Áo Dài và Tết ở xứ
người
(Trần Thu Miên)
Tết đang
đến và con gái tôi sắp sửa mười
lăm tuổi. Gần đây con hỏi, “Khi
nào bố dẫn con đi may áo dài ?”.
Câu hỏi ngắn gọn đơn sơ ấy
như cơn gió mát thổi qua lòng người
xa xứ. Thủa mười lăm, mỗi độ Tết
về tôi đâu có xin bố mẹ mình
mua giầy mới, hay quần áo mới. Bởi
vì có xin cũng không được. Nhà
nghèo lại đông anh em, bố mẹ tôi
làm gì có tiền để may sắm cho hết
mọi đứa con một lần.
Ðã nhiều
lần tôi hỏi vợ, “Khi nào mình dẫn
con gái may áo dài ?”. Dĩ nhiên là
vợ tôi muốn con gái mặc áo dài
trong những ngày đại lễ. Lúc chúng
tôi còn ở Cali, may áo dài là việc
rất dễ làm nhưng con gái còn bé.
Bây giờ con đang trở thành thiếu nữ
và cũng đến lúc mang áo dài cho ra
vẻ con gái Việt Nam, nhưng nơi chúng
tôi đang sinh sống, tìm ra chỗ may áo
dài không phải là việc dễ làm. Vợ
giao trách nhiệm cho tôi đi “lùng”
chỗ may áo dài cho con gái. Tôi nghĩ ngay
đến các chị trong ca đoàn nhà thờ.
Những ngày đại lễ, chị nào cũng
diện áo dài đẹp, thế nào họ cũng
biết chỗ may. Sau lễ Chủ Nhật, tôi
lên chỗ ca đoàn, lâu quá rồi
không lên chỗ ca đoàn đứng nên
hơi “nhột.” Ngày xưa còn sinh
viên độc thân, tôi và mấy đứa
bạn vẫn thường hiên ngang lên đứng
chung hay sau lưng ca đoàn để “chọc
gái”. Lì đến độ ca trưởng
và nam ca viên phải hết năn nỉ rồi dọa
nạt, chúng tôi vẫn léng phéng đến
“tán tỉnh” các em. Bây giờ nhiều
ca đoàn trong các cộng đồng công
giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ không còn
“các em” nữa, nhưng phần lớn
là các “mẹ” trung niên hay các chị
đã lớn lắm rồi. Tôi hỏi một chị
đứng đầu hàng ghế:
- “Chị biết
chỗ nào may áo dài không ?”
- “May cho ai vậy ?”
- “Con gái tôi.”
- “Bây giờ không ai làm
nghề may áo dài nữa, vừa tốn giờ
mà chẳng được bao nhiêu tiền. Ði
làm “nêu” (nails) nhiều tiền
hơn.”
- “Thế chị may áo ở
đâu ?”
- “Việt Nam !”
Tôi hơi nản. Chắc các chị
trong ca đoàn đã rủ nhau về Việt Nam
may áo nên trông áo ai cũng na ná
như nhau. Nhất định không bỏ dở dang
“công trình” điều nghiên về
nơi may áo dài trong vùng này, tôi tiếp
tục “thu thập” dữ kiện. Hỏi
tùm lum, hỏi không ngại là bí quyết
điều nghiên hay nhất. Cuối cùng tôi
tìm ra được một chị vẫn còn
yêu nghề may vá trong một tiệm bán tạp
hóa từ băng nhạc đến dầu cạo
gió xanh. Phải đưa con gái đến tiệm
ngay, nhỡ chị lại bỏ nghề đi làm
“nêu” thì phiền lắm. Về Việt
Nam hay sang Cali may chiếc áo dài là việc
không tưởng.
Ðứng trong tiệm nhìn con chọn
vải may áo rồi tưởng tượng về
tương lai của con. Không biết mai này ra sao
? Chiếc áo dài không đủ làm con trở
thành cô gái Việt Nam. Mình không
có quyền bắt con mình trở thành người
Việt Nam. Quê hương của mình là Việt
Nam nhưng nơi chôn nhau cắt rốn của con
mình là Hoa Kỳ. Con mình được
nuôi dưỡng bằng huyền thọai và lịch
sử Hoa Kỳ chứ không như mình lớn
lên bằng những giấc mơ Quang Trung, bằng huyền
sử Hùng Vương và niềm kiêu
hãnh của Trần Hưng Ðạo, của Lê Lợi.
Nhưng dù sao, nó vẫn có một phần gốc
rễ Việt Nam bằng di truyền văn hóa - di
truyền nhân chủng. Nỗi lo âu của
mình cũng là nỗi lo âu của hàng triệu
người di dân tha hương khắp trên địa
cầu này. Mình tha hương nhưng con mình đâu
có tha hương. Nó
sinh ra và lớn lên ở quê hương
này làm sao mình bắt nó phải “nhận”
quê hương cũ của mình là quê
hương của nó được. Vả lại
chính trong trái tim mình quê hương cũ
của mình cũng đang lu mờ. Nói vậy
có nhiều người “yêu nước” ảo
tưởng lại kết tội mình là vong
thân vong bản, nhưng sự thật vẫn là sự
thật. Cả ngàn năm nay những người di
dân như mình khi trở lại quê cũ đều
mang cảm giác “khách lạ” ngay trên
quê hương cũ của mình. Ðúng
là xa mặt cách lòng. Bây giờ mình
muốn làm người Việt Nam thật sự,
mình phải trở lại quê nhà học sống
như người Việt Nam. Những Việt Kiều
như mình có nhớ thương quê nhà
cách mấy vẫn mang con tim khách lạ khi về
thăm quê nhà rồi lại vội vã ra
đi.
Sự gắn bó của mình với
quê hương cũ bây giờ là sự gắn
bó linh thiêng. Mình cũng chỉ mong là con
mình cũng có được sự gắn
bó linh thiêng với tổ tiên của bố mẹ
nó ở một nơi gọi là Việt Nam,
nơi con mình biết đến vì học lịch
sử hay địa lý và kỷ niệm của
những chuyến đi xa ngắn ngủi theo bố mẹ
về Việt Nam; nơi thiếu nữ còn mặc
áo dài đi học và phụ nữ còn
mặc áo dài đi lễ hội. Biết
đâu khi mang chiếc áo dài trên
mình, sự liên hệ linh thiêng với Việt
Nam sẽ dần dà nẩy nở trong trái tim con. Biết
đâu khi mặc áo dài, niềm hãnh diện
về nguồn gốc của con mình sẽ được
cưu mang. Biết đâu khi mặc áo dài, dấu
ấn Việt nam sẽ nhẹ nhàng in vết lên
tâm hồn con.
- “Cháu đừng chọn
màu này, già quá, không hợp với
tuổi cháu đâu.”
Giọng nói của cô thợ nay
làm những suy nghĩ mông lung của tôi bị
cắt đoạn. Cái giọng Sài Gòn nghe nhẹ
nhàng và ngòn ngọt như trái
“Chôm Chôm” ướt mọng làm
mình tò mò xem con gái mình chọn
màu áo ra sao.
- “Cô nói đúng đấy,
con chọn màu khác đi.” Tôi
nói theo cô thợ may.
- “Nhưng không có màu con
thích.” Con gái tôi phát biểu ý của
nó. Bây giờ con sắp 15 và đang tập
tành làm người lớn nên bắt đầu
để lộ ra những cá tính riêng
và ý nghĩ độc lập.
-“Con thích mặc màu vàng
không ?”
Cô thợ may vừa nói vừa
kéo xấp vải màu vàng ra. Con gái
tôi lắc đầu. Nó đâu có bao giờ
đọc được thơ Nguyên Sa “Áo
nàng vàng anh về yêu hoa cúc” như bố
mẹ nó mà thích áo dài vàng. Hay
làm sao cảm được thơ Phạm Thiên
Thư “Mùa xuân em mặc áo da trời”
để mà yêu áo dài xanh. Tiệm may
này nhỏ nên ít mặt hàng. Cô thợ
may chỉ có một số vải thích hợp cho
thế hệ phụ nữ Việt Kiều khác chứ
không hợp nhãn mấy cháu gái người
Mỹ gốc Việt như con gái tôi. Tôi nghĩ
thầm, “Chọn đại một màu đi con,
mẹ có trách cũng muộn. Chờ lần sau
may áo khác. Sắp Tết rồi, may cho kịp mặc
áo đi lễ Tết.” Nghĩ thế nhưng
không dám nói. Tôi vẫn vui mừng
kiên nhẫn chờ con đắn đo trước khi
lựa chọn. Cuối cùng thì con chọn
được một mẫu vải.
- “Con không thích mấy,
nhưng không có màu khác.” Con tôi
nhìn tôi giải thích.
- “Không sao ! Cứ may đi, mai kia
có dịp con chọn màu khác.”
- “Màu này không tươi
trẻ, nhưng không quá già.” Cô thợ
may tỏ ra đồng ý với sự lựa chọn
của con gái tôi.
- “Khi nào xong cô ?”
-“Cho em hai tuần !’
- “Lâu thế !”
- “Không đâu ! Hôm nay em
đo rồi cắt áo cho cháu, tuần tới
“bác,” xin lỗi, “anh” đưa
cháu lại thử trước khi em may thành
áo.”
- “Phiền thế ?”
- “Làm vậy cho chắc
ăn.”
Nói thế, nhưng có phải
đưa con gái lại đây mười lần
để thử áo dài tôi vẫn đưa
một cách vui vẻ hân hoan. Như thế là
con gái tôi sẽ có áo dài. Ngày
con còn bé, vợ tôi mua áo dài cho con mặc
vài lần. Nhưng đó là quyết định
của mẹ. Bây giờ thì khác. Chính
con đã đi chọn màu vải để may
chiếc áo dài lần đầu trong đời
mình. Có lẽ bố xôn xao chờ áo may
xong hơn là con. Chiếc áo dài không
làm con trở thành thiếu nữ Việt Nam thuần
túy, nhưng bố tin là khi con mặc áo
dài, cái “hồn” Việt Nam từ trái
tim bố mẹ sẽ được in dấu lên
tâm hồn lên trái tim của con. Sự
hãnh diện về nguồn gốc mình là
hành trang tâm linh để con vào đời
trong xã hội đa chủng Hoa Kỳ và thế
giới mở rộng ngày nay.
Chờ con mặc áo dài đi lễ
Tết, nhưng lòng mình không thấy Tết,
không nhớ, không đợi tết. Thời mới
viễn hương, có lần tôi nói với
người bạn thân, “Linh hồn Việt Nam sẽ
bị tẩy khỏi tâm thức mình một
ngày nào đó khi mình suy nghĩ bằng
ngôn ngữ của xứ người.” Câu
nói vớ vẩn của mình thời trẻ
là lời tiên tri cho chính thân phận
mình. Cũng may mỗi lần ngồi viết
lách lăng nhăng bằng ngôn ngữ mẹ
đẻ mình vẫn còn gắn bó với
quê cũ bằng sợi dây linh thiêng và
còn suy nghĩ bằng ngôn ngữ mẹ đẻ
mặc dù cách mình viết lách
đã lai căng lâu rồi. Cái hiểm họa
mất gốc đang xảy ra cho chính mình. Bây
giờ Tết không còn là ngày linh
thiêng hay quan trọng trong đời sống người
viễn hương nữa. Ở chợ búa Việt
Nam nơi tôi đang cư ngụ, người ta cũng
bầy bánh, kẹo, mứt, hạt dưa và nhiều
món hàng ngày Tết, nhưng chúng
không gợi cho mình cảm giác về Tết.
Cách đây hơn ba mươi
năm, tôi ăn Tết tha hương lần đầu
với khoảng hai chục đồng hương ở
Biloxi, Mississippi. Người đứng ra tổ chức
là Anh Sơn. Gia đình anh có bốn cha con. Bố
anh để lại vợ ở quê nhà còn
chính anh Sơn, theo lời anh kể, cũng để
lại Sài Gòn hai cô vợ. Hai người em
của anh một người trạc tuổi tôi
và một đứa khoảng mười tuổi. Bốn
cha con anh ở trong căn nhà do một nhà thờ
bảo trợ nên rộng rãi khang trang. Và
có lẽ nhà chỉ toàn phái nam nên dễ
tổ chức họp mặt. Ðồng hương
có gia đình đã mang theo các món
ăn họ có thể làm được trong
điều kiện rất eo hẹo, nhất là
không có chợ thực phẩm Á Châu.
Có người đã sang New Orleans tìm mua thức
ăn Á Châu, hay nhờ bà con ở những
nơi có đông người Á Châu gửi
những gia vị để làm chả giò, hay các
món quen thuộc khác. Tết đầu tiên của
tôi ở Biloxi không có bánh chưng - bánh
tét. Không có mứt - không có hạt
dưa. Nhưng mọi người đã mừng rỡ
gặp nhau. Có người mang biếu gia đình
anh Sơn chai nước mắm của Phi như món
quà Tết quí nhất. Một vị đàn
anh, cựu sỹ quan Hải Quân thì phải, vỗ
vai tôi thân thiện, “Chú mày phải
nhớ là nước mắm còn là văn
hóa Việt mình còn đấy.” Không
ngờ nước mắm lại được
đánh giá ngang hàng với “Truyện Kiều.”
Tôi nghĩ thầm vị đàn anh nói giỡn,
nhưng nghe cũng có lý vì văn hóa bao
gồm mọi mặt đời sống con người, từ
thực phẩm đến tâm linh. Bà con bàn về
các món Tết họ có thể làm dễ
dàng nhưng thiếu gia vị, thiếu các
“thực liệu” cần thiết nên
đành bó tay. Họ hứa là Tết sang
năm phải có bánh chưng. Anh Sơn mang theo
được mấy băng nhạc Việt Nam trên
đường di tản và anh đã tổ chức
khiêu vũ trong phòng khách - phòng ăn. Các
vị cựu quan quyền, các chị lấy chồng
Mỹ, và các vị dân thành phố quen
khiêu vũ, đã dìu nhau khiêu vũ say
mê. Tôi xuất thân từ ruộng đồng,
lại được ăn học với các vị
khổ tu Châu Sơn nên chân tay cứng ngắc
đành đứng góc nhà nhìn thiên
hạ nhấc chân, nghiêng người, lắc
mông, xoay vai theo các điệu nhạc từ tỉ
tê nát ruột đến dập dồn vó ngựa.
Trong một hai người “đứng
bên lề” có cô gái tên Vân khoảng
mười tám mười chín. Cô được
các vị độc thân từ loại bất
đắc dĩ đến độc thân
“chân chính” như tôi để
ý. Tất cả quí vị nam nhi trong phòng
đều chìa tay mời cô nhảy, chỉ
có tôi là không. Không phải là
không thích, nhưng không biết khiêu vũ.
Có vài chị lấy chồng Mỹ thuộc loại
khiêu vũ chuyên nghiệp đã lôi
tôi ra nhảy với họ. Tôi bị đẩy
vào thế kẹt nên cũng rung mông,
đá chân tùm lum theo điệu nhạc. Mọi
người ăn tết vui vẻ. Lúc mọi người
ngồi xả hơi sau khi khiêu vũ, vị cựu sỹ
quan Hải Quân đề nghị làm văn nghệ
bỏ túi cho vui. Nhà anh Sơn có cây
đàn Ghi-ta nhà thờ cho đứa em của anh
và anh đã mang ra kêu gọi mọi người
ca hát. Anh Sơn thuộc loại tài hoa (thảo
nào có đến hai cô vợ trẻ còn
kẹt lại Sài Gòn), đã đệm
đàn cho mọi người hát mấy bản
nhạc mừng xuân. Tôi bị vị đàn
anh “ca ngợi” nước mắm chỉ mặt bảo
hát một bài cho vui. Chưa kịp trả lời
mọi người đã vỗ tay tán thưởng
ý kiến ấy. Dĩ nhiên là tôi
hát không cần phải mời, dù tôi thuộc
loại người chơi đàn không bao giờ
đúng nhịp và hát luôn luôn sai
cung. Tôi đã hát bài “Làng
Tôi,” hát say sưa, hát rơi nước
mắt. Có nhiều người cũng hát theo
tôi và cũng khóc theo tôi dù chưa chắc
họ đã sống ở làng quê
“Có cây đa cao ngất từng xanh” hay
“Có sông sâu lờ lững vờn
quanh.” Tôi tin rằng cái Tết đầu
tiên của dân Việt tha hương tại Hoa Kỳ
hay bất cứ nơi nào trên mặt đất
đã có nhiều người khóc và cũng
có nhiều người hát bài nhạc ấy.
Nhờ hát bài trúng tâm trạng mà
mình đã gây được thiện cảm
với mọi người. Lúc ra về, tôi
được một bác gái gói cho một
gói những món ăn còn dư để mang
về. Sướng quá. Tôi nhận không ngại
ngùng. Về nhà lại được ăn chả
giò, giò thủ và dưa cải. Sướng
hơn nữa là cô Vân đã đến
nói nhỏ với tôi “Anh hát hay quá
làm Vân khóc hết nước mắt.” Tôi
cảm ơn Vân. Ra về sau tiệc Tết đầu
tiên thấy lòng vừa mang mang nỗi nhớ
quê nhà vừa lâng lâng cảm giác
lưu luyến đồng hương.
Có lẽ Tết năm 1976 ở
Biloxi là cái Tết tha hương có ý
nghĩa nhất đối với tôi. Lúc ấy
người Việt tha hương còn “yêu mến
nhau”. Gặp nhau tay bắt mặt mừng. Ai cũng
còn nghèo giống nhau, ai cũng còn nhớ
nhà giống nhau. Sau này tôi vẫn nói với
bạn bè đó là “thuở người
Việt tha hương còn yêu mến nhau còn cần
nhau”; mỗi lần gặp nhau là mỗi lần gặp
được niềm vui lớn. Bây giờ mỗi lần
người Việt tụ họp là mỗi lần
có nhiều vấn đề nhiêu khê căng
thẳng từ lễ Tết ở nhà thờ nhà
chùa đến các hội chợ trong các cộng
đoàn. Thật ra thì đó cũng là
điều tự nhiên. Cộng đồng người
Việt đã trưởng thành trên mọi
hình thức nên có nhiều “tiếng
nói,” có nhiều “ý thức hệ,”
và có nhiều “chính kiến”
khác nhau.
Còn hai tuần nữa Tết. Tôi
đang có mặt tại New Orleans, thành phố
đã cho tôi nhiều dấu ấn kỷ niệm.
Con đường Bourbon, nơi 33 năm trước, nhiều
đêm cuối tuần tôi và một người
bạn đã lái xe từ Ocean Springs sang để
rảo bộ trên đường không có mục
đích gì cả. Không vào quán rượu
nghe Jazz hay xem vũ khỏa thân vì không có
tiền. Chúng tôi chỉ muốn trốn chạy sự
cô độc của người di dân còn lạ
lẫm với đời sống chung quanh. Tiếng nhạc
Jazz, tiếng cười, tiếng la hét của
khách du chơi dưới ánh đèn
đêm rực rỡ tạo nên một không
khí buông thả trụy lạc lôi cuốn. Ðã
có đêm chúng tôi cứ rảo bộ từ
đầu đường đến cuối rồi
đi vòng lại tới khuya rồi tình cờ gặp
vài di dân Việt Nam sống trong thành phố
cũng lang thang vô định cho “hết
đêm hoang vu” cô độc và những
người đồng cảnh ngộ này đã
rủ chúng tôi về phòng trọ uống bia
rồi nằm ngủ co ro trên nền phòng trọ
và buổi sáng chúng tôi chia tay hẹn
găp lại nhau trên phố Bourbon những đêm
cuối tuần cô độc.
New Orleans bây giờ
đã đổi thay. Trận bão Katrina hằn
lên khuôn mặt thành phố những tàn
phá chưa sửa chữa xong sau ba năm ròng
rã. Cộng đồng
di dân Việt Nam ở đây cũng đã
thay đổi hoàn toàn so với hơn ba
mươi năm trước. Vùng này đã
bị trận bão Katrina tàn phá nặng nhất
so với những khu vực khác thuộc New Orleans. Di
dân Việt Nam đã định cư tại khu vực
này từ giữa thập niên bảy mươi.
Khu phố Việt Nam nằm sát quốc lộ 90 hay
còn gọi là xa lộ Ðầu Bếp Menteur. Thời
đó người Việt sống xen lẫn với
các dân da màu nhất là da đen trong chung
cư có tên Versailles. Dạo ấy chưa có
tiệm ăn Việt Nam, một số đồng
hương đã bán thức ăn Việt ngay
trong phòng khách nhà mình để kiếm
thêm tiền vào cuối tuần. Có nhiều
sáng thứ bảy hay chủ nhật, tôi
đã từ Ocean Springs, Mississippi mò mẫm đến
những nơi ấy để ăn phở, ăn
bún, hay bánh ướt. Tối qua tôi gặp
ba người trẻ Việt Nam, Minh, John Nguyễn và
Vy Minh, mới xong Ðại Học ngành Thị Trường
Học, nhưng lại đam mê phục vụ cộng
đồng. Anh đang quản trị một trung tâm
phục vụ giới trẻ nằm ngay trong trung tâm cộng
đồng Việt Nam miền Ðông của New Orleans.
John đang học năm cuối ngành Á Châu học
tại UCLA và tình nguyện sang đây phục
vụ đồng bào Việt Nam qua chương
trình hồi phục cộng đồng hậu Katrina.
Cuối hè tới John sẽ trở lại Cali để
hoàn tất chương trình cử nhân rồi
sửa soạn nộp đơn theo cao học ngành
Nhân Xã Vụ Học (Social Work) hay một
ngành khác. Tôi gợi ý cho John là sẽ
tìm cách giúp đỡ để John theo học
tai Boston College, nơi tôi đang làm việc. Cả
Minh và John đều hăng say và lý tưởng.
Tôi nhìn thấy trong mắt họ sáng lên
những hy vọng và nhiệt tâm của tuổi
thanh niên. Trái tim họ đầy ắp những
giấc mơ đẹp, giấc mơ phục vụ
và làm đẹp cuộc đời. Vy đang chuẩn
bị trình luận án Tiến Sĩ Xã Hội
Học tại Ðại Học Tulane, một đại học
tư nằm ngay trong thành phố New Orleans. Vy muốn
trình luận án về cộng đồng di
dân Việt Nam tại New Orleans và vùng vịnh
Gulf Coast của Mississippi. Trong ba người này, Vy
có vẻ kín đáo và ít nói.
Có lẽ cô đã lớn và trưởng
thành hơn hai người kia. Cả ba đều
không nói được tiếng Việt xuôi
chảy, nhưng qua công việc và những dự
tính tương lai, cả ba đều đang
tìm lại với cái gốc Việt Nam của
mình. Tôi mong cho con gái mình sau này
có tâm hồn như ba người bạn trẻ
nàỵ Tôi cũng gặp một người trẻ
Việt nam rất tài hoa. Cô ta sinh ra và lớn
lên sau cuộc chiến tại Việt Nam. Người
bạn trẻ này đang sửa soạn trình luận
án Tiến Sĩ Nhân Xã Vụ Học tại
Ðại Học danh tiếng Chicago. Có lẽ
đây là lần đầu tiên một người
Việt Nam “chính gốc” theo học tiến sĩ
về ngành này tại Hoa Kỳ. Cô ta còn
là một nhà văn đã có tác phẩm
được giải thưởng văn học tại
Việt Nam. Tôi hân hạnh được cô tặng
cho tiểu thuyết đầu tay của mình.
Sáng thứ bảy, tôi một
mình lái xe từ New Orleans sang Biloxi để
ghé thăm thầy Thích Thiện Trí, một
nhà sư trẻ tôi có duyên gặp gỡ
ba năm trước trong một chuyến “tham
quan” sửa soạn cho một dự án nghiên
cứu cộng đồng Việt Nam tại vùng
này. Nhà sư trẻ dáng người nhỏ
bé, hai mắt sáng, giọng miền Nam nhỏ nhẹ,
và nụ cười rất kín đáo. Vị
sư trẻ này làm thơ lục bát rất
hay. Ông gửi tặng tôi vài bài thơ
trong đó có một bài về xuân
và tôi đã cho anh bạn tôi - (Nhất
Chi Vũ - một nhạc sỹ thánh ca) - đọc
và anh đã soạn thành một ca khúc rất
công phu. Thầy Thiện Trí xưng tên
mình và gọi tôi bằng chú. Lần
nào gặp nhau thầy cũng chắp tay “Mô
Phật” mỉm cười hiền lành chào
tôi. Và tôi cũng bắt chước thầy
làm như thế. Thầy trụ ở chùa Vạn
Ðức lúc trận bão Katrina tàn phá cả
vùng vịnh này. Lần đầu tôi gặp
thầy, chùa đang được sửa sang. Càng
ngày Chùa càng khang trang và ngăn nắp
hơn. Tôi cũng hẹn đưa Vy đến gặp
thầy để xin thầy hỗ trợ cho công
trình tìm dữ kiện trong cộng đồng Việt
Nam tại Biloxi để cô hoàn thành luận
án tiến sĩ. Khi tôi dẫn Vy vào
chùa, sân chùa ngập nắng vàng, và
mùi nhang từ chính điện tỏa ra nhẹ
nhàng rồi tan ngay vào gió biển. Chùa nằm
không xa bờ vịnh nên thầy Thiện Trí
kể khi nước biển đã dâng lên gần
ngập nóc chùa trong trận bão Katrina, thầy
và một số tín đồ đã ngồi
trên nóc chùa niệm Thần Chú chờ chết,
may quá, mọi người đã được
cứu kịp thời.
Chúng tôi vào chùa, thầy
Thiện Trí đang ngồi làm việc với ba
tín đồ để sửa soạn cho lễ Tết
sắp đến. Thầy vui vẻ đứng lên
“Mô Phật” chào tôi và thầy
tưởng Vy là con gái tôi nên cũng niềm
nở đón tiếp. Chúng tôi ngồi uống
trà trong phòng tiếp khách mới xây xong
ngay sau Chính Ðiện. Tôi hỏi thăm thầy
Thiện Trí về một nhà sư trẻ
khác, thầy Ðức Thành, người mà
một sáng sớm hè năm ngoái tôi
ghé chùa gặp ngay lúc thầy Ðức
Thành đang ngồi tụng kinh một mình
trước bàn thờ Phật. Thầy mặc
áo choàng màu nâu, cúi đầu
trước pho kinh lớn, vừa gõ chuông vừa
lẩm bẩm ngân nga những bài kệ nghe rất
huyền bí. Hình ảnh thầy Ðức
Thành tụng kinh sáng đã để lại
một ấn tượng rất đẹp và
bình an trong trí nhớ tôi. Thầy Thiện
Trí bảo thầy Ðức Thành đang trên
đường “du đạo”. Thầy đang
có mặt bên Pháp rồi sẽ sang Ấn
Ðộ. Chúng tôi ngồi uống trà
“Thiết Quan Âm” một Phật Tử mới
biếu thầy. Trà ngon và thơm tinh khiết.
- “Tiếc quá, chú không
ở lại chùa ăn Tết năm nay”. Thầy
Thiện Trí vừa nói vừa rót thêm
trà nóng cho tôi.
- “Nếu thầy còn trụ
chùa này lâu, thế nào cũng có dịp
tôi đưa vợ con về đây ăn tết
với chùa”. Tôi vừa trả lời vừa
nâng ly trà thầy mới rót lên môi.
- “Mời cháu Vy đến lễ
Tết ở chùa nhé !” Nhà sư trẻ
gọi thiếu nữ không thua ông bao nhiêu tuổi
bằng cháu một cách dễ dàng.
Vy hình như không hiểu hết
câu nói tiếng Việt của nhà sư, quay
nhìn tôi.
- “Thầy mời Vy lên chùa
lễ Tết !” Tôi thông dịch cho cô sinh
viên đang tìm cách trở về với
cái gốc Việt Nam của mình.
- “Thưa con sẽ !” Cô
gái Mỹ gốc Việt bập bẹ câu trả
lời bằng tiếng mẹ đẻ.
- “Cháu nên đi chùa
thường xuyên mà học tiếng Việt.”
Tôi nói với Vy bằng Anh ngữ.
Chúng tôi chia tay nhà sư trẻ
sau vài tuần trà trong chùa. Nắng tháng
Giêng vàng lạnh ngoài sân chùa. Trời
trong, xanh và cao vời vợi. Ra khỏi sân chùa
tôi đi theo xa lộ 90 West để tẽ lên xa
Lộ 10 West về lại New Orleans. Con đường
tôi vẫn đi qua hơn ba mươi ba năm trước
nay đã đổi thay hoàn toàn. Những
xưởng đóng hộp tôm, nơi mùa
hè 1976, tôi đã làm việc suốt
ngày từ 3 giờ sáng đến khuya nay
đã được thay thế bằng những
sòng bài và khách sạn lớn. Tôi
có cảm giác như người đi lạc
ngay trên con đường quen thuộc.
Chiều thứ bảy, đường
vắng thênh thang. Vào xa lộ 10, tôi cho xe lao
theo tốc độ qui định để về
Khách Sạn trước khi trời đổ tối.
Mùa đông trời tối sớm. Xa lộ chạy
xuyên giữa hai hàng thông xanh. Ngày xưa,
lần nào đi trên xa lộ này tôi cũng
nhớ về Ðà Lạt. Bây giờ nỗi nhớ
thương ấy không còn nữa cũng như
nhiều nỗi nhớ thương khác đã bị
chôn vùi trong những nấm mồ ký ức.
Về đến phố chính của
New Orleans trời nhá nhem tối. Cho xe vào bến
đậu của khách sạn rồi lên
phòng nằm nghỉ. Có vài đồng nghiệp
hẹn đi ăn tối, nhưng tôi từ chối
vì muốn có thì giờ một mình
đi lại con đường Bourbon. Vừa nằm nghỉ
vài phút, điện thoại réo. Người
ở đầu giây là Tim (Timothy), một sinh
viên cũ của tôi, hiện nay đang dạy tại
Ðại Học Montana. Tim chỉ thua tôi hai tuổi
nên tôi coi anh như một người bạn chứ
không phải là học trò cũ. Lần
nào đi tham dự các hội nghị trong ngành
Tim cũng tìm cách liên lạc với tôi.
- “Trần, anh làm gì
sáng maỉ” Tim hỏi.
- “Ði lễ !” Tôi trả
lời không ngần ngừ.
- "Ở đâu ?”
- “Một nhà thờ Việt Nam
ở phía đông New Orleans.”
Tim là người công giáo
và cũng là nhạc sỹ thánh ca. Anh
đã sáng tác một số ca khúc
tâm linh và thỉnh thoảng lại gửi e-mail
cho tôi sáng tác mới của anh. Tim chơi
đàn ghi-ta 12 dây rất điệu nghệ
và có giọng hát ấm áp truyền cảm.
Thời anh còn học lớp tôi, đã
có lần tôi đưa anh đến hát cho một
khóa tĩnh tâm của một số bạn trẻ
công giáo Việt Nam trong vùng.
- "Tôi đi theo được
không ?"
- "Dĩ nhiên. Sau lễ tôi sẽ
mời anh ăn phở."
- "OK ! Thế là quá đẹp."
Tim trả lời bằng giọng hân hoan.
- "Tôi sẽ chờ anh ở
hành lang phía cổng vào của Khách Sạn
khoảng mười giờ sáng."
- "Anh làm gì trước
đó ?" Tim hỏi.
- "Tôi có bài nói chuyện
từ 8 đến 10 giờ sáng."
- "Tôi sẽ coi tờ chương
trình của hội nghị tìm đến chỗ
anh nói chuyện. Tôi sẽ có mặt khoảng
9:45 sáng"
- "Thế thì tốt, mình gặp
lại sáng mai". Tôi hẹn Tim rồi nằm
dang dài chân tay trên nệm.
Khi giật mình dậy đã thấy
mười giờ tối. Bụng đói nên
tôi quyết đinh ra phố kiếm gì ăn rồi
ghé qua đường Bourbon. Ðịnh ghé
vào tiệm Acme Oyster House trên đường
Iberville trong phố Tây (French Quarter) nơi mùa
hè năm ngoái tôi đã đưa vợ
con vào ăn trong chuyến xuôi nam nghỉ hè. Nhưng
tiệm ăn đông nghẹt và khách phải
xếp hàng dài chờ ngoài đường. Tôi
tạt sang nhà hàng Felix's phía bên kia
đường. Tiệm cũng đông nhưng
còn chỗ ngồi. Khách đứng chen nhau
trước quầy sò sống. Một đĩa 12
con sò sống xấp xỉ hơn 15 đô la.
Tương đối rẻ. Tôi chần chừ
không biết có nên ăn sò sống hay
không. Cuối cùng tôi gọi món súp
rùa và một phần ăn thổ địa của
New Oleans, món Bayou Platter Sampler, gồm đậu đỏ,
cơm trộn xúc xích, và "cháo đồ
biển nấu với lọai tôm thổ sản
(crawfish)". Ngồi uống chai Abita Amber, một loại
beer thổ địa rất nổi tiếng, dễ uống
và có vị ngọt chứ không đắng
như nhiều loại bia khác, tôi chăm chú
nhìn khách ra vào và những người hầu
bàn mặt căng thẳng bưng các món
ăn còn bốc khói ra bàn trong không
khí ồn ào tiếng nói cười và
tiếng nhạc Jazz.
Ba mươi ba năm trước, nếu
tôi có ghé vào tiệm ăn này chắc
tôi đã ngồi một cách rụt rè. Hôm
nay thì khác. Mình ngồi uống bia chờ thức
ăn một cách bình thản, không ngại ai.
Sau bữa ăn tối tôi rảo bộ trên
đường Bourbon, số người la cà
trên đường đã đông nghẹt. Những
tay nhạc sỹ lề đường đứng
trình diễn ngả nghiêng quay cuồng theo tiếng
trống tiếng kèn. Những ban nhạc Jazz nhạc
Rock cũng say mê trình diễn trong các vũ
trường, các bar rượu. Hình các vũ
nữ khỏa thân được phóng lớn
dán kín cửa kính của các phòng
khiêu vũ khỏa thân. Tiếng còi xe cứu
thương, xe cảnh sát, xe chữa lửa cứ
thình thoảng rú lên liên hồi. Bảng
tên các cửa tiệm, nhà hàng, ba rượu,
vũ trường nổi đèn màu đỏ
màu xanh chớp lòe rực rỡ. Không ai
có thể nói chuyện thì thầm với nhau.
Mọi người đều cười to nói to
trên quãng đường này. Càng về
khuya càng có nhiều tay say rượu cười
la nghiêng ngả trên đường. Những tay
chiêu khách trước các vũ trường
khỏa thân tìm mọi cách mời khách
ghé vào xem thử. Ngày mới đến Mỹ
có đôi lần tò mò ghé vào những
vũ trường này, mình đứng rụt
rè phía sau xem vì không có tiền mua
bia và lúc nào cũng sợ như có
người sắp sửa đánh mình bất ngờ.
Bây giờ những tò mò thời thanh niên
không còn nữa. Bất chợt mình nghĩ về
Tết. Những ngày cuối năm lang thang trên
con đường mình đã bước những
bước chân cô độc thời trẻ. Có
những nơi chốn mình đã đi qua tưởng
không bao giờ trở về, và khi quay lại
mình thấy nhiều đổi thay như giòng
đời trôi nổi.
Sáng chủ nhật, mình thức
dậy sớm. Rất muốn xuống phòng thể dục
để vận động chân tay, nhưng khi rời
nhà quên mang theo quần áo thể thao nên
đành đứng vươn vai uốn người
hít đất vài phút trước khi tắm.
Thời trẻ ăn nhậu lung tung nên thân
xác đã tồn trữ bao nhiêu thứ dư
thừa hại sức khỏe. Nay tìm cách vất
bỏ những dư thừa có hại khỏi
thân xác mình quả là điều vô
cùng khó khăn.
Ðêm qua không theo dõi tin
khí tượng nên không biết là
sáng nay trời mưa. Ðứng bên cửa sổ
từ lầu 17 của khách sạn Marirott nằm ngay
trung tâm New Orleans nhìn mưa rơi mù mù
ngang thành phố. Cơn mưa mùa đông miền
nam không lạnh như những cơn mưa tuyết
và mưa băng đá mùa đông Boston. Bất
chợt mình nhớ nắng mùa đông Cali. Nhớ
những lần ăn Tết ở thủ đô di
dân Việt Nam mà vẫn không thấy lòng
mình có hơi ấm mùa xuân. Nhớ mấy
cây đào cây mận nở hoa trong sân
nhà cũ ở Cali những ngày sắp Tết. Mình
có nửa giờ để ăn sáng trước
khi vào phòng họp. Hôm nay là ngày cuối
cùng của hội nghị nên chắc số
người tham dự buổi thảo luận sẽ rất
ít. Không sao. Bây giờ mình đã quen
và rất thích những buổi giảng bài
chỉ có vài sinh viên nên nếu buổi hội
thảo vắng người cũng tốt thôi.
Ít người tham dự, mọi người đều
có cơ hội phát biểu, càng vui. Mà
đúng vậy, buổi hội thảo có vỏn
vẹn mười người và ai cũng hăng
hái tham gia. Tôi và hai đồng nghiệp chịu
trách nhiệm điều hợp buổi hội thảo.
Mỗi người đến từ một trường
Ðại Học khác nhau nên chúng tôi chỉ
có giờ gặp nhau bàn qua về buổi hội
thảo vài phút trước khi bắt đầu.
Một đồng nghiệp chịu trách nhiệm ghi
chép ý kiến bằng laptop có máy rọi
chữ lên màn ảnh cho mọi người biết
những ý kiến đã được phát
biểu. Một đồng nghiệp có trách nhiệm
giới thiệu tổng quát mục đích của
buổi hội thảo và coi giờ để mọi
vấn đề chính được đưa ra
bàn cãi. Tôi có nhiệm vụ gợi
ý cho mọi người đặt câu hỏi. Tim
ghé lại lúc buổi hội thảo gần chấm
dứt. Thấy anh vào tôi biết mình nên
sửa sọan kết thúc chương trình để
kịp đi lễ.
Cơn mưa vội buổi sáng
đã tạnh ráo và mặt trời đang rải
nắng vàng nhạt của mùa đông xuống
những con đường thành phố. Tôi "bấm"
địa chỉ vào máy dẫn đường
(GPS) để đưa Tim đi lễ dù mình
đã đến khu Versailles nhiều lần và
mùa hè rồi cũng ghé dự lễ chủ
nhật tại nhà thờ này. Ðây là lần
đầu tiên Tim đi dự lễ trong nhà thờ
Việt Nam. Chúng tôi vào nhà thờ vừa
đến phần đọc sách Thánh Thư. Cả
tôi và Tim đều ngạc nhiên vì
thánh lễ được cử hành bằng cả
Anh ngữ và Việt ngữ. Nhà thờ này
do linh mục Viễn trông coi. Tôi đã gặp
linh mục Nguyễn Thế Viễn vài lần và
rất mến mộ ông. Một linh mục trung
niên đầy nhiệt huyết và sáng kiến.
Trận bão Katrina đã cho ông dịp để
chứng minh khả năng lãnh đạo và tinh
thần phục vụ của ông. Hôm nay đến
dự thánh lễ lại càng mến phục
ông hơn. Ða số những người tham dự
thánh lễ còn trẻ. Họ là những
người sinh ra và lớn lên tại Hoa Kỳ
hoặc di cư sang đây khi còn rất bé. Tôi
chưa tham dự thánh lễ chủ nhật nào
có nhiều người trẻ như thế. Các
bài đọc trong lễ được đọc bằng
Anh ngữ và Việt ngữ. Ca đoàn cũng thế.
Họ hát bằng hai thứ tiếng và hát rất
hay. Ở những cộng đoàn khác, tôi thấy
đa số ca viên đã thuộc lứa trung
niên. Những người trẻ nhất cũng xấp
xỉ 30 mươi. Riêng ca đoàn này
có đủ mọi lứa tui.ị Tôi nghĩ
có lẽ cách cử hành và dâng lễ
kiểu này sẽ trở thành khuôn mẫu cho
các cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại
hải ngoại. Sau lễ Tim nói cảm nghĩ của
anh về thánh lễ cho tôi nghe và ý của
anh cũng giống ý tôi.
Thật là một dịp may cho
tôi và Tim vì ngay sau thánh lễ, có chợ
hoa Tết trong khuôn viên nhà thờ. Những dẫy
lều vải trắng được dương lên
để biến khu đất sân nhà thờ
thành chợ hoa. Tôi và Tim đi vào ngắm
hoa và rất thích thú được
nhìn thấy những chậu cảnh, những chậu
hoa rực rỡ được bày lên sạp
hàng. Chợ có hoa cúc vàng, hoa mai, và
nhiều thứ hoa cảnh rực rỡ khác. Nếu
không ở quá xa, tôi đã chọn mua
vài chậu hoa cảnh mang về làm quà Tết.
Cơn mưa buổi sáng đã rửa sạch bầu
trời nên khi chợ Tết mở cửa trời
quang đãng và nắng vàng mềm dịu
sưởi ấm sân giáo đường. Bên
ngoài chợ tết có mấy quầy bán thức
ăn và tôi thích nhất là quầy
bán bắp nướng. Tự nhiên thấy nhớ
những hàng bán bắp nướng bên lề
đường quanh chợ Ðà Lạt năm xưa.
Dạo đó có những chiều rảo bộ
muốn ăn một cái bắp nướng mà
túi không tiền nên hình ảnh những
cái bắp nướng vàng ngậy mỡ thỉnh
thoảng vẫn còn lãng đãng trong ký ức.
Tôi và Tim đã có chương trình
ăn trưa nên dù những cái bắp nướng
trông hấp dẫn thật, chúng tôi không
ăn. Vài năm trước đã có dịp
coi chợ Hoa ở Little Saigon, nam Cali, nhưng không
khí thiếu ấm cúng như chợ hoa trong
sân nhà thờ khu Versailles. Hình như dân
Việt Mình ở New Orleans vẫn còn mong đợi
Tết về. Các nhà thờ, nhà chùa
đều chuẩn bị những chương trình
đón Tết.
Buổi tối tôi ghé khu Việt
Nam ở quanh giáo xứ Lê Thị Thành
bên mạn Tây của New Olreans. Chủ đích
đến thăm linh mục nhà văn Trần Cao
Tường dù biết cuối tuần ông rất
bận. Mà đúng thế. Tôi ghé lại
thăm ông đúng lúc ông đang có
buổi họp với một số bạn trẻ. Tôi
mở cửa rất nhẹ vào nhà để khỏi
làm gián đoạn buổi họp của
ông. Ðứng nép trong phòng bếp vài
phút nghe lóm phiên họp rồi lại lẳng
lặng ra đi. Ðịnh bụng sẽ điện thoại
hay i-mêu (e-mail) ông khi về khách sạn. Thay
vì trở lại Khách Sạn ngay, tôi lái
xe sang sân nhà thờ xem có sinh hoạt gì
không. Tôi đã đi lễ nhà thờ
này hai năm trước, lúc đó cha
Hân chưa về hưu, nhưng không có dịp
quan sát sinh hoạt của bà con. May quá
là sân nhà thờ còn xe đậu và
có dấu hiệu bà con đang họp mặt
trong hội trường nhà xứ. Ðây là
một ngôi thánh đường khang trang có
cơ sở sinh hoạt cộng đoàn thuận tiện.
Ngay trong khuôn viên nhà thờ có một
khán đài đồ sộ nơi có lẽ
dùng để cho những sinh hoạt văn nghệ lớn
ngoài trời của cộng đoàn. Hình
như mỗi giáo xứ Việt Nam ở vùng
này đều có một khán đài
Văn Nghệ hay lễ đài ngoài trời.
Tôi đã có dịp ghé qua một số
nhà thờ Việt Nam ở Texas và vài nơi
khác, nhưng chưa thấy nơi nào có những
công trình kiến trúc khán đài
và lễ đài ngoài trời qui mô
như bà con mình ở New Orleans.
Ở chốn thiên tai bão tố
này đã trổ lên những bông hoa
văn hóa quí trong cộng đồng Việt Nam
hải ngoại. Cái đẹp của văn hóa
không phải là sự hào nhoáng nhộn
nhịp bên ngoài, nhưng là vẻ đẹp
tâm linh phát xuất ra từ những sinh hoạt cộng
đồng còn đậm mối thân tình
đồng hương. Cái
nét Việt Nam dù khó diễn tả vẫn
còn in dấu trên những công trình kiết
trúc từ chùa đến nhà thờ. Những
kiến trúc chùa, nhà thờ này có
thể không theo khuôn mẫu cố định
nào nhưng chắc chắn đã phát sinh ra
từ sự tưởng tượng đậm tình
Việt Nam của những người có công khởi
dựng lên. Ðẹp hơn nữa là từ những
ngôi chùa và ngôi nhà thờ quanh
đây hàng ngày vẫn còn vọng
lên tiếng kinh kệ Việt Nam. Hè năm
ngoái tôi có dịp dâng lễ cầu
siêu (tôi nhớ mang máng thế) và đứng
tụng kinh với một số chư vị đạo hữu
trong chùa Vạn Hạnh tọa lạc ngay bên xa lộ
90 gần khu phố Việt Nam. Mình đứng
ngân nga đọc kinh kệ, niệm nam mô trong
mùi nhang khói và tiếng mõ gõ giữ
nhịp cho bài kinh. Ðó là lần đầu
tiên trong đời tôi đứng tụng kinh niệm
Phật cung kính như thế dù Phật Giáo
không phải là tôn giáo của mình,
nhưng có lẽ cái hồn Phật Giáo từ
ngàn năm xưa của tổ tiên mình vẫn
còn dấu ấn trong vô thức nên mình
đã hòa vào tiếng mõ tiếng
ngân nga và mùi nhang khói thật dễ
dàng thật hồn nhiên. Như vậy ở New
Orleans, không chỉ có khu phố Tây nhộn nhịp,
không chỉ có Café Du Monde, bánh chiên
Beignet, súp rùa, cháo crawfish, thịt cá xấu
chiên, hay mấy món cơm cháo tạp vị,
nhưng còn có linh hồn Việt Nam ẩn hiện dưới sân
chùa, trên mái nhà thờ, qua lời kinh kệ.
Tôi cho xe đậu rồi lững thững
đi về phía cửa trước nhà thờ,
định bụng nhìn cho kỹ lại ngôi
giáo đường đã được dựng
lên từ những tấm lòng Việt Nam - rất
Việt Nam - trên mảnh đất xa lạ này. Vừa
bước được vài bước tôi thấy
có người đi về phía tôi. Trời
đã nhá nhem tối nên phải lại thật
gần mới nhìn ra được mặt. Vừa chạm
mặt, tôi buột miệng chào không suy nghĩ,
- "Chào cha Hân."
- "Ai đấy ?" Vị linh mục
vừa về hưu này không nhận ra tôi. Phải
đứng kể lể lai lịch nhắc vài
tên người quen lên làm bằng chứng,
cha mới ngờ ngợ nhận ra tôi.
- "Vào đây ăn tối"
- "Thưa cha con ăn rồi !"
- "Ăn nữa cho vui. Chết
đâu mà sợ."
Cách nói chuyện của vị
linh mục này làm tôi mến ông ngay. Hai
năm trước có ghé lại ở nhà ông
vài ngày, đúng lúc ông đi du lịch
Trung Hoa về. Nghe ông kể chuyện về những
nơi chốn ông đã đến, tôi
đã khoái tai rồi, nhưng kiểu nói
chuyện hồn nhiên cởi mở này làm
tôi thêm lòng kính mến ông hơn. Trong
đời này, có những người ngại mời
khách lạ hay khách chưa quen thân lắm ngồi
uống chai nước lạnh huống hồ rủ
ăn cơm một cách không nghi ngại như thế.
Tôi đi theo ông vào căn phòng có
đèn sáng và bóng người lô
nhô đi lại. Ông vừa mở cửa
đã có hai ba người chạy tới vồn
vã.
- "Chào cha. Ðợi cha lâu
quá." Cha Hân chưa kịp trả lời mọi
người nhìn tôi cùng một lúc
và chào,
- "Thưa cha mời cha vào
bàn".
- "Tôi không phải linh mục.
Ðang đi ngoài sân nhà thờ được
cha Hân rủ vào đây thôi".
- "Vâng ! xin mời vào".
Một vị giáo dân nhanh nhẹn
kéo ghế đưa tôi ngồi bên cạnh
cha Hân. Là khách lạ phương xa nên
tôi được mọi người để
ý và hỏi han. Phải mất một hai
phút tôi mới kể xong lý lịch và
nơi chốn đang sinh sống cho mấy người ngồi
cùng bàn nghe.
- "Cha uống gì ? Anh uống
gì ? Uống bia nhá ?". Một giáo dân
vồn vã hỏi cha Hân và tôi.
- "Có rượu chát
không ?". Cha Hân hỏi lại.
- "Thưa cha có chứ".
- "Tôi cũng uống rượu
chát như cha Hân". Tôi nói thêm
vào.
Khoảng 30 giáo dân ngồi quanh
ba bàn tròn có bày nhiều thức ăn
và những chai bia đã cạn được
để ngổn ngang trên bàn. Thế kỷ 21,
hút thuốc không còn là hình ảnh
lãng mạn nữa và đã bị cấm
trong các nơi công cộng, nhưng giáo
dân ở đây vừa nhậu vừa thả
khói thoải mái. Hai ba giáo dân vội
vã bưng lên những thức ăn còn bốc
khói lên tiếp cha Hân và tôi. Có
thịt nai xào lăn, lòng heo luộc, cháo
lòng, gà rừng áp chảo, và cá
trê kho để ăn cơm.
- "Mời cha ! Mời anh ! Thịt nai
và gà rừng mới săn về đấy ! Cha
và anh dùng ngay đi cho nóng". Người
đàn ông trung niên ngồi bên phải cha
Hân vừa mời chúng tôi ăn vừa kể
tên người săn nai và người bắn
được gà rừng.
Trong khi các ông ngồi nhậu
thoải mái, tôi thấy vẫn có bóng
người qua lại dưới nhà bếp. Hỏi
ra mới biết, hôm nay là ngày gói
bánh chưng bánh tét và dọn dẹp
nhà xứ sửa soạn cho hội chợ Tết sẽ
khai mạc tuần tới. Thấy bà con cô
bác hăng hái sửa soạn đón Tết
cũng làm lòng mình có gì ấy.
Ðịnh bụng khuya nay về khách sạn sẽ
điện thoại cho vợ bàn về ăn Tết
năm nay. Như vậy Tết vẫn chưa thật sự
chết trong hồn mình. Linh hồn Việt Nam có
thể sống lại bất cứ lúc nào trong hồn
mình nếu có ai, có sự việc hay biến
cố nào bên ngoài thúc đẩy hay gợi
nhớ. Mình cứ tưởng không còn
nơi nào người Việt xôn xao hân hoan chờ
Tết, nhưng cứ dựa theo những gì mình
thấy và nghe hôm nay, người Việt Nam, ở
New Oleans, thật sự chờ Tết đến. Có
thể mình đã lầm tưởng Tết
đã chết rồi. Hy vọng mình đã lầm
thật. Vì nếu mình lầm thật thì
văn hóa Việt Nam sẽ còn được
nuôi dưỡng và giữ gìn trong trái
tim của những cộng đoàn Việt Nam như ở
New Orleans.
Tôi được bà con cứ
vồn vã mời dùng thêm thịt nai và
thịt gà rừng áp chảo dù bụng
đã no. Ngồi uống rượu nghe bà con
bàn tính việc cần phải làm để
sửa soạn ăn mừng Tết mà thấy
lòng mình cũng vui lây.
- "Này sáng mai đi chặt
mía đấy". Một vị trung niên quay sang
bảo người bạn ngồi bên cạnh
mình.
- "Ối giời ơi ! Ðừng
nhờ ông này làm gì. Năm ngoái ra
vườn mía chặt bừa bãi, bắt người
ta phải dọn."
Chị ngồi chung bàn lên tiếng
phản đối. Người đàn ông bị
phê bình cười hề hề không nói
gì và đưa chai bia lên uống hết phần
còn lại.
- "Chặt mía làm gì vậy
?" Tôi thắc mắc quay sang hỏi người
đàn ông ngồi bên cạnh.
- "Ép nước mía
bán anh ạ. Mía rẻ và có khi xin
được miễn phí từ các gia
đình trong giáo xứ, và bán đến
sáu đô la một cốc mà vẫn không
đủ bán đấy", người đàn
ông nói giọng bắc kỳ gốc giải nghĩa
thêm, "Năm ngoái không đủ mía
mà bán đấy anh ạ".
Bàn tôi ngồi còn vài
ghế trống và có hai chị từ bếp
lên ngồi. Mặt hai chị ửng hồng vì
hơi nóng trong bếp và mồ hôi lớt phớt
trên trán. Họ nhận ra tôi là khách
lạ, gật đầu mỉm cười chào.
- "Hai chị làm gì mà
bây giờ mới dùng cơm ?" Tôi hỏi.
- "Gói bánh chưng anh ạ".
Một chị nhanh nhẩu trả lời.
- "Gói để biếu
giáo dân hay sao ?"
- "Không anh ạ. Mình
gói bán cho bà con để gây quỹ cho
nhà thờ".
- "Tôi xuống bếp coi
được không ?"
- "Xin cứ tự nhiên". Chị
vừa bưng bát cơm lên vừa nói, "Mời
cha ! Mời anh dùng cơm".
Tôi ngồi thêm một lúc
để nghe câu chuyện về ăn Tết trong họ
đạo di dân này rồi xin phép xuống
nhà bếp coi các bà các chị gói
bánh chưng.
Có khoảng mười phụ nữ
đứng gói bánh chưng, bánh tét trong
nhà bếp. Họ vừa gói bánh vừa
cười nói rộn rã. Những mảng
lá chuối xanh tươi đã được rửa
sạch để lót vào khuôn gỗ hình
vuông dùng gói bánh chưng. Trên mặt
bàn bếp có gạo nếp, đậu xanh
bóc vỏ đã được ngâm và những
thau thịt ba rọi xào sẵn làm nhân cho
bánh chưng. Các bà rải một lớp gạo
trên lá chuối đã trải sẵn trong
khuôn gỗ, lấy bàn tay gạt gạo ra cho
đều, bốc một vốc đậu rải
lên lớp gạo, lấy một miếng thịt ba rọi
cắt dày khoảng ba đốt ngón tay bỏ
vào chính giữa, rồi rải lên một lớp
gạo nữa. Sau cùng thì lá chuối
được cuốn lại theo khuôn gỗ và
được cột lại bằng những sợi
giây nhựa màu đỏ, loại dây có
sức kháng nhiệt nên có thể luộc
trong nước sôi mà không đứt.
- “Ngày xưa ở nhà
quê Việt Nam, người ta dùng những sợi
dây “lạt” được chẻ ra từ
thân cây tre để làm dây buộc. Sang
đây có dây nhựa như thế này vừa
tiện vừa dễ buộc anh ạ.”
Người đàn bà thấy
tôi đứng chăm chú nhìn cách
bà gói bánh ngước mặt lên giải
thích cho tôi với nụ cười thật chất
phác trên môi.
- “Bà ngâm gạo lâu
không ?” Tôi thắc mắc.
- “Em nhớ là ở Việt Nam
người ta ngâm gạo cho đến khi nước
thấm cũng mất sáu bảy tiếng, bây giờ
mình đun nước gần sôi, cho gạo
vào ngâm chừng một giờ đồng hồ
là được.” Người đàn
bà gói bánh giải thích.
Trong ký ức của tôi
không có hình ảnh rõ ràng về những
ngày Tết ở quê nhà và những nồi
bánh chưng mẹ tôi luộc thời thơ ấu.
Tôi ở một làng nông dân Công
Giáo di cư từ Bắc vào Nam trong cuộc di
cư 1954. Nông phẩm chính trong làng tôi thời
ấy là lúa gạo. Nhà nào cũng trồng
lúa để có gạo ăn chứ không phải
để bán lấy tiền. Người ta chỉ
bán lúa khi thặng dư hay khi cần tiền
để làm việc gì khẩn cấp. Mẹ
tôi có năm phải bán lúa đi để
lấy tiền đóng tiền cho tôi đi học.
Làng tôi ở chỉ có vài năm thanh
bình khi tôi còn bé và dân làng
đã thức đêm luộc bánh chưng chờ
Tết. Sau này vì giặc dã nên không
ai dám thức đêm đốt bếp luộc
bánh chưng như tôi đọc trên báo
chí hay tiểu thuyết. Trong vài năm thanh
bình ấy, những bữa ăn Tết của
nhà tôi cũng không có gì sang trọng
nhưng hình như ngon hơn nhiều gia đình
khác trong làng vì anh em tôi được
ăn thịt heo thỏa thuê. Mẹ tôi thường
giết heo để ăn Tết. Nhiều người
trong làng đến đặt mua thịt và mẹ
tôi tính xem phải “hạ” mấy con
“lợn” mới đủ chia phần cho
khách. Chính vì thế mà anh em chúng
tôi được ăn những thứ mà mẹ
tôi cho là ngon nhất của con lợn. Bố
tôi thì bao giờ cũng làm hai món
chính khi con heo vừa được giết xong: Tiết
Canh và Nem. Món tiết canh heo của bố tôi
thật đặc biệt vì bố lấy những
miếng thịt có “sụn’ như cổ heo
để trộn với tiết nên khi ăn nghe sồn
sột trong miệng. Còn món Nem theo kiểu
nhà quê của bố tôi là thịt heo luộc
có da, thái thật mỏng rồi trộn với
thính. Chỉ có thế thôi nhưng
đó là món ăn truyền thống trong
nhà tôi. Bây giờ hàng năm giỗ bố,
tôi cũng làm món Nem này nhậu lai rai
trong ngày giỗ với gia đình và bạn
bè. Còn món tiết canh heo thì tôi
chưa bao giờ làm và từ ngày sang Mỹ
đến giờ, tôi cũng chưa bao giờ ăn
và có lẽ sẽ chẳng bao giờ ăn nữa.
Thêm vào hai món truyền thống đó
là giò thủ do chính tay bố tôi
“bó.” Gọi là bó vì thịt
đầu heo cắt miếng bằng hai ngón tay
đem xào lên rồi gói lại hay bó lại
thật chặt bằng lá chuối như người
ta gói bánh Tét. Ngoài mấy món thịt
heo này ra tôi không còn nhớ được
gì nữa. Có những món ăn mà phải
sang tới Mỹ tôi mới được ăn lần
đầu hay ăn dư thừa như chả giò,
giò lụa, giò bì vân vân. Ngày
tôi còn bé, nhà tôi chưa bao giờ
ăn dưa “món.” Mẹ tôi chỉ biết
làm dưa cải thôi. Bây giờ lang bạt
tha hương tôi mới được ăn dưa
món ngày Tết kể từ ngày lấy vợ.
Cũng may vợ tôi thích học hỏi nấu
nướng và làm các món nhậu
nên Tết đết dù trái tim tôi
không còn những rung động quê nhà, vợ
tôi vẫn phải mua và làm những món
ăn Tết được gọi là truyền thống
của gia đình hay từ những ảnh hưởng
bên ngoài.
- “Nhà anh có nấu
bánh chưng không ?” Người đàn
bà gói bánh hỏi làm tôi giật
mình.
- “Không, nhưng tôi có
người anh, năm nào anh cũng gói bánh
chưng và cho gia đình tôi.”
- “Sang Mỹ rồi, mua về
nhà cho tiện.” Chị gói bánh mỉm
cười và tay cứ liên tục làm những
động tác gói bánh một cách mềm
mại nhưng chắc chắn và chính xác.
-“Tôi muốn biết công thức
để Tết sang năm sẽ rủ vợ tôi
gói bánh chưng.”
- “Anh có mấy cháu rồi
?”
- “Hai.”
- “Các cháu có thích
ăn bánh chưng không ?”
- “Thích lắm, hai đứa
con của tôi đều thích ăn xôi và
bánh chưng.”
- “Vậy thì gói ở
nhà cho các cháu ăn tốt hơn. Bánh
ngoài tiệm cho bột ngọt vào nhân
mà lại không được tươi
đâu.”
- “Ðúng thế !”
Tôi đến gần chỗ một
chị đang gói bánh tét nhìn làm chị
hơi e thẹn. Ðể làm chị bớt ngại
tôi nói,
- “Chị khéo tay quá,
bánh không cần khuôn mà vẫn gói
được.”
- “Ai mà dùng khuôn để
gói bánh tét bao giờ !” Chị trả lời
và mỉm cười thân thiện hơn.
- “Gói bánh chưng hay
gói bánh tét thứ nào khó hơn ?”
Tôi hỏi.
- “Em cũng chả biết nữa.
Làm gì quen nấy anh ạ. Em chuyên gói
bánh Tét nên thấy dễ hơn.”
Tôi đi quanh quẩn trong bếp
nhìn các bà trong giáo xứ Lê Thị
Thành hăng say vui vẻ gói bánh chưng
bánh Tét cho hội chợ Tết mà cũng thấy
vui lây. Ngày mai trở về Boston không biết
ý nghĩ ăn Tết còn trong đầu
mình nữa không !
Hơn ba mươi lần ăn Tết
ở xứ người, thời gian đã xóa
nhòa những nỗi xôn xao mong chờ. Tết
quê người không như Tết quê nhà.
Nơi tôi đang sinh sống, sân nhà còn
ngập tuyết trắng. Cây xơ xác dưới
bầu trời xam xám buồn vô độ. Các
nhà thờ nhà chùa và hội
đoàn người Việt vẫn tổ chức
ăn Tết. Mỗi nơi cử hành những nghi lễ
cổ truyền khác nhau. Mình cũng chẳng biết
lễ Tết nào thật sự “truyền thống”
và nghi lễ nào đã được
“sáng chế” hay “cải biên” từ
trí tưởng tượng của người tổ
chức. Thế hệ đầu tiên của di dân
Việt Nam đang già theo năm tháng. Những
người Việt tha hương mang nặng trái tim
Việt Nam đang dần dà dẫn nhau về cõi
thiên thu. Những thế hệ trẻ
chỉ bập bẹ hay không nói được tiếng
Việt sẽ ăn Tết ra sao ? Con gái tôi sau
này lớn lên sẽ ăn Tết ra sao ?
- Tản mạn trên một chuyến
đi xa cuối năm, tháng Giêng 2009 -
Trần Thu
Miên
(Sưu
Tầm Liên Mạng chuyển)