Khai Hoang
(Lâm
Chương)
Nghe nói, người ta dự trù thiết lập nhà
máy làm giấy, tại một tỉnh thuộc miền trung
du. Nhà máy do nước Thụy Điển bên trời Âu viện
trợ cho nước ta. Không biết công tŕnh đă khởi
công hay chưa. Chỉ nghe tin đồn, mà tin đồn
th́ thực hư chẳng lấy ǵ làm chính xác. Nhưng có
điều chắc chắn, những người thất
trận từ miền Nam xa xôi, bị đẩy tuốt
lên vùng mạn ngược, đă được lệnh
khai hoang phá rừng để trồng cây bạch đàn.
Lúc đầu, không ai biết trồng bạch đàn làm ǵ.
Măi sau, mới vỡ lẽ ra rằng thân gỗ xốp của
bạch đàn có thể dùng làm giấy. Nhà máy chưa xây,
đă bắt tay vào việc tạo nguồn nguyên liệu
cung cấp. Quả là biết lo xa!
Những tháng mùa Đông. Trời Việt Bắc mang một
màu trắng đục. Chưa nói tới cái rét trên da thịt,
chỉ nh́n màu trời ảm đạm, đă thấy buốt
cả tâm hồn. Kẻ đi đày, áo rách xác ve, ḷng sầu
quê cũ.
Nếu so với kẻ đi xây Vạn Lư Trường
Thành vào thời Tần Thủy Hoàng, chắc cũng có
điểm tương đồng. Sử sách ngàn năm
xưa chép lại, tiếng kêu ai oán c̣n nghe văng vẳng
theo ngọn Đông phong dọc suốt dăy trường
thành. Khí uất xông lên, mây mù che ám một góc trời phía Bắc
Hàm Dương. Chế độ nhà Tần bị diệt,
cung A Pḥng cũng cháy thiêu. Đền đài cung điện
nguy nga, bỗng chốc hóa tro tàn. Trải qua bao nhật nguyệt
nắng mưa. Hươu nai chạy trên nền cũ. Lau
sậy lút đầu. Chứng tích một thời ác nghiệt
kinh thiên, c̣n lại một Vạn Lư Trường Thành. Dù
nhân loại không muốn tái diễn chế độ bạo
tàn, nhưng các sử gia khẳng định rằng lịch
sử luôn luôn lặp lại. Và lịch sử Việt Nam
đang lặp lại cái thời Tần Thủy Hoàng,
hơn hai ngàn năm trước. Không gian, thời gian sai biệt,
t́nh huống chẳng khác ǵ nhau. Đốt sách và
đày ải con người, dường như sao nguyên bản
của chính sách nhà Tần.
Lên miền Thượng Du, đứng đâu cũng
thấy núi non bốn bề vây hăm. Trông về Tây Bắc, lô
nhô một dăy chắn ngang tầm mắt. Núi nḥa
sương, không rơ nét. Muốn sang bên kia, khu vực
được chọn trồng cây bạch đàn, phải
qua đèo. Đèo không cao mà dốc ngược. Thế
đất yên ngựa nằm vắt ngang dăy núi. Thoạt
nh́n, đă ngao ngán đôi chân. Đường đèo trơn
ướt, gập ghềnh đá tảng, luồn lách qua
những cây nhỏ cây to, quanh năm che khuất mặt trời.
Đá núi ngậm sương lâu ngày, phủ áo rêu phong.
Người đi trước, nhỡ làm lăn một tảng
đá, khó lường được tai nạn khốc liệt
cho người đi sau. Có nhiều đoạn đèo cheo
leo bên bờ vực. Tay bám vào cây, chân lần từng bước.
Sơ ư ngă xuống vực, mất mạng như chơi.
Đoàn tù lên dốc lom khom, thân chúi về phía trước,
trông như những con ốc sên to lớn dị thường,
từ từ ḅ trên miệng vực. Để chống cái
rét thiên nhiên, có bao nhiêu áo quần vá víu, tù nhân đều chùm
đụp cả lên người. Trên lưng lại chở
thêm chiếc ba lô tự tạo. Trong ấy đựng nhiều
thứ vặt vănh, nhưng vô cùng cần thiết cho một
đời sống vốn đă đơn giản hóa đến
mức tối đa. Những h́nh nhân biến tướng
thành những h́nh thù kỳ dị biết di động. Dù
đă trùm nhiều lớp áo quần, nhưng vẫn thấy
rét. Rét từ đâu trong xương rét ra. Rợn từng hồi,
dọc theo xương sống. Rét thắt ruột gan v́
đói. Rét luồn vào đường gân thớ thịt, tạo
thành cơn run.
Lên tới đỉnh đèo, ngồi lại nghỉ
mệt. Ủ hai bàn tay trong cặp đùi, sưởi ấm
cho những ngón lạnh tê. Hai bên sườn núi mịt mù
sương trắng. Nh́n xuống lũng, mây nặng màu
ch́, la đà trên thôn bản. Vời trông xa xa. Không gian mù
đục, chẳng thấy chân trời. Làm người
quen sống tụ họp nơi những vùng đất thấp.
Lên cao, cảm giác chênh vênh hiu quạnh lạ lùng. Khí ẩm.
Cây lá ướt mù sương. Trời đứng gió. Mọi
vật chung quanh im ĺm, dường như nín thở. Chỉ
có lũ vắt rừng đang âm thầm hoạt động.
Nghe hơi người, vắt từ lá mục ḅ lên, bám vào
kẽ ngón chân. Vắt trên lá cây buông ḿnh rớt xuống,
chui vào cổ áo. Khi nghe da thịt ngứa ngáy, con vắt
đă no máu rồi. Trên mặt địa cầu, nơi nào
cũng có loài hút máu. Nhưng so ra, trong tất cả các loài
hút máu, không có loài nào kinh khủng bằng loài người.
Loài người đă hút máu người, th́ hút đến
cạn kiệt sự sống. Những kẻ đi đày
hôm nay, đang bị xuất huyết bởi chính đồng
loại của ḿnh.
Trong nỗi cùng khốn, chợt nghĩ đến một
nhà văn ngoại quốc. Ông ta cảm thấy bị
lưu đày ngay trên quê hương ḿnh. Ở những quốc
gia b́nh yên sung túc, cuộc đời nhàn tản măi, làm
người ta nhàm chán. Họ muốn t́m cảm giác mới
cho tâm hồn, tưởng tượng ra mọi nỗi thống
khổ để quằn quại rên la cho thân phận kiếp
người. Trên quê hương tôi, những thứ đó
chẳng cần tưởng tượng. Tất cả những
bất hạnh khổ đau nào cũng đều hiện
thực. Chiến tranh. Nghèo đói. Chết chóc. Tù đày.
Không vào địa ngục, cũng thấy cảnh A Tỳ.
Quỷ Vô Thường hiển lộng. Những đấng
Từ Bi Cứu Thế đều bỏ đi xa. Chúng sinh
lặn ngụp trong bể trầm luân. Kêu gào. Than khóc. Chẳng
thấy ai ra tay cứu độ. Thế mới biết, tại
sao Lăo Tử một ḿnh cưỡi trâu xanh biệt tăm
vào núi. Nhưng, thời của Lăo Tử c̣n có thể t́m
nơi cao sơn cùng cốc lánh đời. Thời của
tôi, ẩn trong hang cùng xó núi cũng chẳng yên thân. Người
ta sẽ lôi ra, gán cho đủ thứ tội lên đầu.
Thành phần xă hội ở đây, được phân chia
rất rơ. Quỹ và Người. Con người ở
dương thế, nhưng sống trong trạng thái địa
ngục. Phía sau những khẩu hiệu tưởng chừng
dẫn tới thiên đàng, thật ra là đường về
âm cảnh. Làm người trong thời của tôi, thường
xuyên đi trên chông gai lửa đỏ. Tinh thần khủng
hoảng, nh́n đâu cũng hồ nghi có họng súng lưỡi
lê ŕnh rập. Đêm chập chờn ác mộng. Nghe tiếng
chó sủa, giật ḿnh thảng thốt. Nghe gà gáy báo hiệu
b́nh minh, sợ có kẻ tới nhà gọi đi thẩm vấn.
Bị thẩm vấn là điềm báo tai ương, dữ
nhiều lành ít.
Lên đèo đă vất vả. Xuống đèo, càng vất
vả hơn. Không vận dụng sức lực nhiều,
nhưng lắm rủi ro. Bất cứ lúc nào cũng có thể
xẩy chân lăn xuống vực. Có nhiều đoạn dốc
ngược, không thể di chuyển bằng đôi chân. Ngồi
mà tuột dốc. Thương cho cái đít quần. Lết
xuống tới chân núi, đít quần ṃn rách te tua. Hoàn cảnh
khó khăn thiếu thốn, cái ăn cái mặc là quư. Mảnh
vải che thân bị rách, cũng đau như chính da thịt
ḿnh xây xước.
Qua tới khu vực chọn trồng bạch đàn,
việc đầu tiên là lo chỗ ở. Tù nhân tạm trú
trong nhà kho hợp tác xă. Nhà kho không vách phên che, tứ bề
trống lốc. Dựng nhà kho để làm mô h́nh cho hợp
tác xă. Người dân sơn cước chưa đủ
miếng ăn, có đâu dư thừa lương thực
cho vô nhà kho? Để chống cái lạnh thiên nhiên, tù nhân
được ra đồng ôm rơm về lót ổ. Ngày
c̣n nhỏ, nghe nói đến ổ rơm của người
nghèo Miền Bắc.
Thời xa xưa ấy, tưởng đă qua rồi.
Không ngờ, mấy chục năm sau người tù đến
đây, thực hiện cái ổ rơm cho chính ḿnh.
Ổ rơm của tù có h́nh thức như chiếc
máng dài. Ḷng máng lót nửa tấm chăn. Nửa tấm c̣n
thừa, dùng đắp lên người. Cuộn ḿnh lâu trong
ổ rơm, hơi ấm tụ lại, thấy đời
cũng dễ chịu. Khi con người bị tước
mất tất cả, được một chút tiện
nghi nhỏ nhoi cũng nhân lên thành sự thoải mái lớn.
Thoải mái thường sinh ra những ước mơ
t́nh cảm. Nếu được nằm ôm vợ trong cái ổ
rơm ấm áp này, th́ hạnh phúc biết chừng nào. Nghĩ
thế, lại bàng hoàng. Từ lâu, gia đ́nh vợ con
đă không c̣n là nỗi nhớ nhung quay quắt. Những
h́nh bóng mờ nhạt ấy lùi sâu vào quá khứ, xa xôi
như thời tiền sử. Trong cảnh cố cùng
đói rách, dạ dày vật vă đ̣i ăn, kéo cái đầu
xuống thấp, chạm mặt vào thực tại. Ước
mơ được gần gũi gia đ́nh hạnh phúc,
là chuyện quá tầm tay. Đ̣i hỏi bức bách bây giờ
là miếng ăn. Một đ̣i hỏi tầm thường
của con vật. Thế nhưng không dễ ǵ được
thỏa măn. Đêm nằm trăn trở, chỉ mơ
tưởng miếng ăn hèn mọn. Củ sắn, hạt
ngô bỗng to lên, chiếm hết những khoản t́nh cảm
dành cho vợ con, đẩy lùi hết những mơ mộng
viễn vông.
Khẩu hiệu tự do ấm no hạnh phúc, xem chừng
đơn giản. Nhưng muốn vươn tới, không
dễ. Bởi khống chế giam cầm, những nghèo
đói kinh niên, những trù dập răn đe, đi
ngược chiều khẩu hiệu.
Giữa thời kinh mang
Người nằm trong đất không
yên
Phá mả t́m vàng
Cạy nắp áo quan
Huyệt sâu chấn động hồn
thiên cổ
Gỗ đá c̣n đau nhức thấu
xương.
Người chết đă thế. Người
đang sống vật vờ mà mong b́nh yên hạnh phúc, là
điều hư tưởng.
Cuối thập niên bảy mươi, cả nước
lâm vào t́nh trạng kiệt quệ. Hội Lương Nông
quốc tế ồ ạt tuôn bột ḿ vào nước ta cứu
đói. Bột ḿ được phân phối lên tận miền
cao. Người dân sơn cước không quen ăn thứ
bột xa lạ này, nên điều đ́nh với trại
tù đổi lấy sắn ngô. Chuyện trao đổi,
người khác quyết định, nhưng tù nhân lại
ăn bột ḿ. Phẩm càng cao, lượng càng ít. Tù
đói ră ruột. Đói lờ đờ trắng mắt.
Đói chóng mặt xiêu xiêu. Buổi sáng, trước khi lên rừng,
được một cục bột luộc bằng nắm
tay. Buổi chiều về, được ổ bánh ḿ
nướng dài cỡ gang tay. Ăn một lượng bột
như thế với nước mối, mà phải ra sức
"chém tre đẳn gỗ trên ngàn", th́ linh hồn nào
cũng muốn ruồng bỏ xác thân.
Sương sớm c̣n âm u, đoàn tù đă có mặt
trên vùng khai hoang. Đồi núi chập chùng. Rừng già heo
hút. Tưởng như từ thời khai thiên lập địa
chưa có chân người đi tới. Muỗi đói, vắt
rừng làm tổ. Quơ ngọn dao lay động lá cành.
Muỗi bay ra như bầy ong vỡ tổ. Muỗi cánh bông,
hung dữ lạ thường, ào ạt tấn công.
Nhưng muỗi cũng chưa đáng sợ bằng vắt.
Vắt áp dụng chiến thuật du kích. Âm thầm len lỏi,
đánh giá bất ngờ. Khi phát hiện được vắt,
ta đă bị tổn thất rồi. Chỗ vắt bám,
máu cứ ri rỉ cả ngày.
C̣n một loài ác ôn nữa, vô cùng độc địa.
Loài này không nhiều, nên ít ai nói tới. Đó là ve chó, là nách và háng. Người
bị ve chó, cảm thấy sốt nhẹ và hơi đau
nơi vết thương. Cởi áo ra xem. Một vùng da ửng
đỏ. Trung tâm vùng đỏ, con ve vẫn c̣n bám như
một hạt đậu đen, rúc sâu vào da thịt. Không
biết nó bám đă mấy ngày rồi. Hấp tấp lôi nó
ra, th́ đầu và chân nó d́nh lại trong thịt. Nơi ấy
sẽ làm độc thành ghẻ. Phương pháp hiệu
nghiệm nhất để trục toàn thân tên cố lỳ,
đùng đầu điếu thuốc nóng hơ vào đít
nó. Chiến thuật hỏa công buộc con ve chó rời
nơi tử thủ, bỏ lại cái hố tṛn bằng
đầu đũa, tươm máu. Vết thương ngứa
ngáy cả tháng trời chưa khỏi.
Công cuộc khai quang được áp dụng theo chiến
thuật đánh bao vây, từ nhiều mặt đánh vào.
Các trại huy động tù nhân phá rừng, tiến dần
về tâm điểm. Khi tù nhân các trại giáp mặt nhau,
là lúc cả một vùng rừng già tre nứa mênh mông nằm
rạp xuống. Có những người tù nh́n thấy bạn
cùng đơn vị ngày xưa. Trong hoàn cảnh khốc liệt
này, một cái vẫy tay chào cũng đủ nói lên trăm
điều cay đắng.
Cây rừng ngả xuống, vài ngày sau lá sẽ khô.
Châm một mồi lửa, tất cả cháy thiêu. Lửa
cháy suốt đêm, không người canh giữ. Đất
nước là của chung, nếu lửa cháy lan ra ngoài khu vực
khai quang gây nên nạn cháy rừng, ai nhận lấy trách nhiệm?
Nửa khuya, đứng từ nhà kho hợp tác xă nh́n
lên, mịt mù không thấy dáng núi. Chỉ thấy lửa
cháy trên cao. Như lửa trời cháy giữa thinh không. Sau một
đêm, vùng rừng thiêng tồn tại cả ngàn năm bị
hủy ra tro. Người với đất chung niềm
đau nhức. Đất lặng thinh phơi băi tro tàn.
Tù nhân khai hoang phá rừng dọn đất, nhưng
không có lệnh chỉ định trồng bạch đàn.
Nhân viên lâm nghiệp toàn là phụ nữ độc thân. Bởi
những đàn ông trai tráng đă hiến ḿnh cho Đảng,
vào Nam làm cuộc cách mạng thần kỳ bằng
xương máu. Cách mạng thành công, nhưng họ không bao
giờ về nữa. T́nh trạng trai thiếu gái thừa,
phụ nữ phải đảm trách những việc nặng
nhọc trên các công nông trường. Cán cân nam nữ chênh lệch,
gây nên lắm chuyện cười ra nước mắt. Phụ
nữ lâm nghiệp đă từng đệ đơn kêu
gào lên thủ tướng chính phủ, xin cung cấp đàn
ông. Mục đích để có đứa con chăm sóc cho
ḿnh lúc tuổi về già bóng xế. Và đàn ông phục vụ
tập thể các cô trong trường hợp này, không theo
cái nghĩa người chồng ân ái với vợ, mà phải
hiểu như con nọc làm bổn phận nhảy đực
truyền giống cho con nái sinh đẻ.
Bao giờ cây con bạch đàn sẽ trồng xuống
vùng đất khai hoang? Hiện nay, các công tŕnh thường
hay bỏ dở nửa chừng. Chỉ cần một ư kiến
thay đổi nào đó, toàn bộ kế hoạch trồng
bạch đàn sẽ hủy bỏ. Trên xứ sở này,
chuyện vô lư nào mà không thể xảy ra? Nghe nói (lại
nghe nói), vật liệu từ Thụy Điển đem
sang nước ta để xây nhà máy giấy, bị mất
quá nhiều do nạn ăn cắp. Thụy Điển
đă đơn phương hủy bỏ hợp đồng
rồi. Không có nhà máy giấy, trồng bạch đàn làm ǵ?
Lệnh khai hoang, trở thành lệnh phá rừng vô tội vạ.
Ngày đoàn tù vượt đèo về trại cũ,
nhằm ngày Chúa giáng sinh. Trời đổ mưa phùn.
Mưa lất phất lai phai, trắng cả núi rừng.
Lao đao trên đèo trơn dốc ngược, lại nghĩ
đến cây thập giá trên vai Chúa. Ngài xuống đời
gánh vác tội lỗi cho loài người. Chúng tôi
gánh vác tội lỗi cho ai, mà cũng muôn vàn khổ nạn?
Lâm Chương
(Sưu Tầm
Liên Mạng chuyển)