Chuyện 30 Tháng Tư: Chôn
Súng
(Đào Như)
Đào
Như là bút hiệu của Bác sĩ Đào Trọng
Thể, tác giả đã nhận giải
"Tác Phẩm Xuất Sắc Nhất" Viết Về
Nước Mỹ 2005, với
các bài "Tự Khúc", "Dấu
Chân Người Lính." Trước 1975, ông
là một y sĩ tiền tuyến chuyên về phẫu
thuật. Định cư tại vùng Chicago, Hoa Kỳ,
ông là chuyên gia bệnh tâm thần, và
đã thành lập một câu lạc bộ
đặc biệt để trợ giúp nhiều
đồng hương và cựu chiến sĩ VNCH, cựu
tù nhân cộng sản. Bài sau đây
là những đoạn ký ức về Tháng
Tư 1975, được kể lại trong một sinh hoạt
của “nhóm điều trị” tại Oak
park, Illinois,USA năm 1966.
***
Với giọng nói đều
đều, độ phát âm vừa phải, anh
trông có vẻ mệt mỏi vì mất ngủ,
anh tự giới thiệu
mình và nói về quá trình anh đi
trình diện vào ngày 30 tháng Tư /75:
- Tôi là
lính Địa phương quân, đóng ở
Bến Tre trước 75. Tôi bị đưa đi
tù cải tạo tận ngoài Bắc: Hoàng
Liên Sơn rồi Lào Kai. Đầu năm 80 họ
chuyển chúng tôi về Nghệ Tĩnh, Lý
Bá Sơ. Cuối năm 80 tôi được lệnh tha thuộc diện sức khỏe.
Đi tù cải tạo ở ngoài Bắc, nghề
chính của tôi là xẻ gỗ. Tôi bị
tai nạn cây đè, gẫy kín xương
đùi trái ... Anh đưa tay phải cao lên
và choàng vai người bạn ngồi bên cạnh,
anh bảo:
- Cũng là nhờ
đi tù cải tạo tận ngoài Bắc
mà tôi được biết anh Phùng này
đây! Chúng tôi ở cùng chung một trại
từ Hoàng Liên Sơn ... Nói đến
đây, anh và anh Phùng, hai người ôm
nhau cùng cười. Anh Phùng cảm động, cố
nuốt nước bọt, giọng anh ngậm ngùi:
- Nguyên tôi
là Đại úy, Lực Lượng Đặc
Biệt, đóng ở Vùng Ba Biên Giới. Tiếp
liệu và liên lạc với bên ngoài
hoàn toàn bằng trực thăng. Việt Cộng
dùng đặc công đánh úp đồn.
Tôi bị bắt. Gia đình được khai
báo là tôi bị mất tích, xem như
đã chết! Vợ tôi lãnh tiền tử ! Khi bị bắt,
tôi thuộc diện tù binh, nhưng đến 75 cộng
sản chuyển tôi sang chế độ học tập
cải tạo! Năm 76 họ chuyển tôi ra tận
ngoài Bắc, nên mới được ở chung
với ông Thiếu tá Lý Thiên Nhân
này đây. Khi cấp cứu anh Nhân bị gẫy
kín xương đùi tại Lào kai, có
tôi! Chính ở Lào-kai tôi và anh
Nhân hái được trái "mắt cọp",
trái cây quí của người Bắc! Xin lỗi
anh em tên nó không thơm lắm, nhưng khi
ăn không đến nỗi nào!
Câu chuyện
trái "mắt cọp" vì cái tên
vô duyên của nó làm cho anh em toàn
nhóm điều trị cười một trận! Sau
đó Thiếu tá Nhân tiếp nối câu
chuyện về anh:
- Sự thật
thì cho tới năm 75 tôi vẫn còn là
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 52
Địa phương quân, tỉnh Bến Tre! Bộ
chỉ huy của Tiểu đoàn đóng ở rừng
Rạch Rợp, dựa lưng vào sông Ba-lai. Địa
bàn hoạt động của Tiểu đoàn
là 16 xã thuộc quận Ba Tri. Sau khi Tướng
Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết vào đêm 30/4/75,
cũng như các sĩ quan của các đơn vị
quân đội "Vùng 4", chúng tôi
buông súng và đi trình diện tại quận
Ba Tri. Đến trình diện, thoạt tiên thấy
Cộng sản họ cũng tử tế. Họ đội
nón tai bèo có, nón cối có, đến
ân cần nói chuyện với các sĩ quan
trình diện. Tất cả đều nói một
câu mà hình như có ai dạy cho họ
và họ thuộc lòng sẵn trong bụng. Họ
bảo anh em chúng tôi: "Các anh phải thật
thà, thành khẩn mà khai báo, đừng
có khai man tên họ, lý lịch và chức
năng của mình! Cách mạng có cái
nhìn thấu suốt tam đại, tứ đại của
các anh". Một anh chiến binh cộng sản coi
còn trẻ, chừng 17, 18, đội mũ tai
bèo, nói giọng Bắc, đến nhẹ
nhàng hỏi tôi và ghi tên họ cùng
chức năng Tiểu đoàn trưởng của
tôi. Một ông sĩ quan của họ, đội
nón cối và cũng người miệt
ngoài đó, đến cúi xuống trên tờ
kê khai lý lịch của tôi, đóng khung
bằng mực đỏ chức năng Tiểu
đoàn trưởng của tôi. Đoạn
ông ta ngước ngược tròng con mắt
lên nhìn tôi, cái nhìn sắc lạnh
xuyên suốt cột sống tôi! Cái nhìn
ghê rợn ấy có sức ám ảnh tôi!
Mãi đến bây giờ đôi khi tôi vẫn
nhìn thấy lại trong những cơn ác mộng!
Nói thật với các anh em, lúc đó
tôi thấy rồi, tôi thấy cái gì bất
ổn cho riêng tôi ... Làm xong mọi thủ tục,
họ bảo: "các anh ai về nhà nấy,
và chờ lệnh gọi tập trung sau"!
Trên đường
về nhà, tôi suy nghĩ thật mông lung.
Tôi có cảm tưởng mình là con
cá nằm trên thớt đang dãy dụa!
Tôi gặp thượng sĩ Long đang chạy xe
Honda. Ông là thượng sĩ già, kinh nghiệm,
từng trải, trước sau như một, trung hậu
với tôi. Tôi đem chuyện kể cho nó
nghe. Nó có vẻ sợ cho tôi, nó bảo:
- Hay ông thầy
về trình diện ở thị xã Kiến
Hòa cũng không muộn. Ở đó có người có ta
, chớ ở quận Ba Tri này, chỉ có ông
thầy là lớn ! Ngại
lắm!
Tôi còn mãi
cân nhắc, thượng sĩ Long vụt nói:
- Giờ này
không còn ai dám chạy xe lôi xe lam rước
khách cả! Được! Tôi chở ông thầy
đi Kiến Hòa bằng xe Honda của tôi!
Chỉ vỏn vẹn
có 5 phút, ông ta ghé nhà cho vợ hay.
Ông ta bảo tôi ngồi sau lưng, ôm lưng
thật chặt rồi chở tôi một mạch về
Kiến Hòa! Trên đường vào thị
xã Kiến Hòa
tôi gặp Trung tá Bành Tấn Bửu mới
hôm qua ông còn là Tham mưu trưởng Tiểu
khu Kiến Hòa, bây giờ ông mặc đồ
thường phục, dân sự, mang dép Nhật,
đang đi lẹt xẹt trên vỉa hè
đường phố! Tôi liền đến
trình bày với ông ta về sự thể của
tôi tại Ba Tri. Ông ta hơi ngại cho tôi.
Ông ta bảo:
- Ở quận Ba
Tri không ai mà không biết anh! Thì cũng
đành vậy thôi!
Lúc ấy
trông mặt ông ta có vẻ căng ra. Mồ
hôi rịn trên trán ông thấy rõ!
Ông Bảo vụt hỏi tôi:
- Quê anh ở
Sa-đéc? Còn sớm chán, về ngay quê
quán mình mà trình diện cho có bà con và cũng có vẻ
thật thà hơn, chớ ở Bến Tre này anh
cũng biết ngại lắm, chính tôi cũng
không biết thân phận của tôi ngày
mai ra sao!
Ông Thượng
sĩ già của tôi cũng chụp nói
vào:
- Đúng rồi
đó ông thầy! Tôi đưa ông Thầy
xuống phà, xong tôi bốc ông thầy lên
Ngã ba Trung Lương để ông thầy
đón xe đò về bến phà Mỹ Thuận
rồi thẳng về Sađéc nội trong ngày,
trước hai hay ba giờ chiều nay!
Tôi bắt tay
Trung Tá Bành Tấn Bửu. Chúng tôi
chưa hề bắt tay nhau ngỡ ngàng như vậy,
không phải là lời chào vĩnh biệt, cũng
không phải lời hẹn tái ngộ! Có
gì bẽ bàng cho thân phận chúng
tôi!
Ngã ba Trung
Lương, một ngã ba sầm uất, nhộn nhịp
của các tỉnh phía Nam Saigòn! Nó nằm
bên này sông Tiền trên trục giao
thông của các tỉnh thuộc đồng bằng
sông Cửu Long. Nó nối liền đường
về các tỉnh miền Tây, đường
đi Mỹ Tho,Vĩnh Long, bến phà Mỹ Thuận,
về Sa-đéc và Đồng Tháp v.v...
Cách nó không xa là căn cứ Đồng
Tâm, Trung tâm Hậu cần Quân khu 4; và cũng
cách nó không xa là Bộ Tham Mưu của
Sư đoàn 7. Hôm nay, tại ngã ba Trung
Lương, người qua kẻ lại có vẻ bối
rối khác thường. Ai cũng có bộ mặt
thảng thốt, ngỡ ngàng! Những anh em binh sĩ
quân đội Việt Nam Cộng Hòa mới
hôm qua, hôm nay mặc đồ dân sự, mang
dép Nhật, đứng nhìn sững sờ
các chú lính giải phóng, đội
nón tai bèo, lái xe jeep chạy tứ tung,
vô kỷ luật. Họ không biết lái, họ
húc phải người, tung cả quán hàng.
Có xe bị lật bên đường! Có xe hết
xăng bỏ ngay giữa con lộ!
Nhìn lại,
đó là những chiếc xe nhà binh mà
các bộ đội giải phóng lấy tại
căn cứ Đồng Tâm và Bộ Tham Mưu
Sư Đoàn 7. Có người lính giải
phóng đội nón tai bèo, đứng
trên xe jeep la lớn bằng giọng Bắc kỳ:
"Đó là qui luật của chiến
tranh", và anh ta chĩa súng AK lên trời bắn
đùng đùng! Tôi thấy buồn lắm!
Buồn lắm các anh em! Mới hôm qua cả
Quân Đoàn 4 đều nắm vững tay
súng, chủ động trên khắp chiến
trường, làm chủ trong mọi tình thế.
Đêm qua Tướng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết
tại Cần thơ, cả Quân Đòan 4 sụp
đổ! Cộng sản chiếm cả Vùng 4
không tốn một viên đạn. Tôi cảm
thấy mất mát quá nhiều. Tôi vô
cùng xấu hổ khi thấy mình cải trang trong
bộ đồ dân sự, chân mang dép.
Tôi thấy thương mình vô hạn! Tôi
còn trẻ! Tôi mới 32 tuổi, Tiểu
đoàn trưởng! Cuộc đời binh nghiệp
của tôi chấm dứt sớm và thê thảm
như vậy sao! Tôi nghĩ đến Tú, vợ
tôi. Tôi yêu Tú vô hạn! Tôi nhớ
các con tôi. Có lẽ giờ này tất cả
mẹ con đang ngóng mong tôi tại Sa
Đéc. Cầm lòng không được,
nước mắt dâng tràn!
Anh Nhân
nói đến đây mặt mũi đỏ hoe
và giọng anh nghe như khàn đi, thấy vậy
anh Quang tiếp lời anh. Trung tá Lâm Quang
nguyên là một trong những sĩ quan tham mưu của
Tướng Nguyễn Khoa Nam. Anh là sĩ quan Chiến
Tranh Chính Trị. Trung tá Lâm Quang nói:
- Tình hình chiến sự
thuộc lãnh thổ quân khu 4 vào những
ngày cuối tháng Tư 75 nói chung và
thành phố Cần Thơ nơi đặt bản
doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, Quân khu
4,Vùng 4, nói riêng, tương đối
yên tĩnh so với tình hình các tỉnh
miền Đông thuộc Quân khu 3, và Biệt
Khu Thủ Đô, bản doanh của chính phủ
trung ương Sàigòn. Nhất là sau vụ Tướng
Nguyễn Khoa Nam đích thân chỉ huy các
đơn vị thống thuộc đánh bại
và vô hiệu hóa hoàn toàn hỏa lực
của Trung Đoàn Chủ Lực Miền "Hậu
giang" của Cộng sản, khi Trung đoàn
này xâm nhập và tiến sát vào
vòng đai phòng thủ của phi trường
Trà Nóc (Cần Thơ).
Sáng ngày
29/4/75 Bộ Tư Lệnh Quân Đòan 4 có triệu
tập một cuộc họp quan trọng để duyệt
xét lại tình hình và đề ra
phương án phản công mới dưới quyền
chủ tọa của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa
Nam, Tư lệnh Quân Đoàn 4, Quân khu 4.
Thành phần tham dự cuộc họp gồm có:
Tư Lệnh, Tư Lệnh phó, Tham mưu trưởng,
các Tham mưu phó và các sĩ quan trưởng
phòng trong bộ tham mưu của Quân đoàn
4, ngoại trừ hai sĩ quan cao cấp của Quân
đoàn, một cấp Chuẩn Tướng, Tham
Mưu trưởng, và một cấp Đại
tá, Trưởng phòng 2/QĐ, đã tẩu
thoát ra nước ngoài là không tham dự
phiên họp này. Cuộc họp tuy ngắn
nhưng trang nghiêm và hết sức quan trọng.
Các đơn vị trong Quân đoàn 4 thề:
" kiên quyết và đoàn kết sau
lưng vị tư lệnh và chiến đấu
đến viên đạn cuối cùng, tử thủ
Vùng 4".
Sáng ngày
30/4/75 vào lúc 10:25, Tổng Thống Dương
Văn Minh lên đài phát thanh Sàigòn
kêu gọi toàn thể quân đội và
các tướng lãnh chỉ huy Sư đoàn,
Quân đoàn trên toàn vùng lãnh thổ
miền Nam, phải buông vũ khí, ngưng chiến
đấu và chờ bàn giao cho Chính quyền
Cách mạng !... Thế là một quân
đoàn hùng mạnh như Quân Đoàn 4,
tới giờ phút này vẫn nắm vững tay
súng, chủ động trên mọi tư thế
chiến đấu và phản công, đang giữ
vững miền châu thổ sông Cửu Long sắp
phải tan rã!
Tướng Nguyễn
Khoa Nam, một quân
nhân chuyên nghiệp, ông phải tuân thủ
mệnh lệnh thượng cấp, nhất là vị
thượng cấp này là Tổng Thống
Dưong Văn Minh, Tổng Tư Lệnh Quân Đội
Việt Nam Cộng Hòa vị Chỉ huy trực tiếp
của Ông!
Một số sĩ
quan phục vụ trong bộ tham mưu của Quân
Đoàn 4, kể cả tôi, quá chán nản
rời bỏ đơn vị, về sum họp với gia
đình chờ ngày vào tù. Một số
khác thì tìm đường tẩu thoát
ra nước ngoài vì họ sợ Cộng sản
trả thù! Trong bối cảnh này, chỉ
còn lại một mình Thiếu Tướng Nam,
Tư lệnh, Thiếu Tướng Lê văn Hưng,
Tư lệnh phó, và một số sĩ quan
thân cận ở lại doanh trại Bộ Tư Lệnh
của Quân đoàn. Tướng Nguyễn Khoa Nam,
một Tướng lãnh ưu tú, sống độc
thân, ăn trường chay, thanh bạch, suốt đời
ông cống hiến cho binh nghiệp, tận tụy với
quân đội.
Chiều ngày
30/4/75 Cộng sản đưa người của họ
vào là Tám Thạch, mang quân hàm Thiếu
tá Trung đoàn trưởng, qua trung gian của
Nguyễn Khoa Lai, em thúc bá của Tướng Nam,
thiếu tá bác sĩ Quân Đội Việt
Nam Cộng Hòa, và Đại úy bác sĩ
Đoàn Văn Tựu, y sĩ Trưởng Tiểu
đoàn 40 Chiến tranh chính trị, hiện
trú đóng tại Bình Thủy, Cần
Thơ, vào tiếp xúc với tướng Nam tại
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, đồn
trú trên đại lộ Hòa Bình
thành phố Cần Thơ.
Nội dung cuộc tiếp xúc này, cấp nhỏ
như chúng tôi không ai được biết,
ngọai trừ Tướng Hưng, Tư lệnh
phó, được Tướng Tư lệnh bàn
bạc và thông báo riêng. Thiếu Tướng
Hưng, trở về tư dinh và tự sát sau
đó!
Sau khi suy nghĩ
và cân nhắc mọi hậu quả có thể
xảy đến cho đồng bào và chiến sĩ
trong lãnh thổ, Tướng Hưng và Tướng
Nguyễn Khoa Nam, tuần tự đi đến quyết
định tuẫn tiết!
Sự tuẫn tiết
của 2 vị Tướng lãnh, Tư lệnh và
Tư lệnh phó của chúng ta, Tướng Nguyễn Khoa Nam và
Tướng Lê Văn Hưng, là những
quyết định kiên cường và dũng cảm,
mãi mãi được tuyên dương
và ghi công, đời đời được lịch
sử soi sáng!
Những điều
tường thuật của Trung tá Lâm Quang tuy sơ
lược lịch sử nhưng rất súc
tích, gây nhiều cảm kích anh em. Không ngờ
sau gần hai mươi năm mà ấn tượng của
các anh em về Tướng Nguyễn Khoa Nam vẫn
còn sâu sắc, không một phai mờ! Nhớ
lại Tướng Nguyễn Khoa Nam, anh em nhớ lại một
thời vinh dự được cầm súng bảo vệ
tổ quốc! Có một vài anh em cúi
mái đầu bạc, hai tay bưng mặt khóc
rưng rưng! Có một thời anh em là
lính, là sĩ quan tham mưu của Tướng
Nguyễn Khoa Nam.
Không muốn
để tâm tình xúc động của
các anh em kéo dài, Trung tá Lâm Quang
yêu cầu anh Nhân tiếp tục con đường
từ ngã ba Trung Lương về Sađéc.
Anh Nhân bậm
môi, cố gắng lấy hết can đảm mới
đủ bình tĩnh tiếp nối câu chuyện
của mình:
- Như các
anh biết, lúc đó xe chạy rất ít.
Tôi có ý sợ không có xe về sớm
để kịp giờ trình diện! May quá lúc đó
một chiếc xe nhà binh GMC cũng đang chạy trờ
tới. Trên xe có mấy anh em bộ đội giải
phóng đội nón cối, cũng có những
người đàn ông đàn bà mặc
đồ dân sự. Tôi liền đưa tay
đón chiếc xe lại. Khi đến gần, họ
ngừng xe lại, tôi thấy người tài xế
lại là chú lính Việt Nam Cộng
Hòa! Tôi mạnh dạn hỏi lớn:
- Cho quá giang về
phà Mỹ Thuận có được không?
Một anh bộ
đội giải phóng, nói giọng Bắc la lớn:
- Nào! Lên
đi nào! Khẩn trương lên! Trưa cả rồi!
Một cánh
tay đưa xuống kéo tay tôi lên. Khi bàn tay tôi chạm
phải bàn tay anh, tôi thấy tay áo anh
làm bằng vải kaki xanh Nam Định! Tim tôi se
lại! Dưới màu kaki xanh Nam Định này,
tôi đã nhiều lần nhìn thấy
trên chiến trường những xác chết trẻ
trung dưới hai mươi tuổi, trên ngực họ,
trên tay họ hay trên lưng họ xâm hàng
chữ "Sanh Bắc, Tử Nam"!
Xe chạy ...
và chạy xa ngã ba Trung Lương. Mọi người
ngồi trong xe đều im lặng. Hình như mỗi
người đang theo đuổi những ý nghĩ
riêng tư của mình! Ai cũng có vẻ ngỡ
ngàng khi chạm phải mắt nhau! Xe chạy qua những
thôn xóm quen thuộc tôi đã từng qua
lại nhiều lần từ thuở thiếu thời, cắp
sách đến trường gặp thầy, gặp bạn.
Hôm nay nay trông quạnh vắng lạ thường!
Trường học đóng cửa không một
bóng dáng học trò, chợ búa tiêu
điều không ai nhóm, nền gạch trơ, phất
phơ mấy miếng lá chuối khô bay!
Có lúc
trên xe im phăng phắc. Hình như ai cũng
đang chờ đợi cái gì! Sau những
năm chiến đấu ồn ào với súng
đạn, bây giờ tôi mới hiểu im lặng
là cái đáng sợ! Nhất là cái
im lặng sau cuộc chiến, cái im lặng chứa
đầy tử khí, ngạo nghễ và phản
kháng! Các anh Bộ đội miền Bắc,
có lúc cố gắng pha trò để đỡ
buồn đỡ căng thẳng. Có anh nhái lại
giọng Nam-bộ, hỏi người trên xe: "Mần
sao ? Bà con làm một chuyến du lịch từ Rạch
Miễu đến phà Mỹ Thuận trên chuyến
xe đò Cách mạng kỳ này chắc giui lắm hả"! Câu pha trò của anh
rơi vào khoảng không! Tôi gượng gạo,
nhìn bâng quơ ra ngoài. Làng mạc ruộng
vườn bao la một màu xanh rờn vắng
bóng người nông phu, chỉ có những
cánh cò bay lặng lẽ!
Chợt anh
tài xế la lớn;
- Đến bến
phà rồi bà con ơi!
Tôi vội
vàng cám ơn mọi người và nhảy
xuống xe trước nhất. Một cánh tay cầm
khẩu AK của anh bộ đội giăng ra chận
tôi lại. Tôi hốt hoảng không biết xử
trí như thế nào; nhưng với phản xạ
tự nhiên của người lính, bàn tay phải
của tôi đã sẵn trong túi quần,
lúc ấy ngón tay cái của tôi
đã nằm sẵn trên khóa an toàn,
và ngón tay trỏ của tôi lúc
đó cũng đã sẵn sàng nằm
trên cò của khẩu
Colt 12 mà tôi lận rất kỹ trong người
và nó sẵn sàng nổ! Anh chàng bộ
đội, nhắm nghiền đôi mắt lại,
ngước cổ cao lên và la lớn:
- Ối Giời!
Chúng tôi đèo anh từ ngã ba Trung
Lương, đến tận đây thì anh phải
trả tiền chứ, sao lại cám ơn không được!
Nói thật,
lúc đó tôi mới lấy lại bình tĩnh.
Tôi từ từ rút bàn tay phải ra khỏi
túi quần có dính theo tờ giấy bạc
500 đồng đưa cho anh bộ đội và
nói cám ơn anh ấy!
Trên đường
tôi ngồi tiếp xe lôi về nhà, tôi nhớ
lại câu nói của anh bộ đội:"Tôi
đèo anh", tôi cười một mình.
Mãi sau này đi tù cải tạo tại miền
Bắc tôi mới hiểu được nghĩa của
chữ "đèo"! Chiến thắng Miền Nam,
đối với các anh nhanh quá! Các anh ngỡ
ngàng như còn trong mơ. Các anh chở
chúng tôi trên chiếc xe hơi nhà binh GMC
mà các cứ tưởng là các anh
đang đèo chúng tôi trên chiếc
trên chiếc xe đạp thồ trên con đường
quê nào đó tại Miền-Bắc-Xã- Hội-Chủ-Nghĩa!
Về đến
Sa Đéc, trước khi đến nhà, đi
ngang qua một công đất bỏ hoang, cây cối
um tùm, có con lạch nhỏ, nước sâu
đến gối và nhiều bùn, tôi dừng
lại, suy nghĩ một hồi ... Tôi bước xuống
đứng dưới con lạch. Bỏ tay vào
túi quần, tôi từ từ tháo gỡ
cây súng. Tôi kiểm soát khóa an
toàn, cho nó rơi xuống trong ống quần,
rơi thật sâu xuống con lạch nước.
Tôi nghe cây súng rơi xuống đến mắt
cá chân tôi. Tôi dí bàn chân
sâu vào trong bùn và rút lên từ từ.
Cây súng, ngang mắt cá chân tôi rơi
theo đúng vào lỗ bùn sâu.
Bước
lên khỏi con lạch, mang lại đôi dép,
tôi đi hướng về nhà không ngoảnh
mặt lại. Có một chút gì chua xót
trong tôi. Hình như tôi vừa từ giã
ai ? Một người bạn? Một chiến hữu ? Một
thoáng bâng khuâng mơ hồ, tôi vừa
bước qua ngưỡng cửa cuối cùng của
cuộc đời binh nghiệp .
Đào Như - Bác sĩ
Đào Trọng Thể
(Bai Chuyen)