Như vậy gọi là “giải
phóng” đó! Ai đọc tới câu
này mà không nghĩ ra, là phụ lòng
Vương Hồng Sển!
Vào cái buổi 31 Tháng
Tư, người miền Nam sống ra sao? Có
lúc cụ Vương đang kể miên man những
chuyện lẩm cẩm ở Sài Gòn từ thời
Tây qua thời Nhật, bỗng tóm gọn một
câu: “Kẻ trí
đi ra nước ngoài, người ở lại phải
giả dại qua ải” (trang 58). Phải sống
“giả dại qua ải” nhưng Vương Hồng
Sển cũng sống đủ lâu, được chứng
kiến bản lãnh dân miền Nam vẫn vững
vàng. Cụ viết: “Nói
chi thì nói, phải nhìn nhận dân
Sài Gòn vẫn có bản lĩnh - nước
dưới sông thấy đó mà chặt
không đứt, dứt không rời...” (trang
80). Dân Sài Gòn, và người dân
miền Nam nói chung, quả thật có bản
lãnh “chặt không đứt, dứt không
rời”, cho nên “trải mấy trào
liên tiếp mà dân vẫn là dân, cảnh
có đổi mà dân không đổi...”
Thơ Ðỗ Phủ viết: “Quốc phá,
sơn hà tại”, chế độ vỡ,
núi sông vẫn còn. Vương Hồng Sển
không quan tâm đến núi sông, mà
chú ý tới bản lãnh dân Sài Gon bền
bỉ, vững chãi!
Ai cũng biết rằng sau năm
1975, vào cái “buổi 31 Tháng Tư”
thì xã hội miền Nam đã thay đổi
vì chịu ảnh hưởng của lối sống
do chế độ mới tạo ra. Ai cũng có thể
so sánh cách sống của dân Sài Gòn
“trước ngày 30” và sau “buổi
31 Tháng Tư”.
Trước ngày 30 Tháng
Tư năm 1975, trẻ em miền Nam có những lời
nói, cử chỉ kính trọng các thầy
cô giáo hơn bây giờ. Mà các thầy
cô hồi đó cũng nhiều người giữ
được tư cách đạo đức hơn
buổi 31 Tháng Tư.
Trước ngày 30 Tháng
Tư 75 ở miền Nam trai thiếu gái thừa,
nhưng chưa có người mẹ nào bán
con đi lấy những người chồng ngoại quốc
không hề quen biết, với giá mấy trăm
đô la Mỹ. Không có những cô
gái xếp hàng trưng bày cho đàn
ông ngoại quốc chọn. Không có người
mẹ nào đem con gái bán cho các mụ
Tú Bà. Bây giờ phong cảnh đã
khác.
Trước ngày 30 Tháng
Tư 75, mặc dù đang có chiến tranh dân
miền Nam vẫn dám biểu tình phản đối
chính phủ, không thua gì dân Nam Hàn,
Ðài Loan cùng thời gian đó. Sinh viên
Sài Gòn biểu tình đòi giáo
sư Y khoa phải dạy bằng tiếng Việt,
ký giả biểu tình phản đối Bộ
Thông Tin đóng cửa báo, các công
nhân đình công, bãi thị, các học
sinh bãi khoá. Tinh thần độc lập, tự
chủ của người dân rất cao, chính quyền
không dám tiêu diệt xã hội công
dân. Ngày nay những người như Ðiếu
Cầy chỉ cần viết cho nhau bằng Internet,
nói chuyện tự do dân chủ, chống Trung Cộng
xâm chiếm Hoàng Sa, cũng bị ghép tội
rồi bỏ tù.
Nhưng chúng ta có thể
tin tưởng như Vương Hồng Sển, là
dân Việt Nam rất có bản lãnh. Dân vẫn
là dân, các chế độ đi qua rồi sẽ
biến mất. Chính Vương Hồng Sển cũng
có lúc tỏ ý lạc quan. Ðọc lại
cuốn Hơn Nửa Ðời Hư in ở Sài
Gòn, cụ đã cải chính mấy đoạn
bị nhà xuất bản trong nước cắt
xén. Nhân dịp đó, cụ còn tỏ
ý tha thứ và hy vọng: “...tự xét
tuổi gần đất xa trời, cũng nên hỉ
xả hoạ may nối thêm được một
ít lâu để chờ xem mãn cuộc ... cuộc
gì cũng chưa dám nói và nên hiểu
ngầm...” (trang 277).
Mãn cuộc gì, ai cũng hiểu!
Cụ đã qua đời, không “nối
thêm được ít lâu”. Cụ chưa
được thấy hồi “mãn cuộc”.
Nhưng cũng sắp tới rồi! Cái buổi 31
Tháng Tư sẽ đến hồi kết thúc,
người Việt Nam có ngày lại trở về
làm người Việt Nam, giống như
“trước 30 Tháng Tư”!
Ngô
Nhân Dụng
(Vu
Cong Hien sưu tầm, Toan Lat chuyển)