Ông Bán Phở
(Phương Toàn)
Tác
giả tự sơ lược tiểu sử: Cựu thợ
lái máy bay chuồn chuồn ở Căn Cứ KQ
Phù Cát - Bình Định, cựu tù
chính trị, đến Mỹ từ 1980, hiện an
cư lạc nghiệp tại Garden City, Kansas. Ông
đã góp một
số bài đặc biệt và nhận giải
thưởng Viết Về Nước Mỹ từ mấy
năm trước.
Bài viết cho Tháng Tư năm nay của
ông kể chuyện về
tô phở, từ phở thời lính, phở trại
tị nạn tới phở trên đất Mỹ ngày
nay.
***
Khoảng đầu
những năm 60, tôi hay được người
anh dẫn đi ăn phở ở tiệm phở Tàu
Bay nổi tiếng đường Lý Thái Tổ
Saigon, vào những ngày cuối tuần, thực
khách phải chen nhau mà dành chỗ. Tại quầy
nấu phở, người chuyên nhúng bánh phở
bỏ vào tô, người bỏ thịt vào
phở theo yêu cầu của những người chạy
bàn, người chuyên chế nước lèo
vào tô phở. Hoạt cảnh trông cứ
như một phim hoạt họa dây chuyền. Thú
thật, thuở ấy tôi không biết tô phở
nào ngon hơn tô phở nào.
Lớn lên
đi lính, tôi bắt đầu biết chọn
những tiệm phở ngon hợp với khẩu vị của
mình, như tiệm Phở Hòa ở đường
Pasteur, tiệm Quỳnh Tín ở Trương Minh Giảng,
tiệm Thái Bình ở Lê Văn Duyệt, hoặc
tiệm Phở Quyền ở Ngã tư Phú Nhuận
...
Tiến xa hơn nữa,
tôi mon men tán tỉnh con những chủ tiệm
bán phở. Gần trường Ngô Quyền-
Biên Hòa tiệm phở có cô con gái rất
dễ thương. Không những ăn phở buổi
sáng ở đó, mà chiều đến
tôi lại tò tò vác mặt ra ăn
cơm tối. Để lôi cuốn sự chú
ý của người đẹp, cả tháng trời
tôi chỉ kêu độc nhất có một
món cơm chiên.
Cho đến một hôm, em hỏi:
- Chú kêu món
khác đi, cả tháng rồi, chú ăn độc
có một món cơm chiên, thấy tội
quá hà.
Được
người đẹp chiếu cố, tôi mừng lắm,
bèn lấy tờ thực đơn dò từ
trên xuống dưới rồi chớp chớp mắt
nói:
- Cô cho tôi một dĩa
cơm Dương Châu.
Cô bé chúm
chím cười bước vô trong. Ôi em dễ
thương làm sao.
Một lúc
sau, bồi bàn đem ra một dĩa cơm y hệt dĩa
cơm mọi ngày tôi vẫn ăn. Hỏi em, em
cười bảo rằng:
- Cơm
Dương Châu là cơm chiên mà chú
vẫn ăn mỗi ngày đó.
Bị chơi
gác tôi đâm quê và không ăn phở
ở tiệm đó nữa.
Mỗi sáng gồng
bánh mì riết cũng chán, nên cuối
cùng tôi lại chui vào một tiệm phở
khác: Tiệm phở Tàu Bay.
Phở Tàu Bay
lúc này sao đi đâu cũng thấy, tựa
như Mc. Donald của Mỹ vậy. Từ Saigon ra Hóc
Môn có một tiệm, về Bình Chánh
có một tiệm, lên Thủ Đức có một
tiệm, và dĩ nhiên ở Biên Hòa cũng
có một tiệm.
Bây giờ
đi ăn phở, tôi không quan tâm tới phở
ngon cỡ nào, miễn đừng tệ lắm,
có điều cần nhất là con gái chủ
tiệm phải "dễ coi". Phở Tàu Bay
Biên Hòa có cô con gái rất là dễ
coi.
Ăn phở, nếu
không có rau, không có giá thì
còn tạm ăn được, chứ không
có chanh thì ăn nó vô duyên lắm, thế
mà tôi thường xuyên bị ăn phở
không có chanh, không có giá và
không có cả rau thơm ở cái tiệm phở
này.
Đây là
một khổ nhục kế mà tôi nghĩ là
tuyệt chiêu. Em bé
cứ cười khi thấy tôi chế dấm sủ
vào tô phở. Em cho biết lý do thỉnh thoảng
không có đồ gia vị vì tôi đi
ăn phở sớm quá, lúc bấy giờ xe chở đồ cho hệ
thống phở Tàu Bay chưa lên kịp. Cô
cho biết là họ cung cấp toàn bộ vật
liệu, kể từ miếng thịt tái gầu, nạm,
đến cả bó hành, bó rau thơm hay những
trái chanh.
Dân thường
thì khoảng bảy giờ sáng mới đi
ăn phở, còn tôi, mỗi ngày phải
có mặt ở Phòng Hành Quân trước
sáu giờ rưỡi, nên phải đi ăn phở
lúc năm giờ rưỡi sáng, vì thế
tiệm phở Tàu Bay thường là chưa có
gì ở trên bàn cả. Đi ăn phở sớm,
là chỉ có mình tôi trong tiệm, cô
con gái sẽ dồn mọi sự chú ý
vào mình, có điều tôi không ngờ
là ông chủ tiệm biết ngay cái tẩy của
tôi, chắc vì ngày xưa ông cũng học
chung một sách.
Thương thầm
em bán phở, nhưng tôi lại ghét cay
ghét đắng cái ông chủ tiệm phở.
Mọi cái thuộc về ông, dám chắc
là dễ ghét, chỉ có một cái
ông hơn là sao ông khéo nặn ra đứa
con gái dễ thương như làm vậy.
Ông chủ tiệm
phở Tàu Bay Biên Hòa được tôi gọi
bằng cái tên không mấy nhã nhặn:
"Thằng cha bán phở", hàm ý “trả
lễ” ông ta. Từ cái chuyện ông giữ
riệt cô con gái, sợ tôi là thằng Sở
Khanh, ăn tươi nuốt sống con ông, đến
cái chuyện ông xỏ xiên bóng gió, rằng
tôi là bọn lính tráng, sống nay chết
mai, chẳng đáng xách guốc cho con ông,
làm tôi ghét lây đến tất cả những
chủ tiệm bán phở, nhất là nhưng tiệm
phở nào có con gái đẹp.
Ghét của
nào trời trao của đó, ghét ông
bán phở nhưng ngày sang trại tỵ nạn
Songkhla tôi lại làm ông bán phở. Quầy
phở của tôi ở trại tỵ năm 1981 quả
là đông khách. Trại có ba quán phở,
nhưng quán tôi bán, luôn hết phở
vào lúc mười giờ sáng, trong khi hai
quán kia phải kéo dài mãi đến chiều
mới bán hết.
Phở ở trại
tỵ nạn thì đơn giản lắm,
quán phở chỉ vỏn
vẹn là mấy cái bàn gỗ tạp,
dăm chục cái tô và một số đũa,
muỗng. Bà chủ cũ
có tên đi định cư bổ túc,
không có thì giờ để sang tiệm,
bèn gạ tôi, để lại với một
giá rẻ bèo là 1000 đồng Baht (50 dolla Mỹ)
kèm thêm lời hứa dậy tôi bí mật
gia truyền nấu phở.
Sau này khi
đi định cư ở Mỹ, thằng bạn
thân kể cho nghe một sự thực "não
nùng". Nó nói, phở tôi nấu ăn
"thấy ớn" nhưng mọi người cứ
phải tới ăn, vì bấy giờ tôi
làm Trưởng ban Bưu Tín trại, các ban
ngành như Thông tin, Ẩm thực, An ninh thường
dẫn bạn bè đến ăn để nhờ vả
lãnh thơ, mỗi khi họ bị giữ thơ lại
vì lý do địa chỉ không đủ dữ
kiện để xác minh. Chuyện này Ban Bưu
tín chỉ cần hỏi mấy câu như tên người gửi,
hoặc nếu họ không biết thì nói
tên người gửi để họ cho biết
người đó họ gì là xác định
ngay được thơ của ai .....
Sang Mỹ
được một thời gian, tôi còn biết
thêm tại sao tôi nấu phở đã có
"bí kíp gia truyền" mà người ta
ăn lại muốn ớn, đó là do mấy
đứa nhỏ đi chung ghe như Thằng Đức,
thằng Tuấn, thằng Việt và Bình ...
thường lén rình mỗi tối, lúc
nước lèo nấu gần xong, tôi chuẩn bị
đi ngủ, thì tụi nó lẻn ra nhà bếp,
múc xíu quách ra ăn, ăn chán rồi tụi
nó mới bỏ mấy cục xương còn lại
vào nồi nước lèo để tiếp tục
cái khoản nấu phở gia truyền.
Buôn bán
là làm dâu trăm họ, phải chiều
khách hết mình, nhưng gặp những ông
khách "cà chớn", tôi lại có
cách chiều
khác. Quán phở của tôi bán độc
nhất có món phở tái, vì món
này dễ làm. Vào mỗi sáng, chỉ cần
ra chợ chồm hổm Thái Lan họp ở
ngoài cổng, mua ít thịt bò về,
thái mỏng ra là xong.
Một hôm
có một ông khách dám "hỗn" với
tôi. Ông thuộc loại dân có tiền, mới
nhập trại, ăn mặc chững chạc, chứ
không thuộc loại quần Tiều, áo thun ba lỗ
như tôi. Ông vào quán hách dịch hỏi:
- Có Nạm không?
Thằng Hiền,
chú bé đi chung ghe, đóng vai bồi
bàn, hỏi tôi:
- Ổng hỏi mình
có bán phở Nạm không?
Liếc nhìn khuôn mặt
khó ưa của ông, tôi nói:
- Bảo ông ta là
có Tái nạm.
Tôi chuyên
bán phở tái, ông muốn Nạm thì
tôi bán Tái Nạm.
Thái mấy miếng
thịt tái trải lên mặt tô phở,
tôi lấy cái môi, quậy dưới
đáy nồi nước lèo, múc ra một mớ
thịt nhừ, đủ cả Gầu, Nạm, Gân,
Sách ... không hiểu phải gọi nó là
thứ thịt gì, đổ tràn lên mớ thịt
tái.
Tô phở
đó tôi gọi là tô Phở Tái Nạm.
Đó là tô Tái Nạm duy nhất tôi
bán trong suốt cuộc đời nấu phở của
mình.
Thằng Hiền
tròn mắt nhìn tô phở rồi e dè
bưng ra cho ông khách. Vài phút sau, ông
ta hùng hổ bước tới nồi phở, nơi
tôi đang hành nghề Nấu phở Gia truyền,
lớn tiếng hỏi:
- Này cậu, không biết
nấu phở thì đừng có bán, tôi
kêu Tái nạm, sao cậu bán cho tôi tô
phở gì kỳ vậy ?
Tôi hóm hỉnh
trả lời:
- Tái nạm của
Thái đó bác ơi.
Chú thanh
niên ngồi ở bàn bên cạnh phụ họa:
- Ông già
ơi, ở đây chỉ có phở tái
thôi, tại ông đòi Nạm, thì nó
múc cho cái gì, ăn cái đó,
đâu phải là đang ở Saigon mà
mè nheo.
Tản mạn về
phở ngày xưa có những giai thoại huyền
bí như thế đó. Bây giờ xin bàn
về phở ngày nay.
Phở là
món ăn khá bình dân, nhưng lại nổi
tiếng khắp nơi. Không những du khách
thường tới thăm Việt Nam vì tò
mò mà muốn ăn một tô phở, mà
những chính khách nổi tiếng cũng ăn
phở khi tới Việt Nam. Cựu Tổng Thống Bill Clinton đã từng
ăn phở tại tiệm Phở 2000 ở Saigon; ông
Stephen Smith, Ngoại trưởng Úc, trong chuyến viếng
thăm Việt Nam tháng 7 năm 2008, không những
ông chỉ ăn phở, mà chính ông
còn tự tay mình nấu một tô phở
trong nhà bếp của tiệm Phở 24 ở Hà
Nội và sau đó ngồi ăn chung với
ông Lý Quí Trung, chủ hệ thống Phở
24.
Cái tên
"Phở" tự đâu mà có?
Vào năm
2002, một buổi họp báo được tổ
chức bởi Sofitel Metropole và Delegation of European
Commision tại Hà Nội,
để tìm hiểu về xuất xứ của Phở.
Ông Nguyễn Đình Ráo, President of Unesco Club of
Gastronomy nói phở đầu tiên phát xuất
vào đầu thế kỷ thứ 20 tại miền
duyên hải phía nam của tỉnh Nam Định.
Ngày đó, do sự tăng trưởng dân số
của vùng này, bao gồm những người
làm hãng dệt, công chức, lính
Pháp và lính Việt Nam cần thêm
món ăn buổi sáng, do nhu cầu đó mà
Phở xuất hiện.
Theo một
tài liệu khác, có xác xuất hữu
lý cao hơn, Phở bắt nguồn từ đầu
thế kỷ thứ 19 ở Bắc Việt, nhưng phở
xuất hiện không đơn thuần như ông
Ráo đã nói.
Danh từ Phở,
theo History of Phở của Mai Phạm, là do chữ Pot
Au Feu (Đọc là Po ô phơ) của Pháp
mà ra, có nghĩa là cái nồi ngồi
trên cái bếp,Việt Nam ta gọi nôm na
là cái lẩu, Mỹ gọi là Pot on the fire.
Đầu thế
kỷ thứ 19, người Việt ít giết
trâu bò để ăn thịt vì nó rất
có giá trị cho nhà nông, nhưng người
Pháp đã đến Việt Nam với nhiều
món ăn làm bằng thịt bò. Những
đầu bếp Việt Nam làm cho người
Pháp, tận dụng những phần không mấy
giá trị của thịt bò như xương,
thịt bạc nhạc, hầm thành một loại
súp. Món đó được gọi là
Pot au Feu. Chữ Phở bắt nguồn từ chữ
Feu cuối cùng đó.
Dĩ nhiên không
phải chỉ có nồi nước lèo là
thành món phở, những đầu bếp
người Việt biết tận dụng bánh phở,
một hình thức như mì của người
Tàu và tác giả nói Phở là một sản phẩm kết
hợp song hành giữa hai văn hóa ẩm thực
Pháp và Tàu.
Phở phát xuất
từ miền Bắc, ít ra là bây giờ nhiều
người đồng ý với kết luận
này.
Vậy Phở Bắc
nấu ra sao ?
Thực ra, phở
Bắc nguyên thủy bây giờ mà bán ở
tiệm, thực khách ăn chắc sẽ "thấy
ớn" vì đó chỉ là tô phở
nguyên thủy, nấu với ít gia vị, mà
cánh Hồi là chủ yếu, không chanh
hành rau giá như bây giờ. Phở Bắc
chánh hiệu bây giờ được biến
thành Phở Việt Nam, chính ra là phở miền
Nam, nó được biến cải không ngừng
qua những đợt Mộ phu đồn điền cao
su và đợt Di cư năm 1954. Nó được
thêm những loại thịt mới như Nạm, gầu,
gân, sách và dĩ nhiên hương vị
tăng rất nhiều khi ăn với rau thơm, chanh,
hành chần, nước béo, tương ớt
và giá sống.
Ông Didier Corlou, Executive Chef của Sofitel Metropol nói về phở
Hà Nội ngày nay, ông cho biết nếu đến
Việt Nam ăn phở,
thì phải ăn phở ở Hà Nội mới
thấy hết cái hương vị của nó.
Ông không đề cập đến cái ngon, dở,
của phở, ông chỉ nói đến cái cảm
giác khi ăn phở ở nơi được coi
là phát xuất món phở, tựa như khi
ăn một miếng phó mát, mình cảm thấy
đậm đà hơn nếu ăn ở Alps thay
vì ở Hà Nội. Ông còn nói một
điều hơi lạ là ở miền quê Việt
Nam người ta nấu phở cá, phở heo, phở
tim gan ....
Dĩ nhiên ai
muốn nấu với loại thịt gì cũng
được, như phở gà, nhưng không nghe
ai nói đến phở heo, phở vịt hay phở
cá như ông nói ở trên.
Không hiểu
ông có lẫn lộn phở với món hủ
tiếu không ? Rất dễ lẫn lộn phở với
hủ tiếu. Ở những nhà lồng chợ miền
quê, nhiều người còn gọi là phở
tíu.
Một điều
dễ nhận nhất là nước lèo của hai
món ăn trên: Phở
thì nấu bằng xương bò, còn hủ
tiếu thì nấu bằng xương heo. Thịt
dùng cho hủ tiếu thường là thịt heo,
lòng heo, có khi còn là đồ biển nữa,
trong khi phở thì gần như là thịt
bò (ngoại trừ phở gà).
Ông Sarun Resmay,
một người Kampuchia cho biết, món hủ tiếu
phát xuất từ Cam Bốt. Thoạt tiên người
Tiều (miền nam Trung Quốc) sang Cam Bốt lập nghiệp,
mang theo món hủ tiếu của người Tàu,
người Việt Nam ở đó gọi những
người Tàu này là Chú Tiều,
người Cam Bốt gọi theo, nhưng họ lại
phát âm thành Katieu. Người Cam Bốt nấu
món hủ tiếu của người Tiều, họ
gọi là Phnom Penh Katieu, có nghĩa là hủ
tiếu Nam Vang. Từ đó, hủ tiếu du nhập
vào Việt Nam.
Ở Hải ngoại,
có những tiệm phở mang tên rất lạ. Bắt
đầu từ Oregon, bạn có thể thấy tiệm
phở Tango tại Hillsboro, ở Falls Church, Virginia có
tiệm Phở Cyclo. Bạn cần ăn một tô phở
lớn? Mời ghé qua tiệm Big Phở Inc. ở
Lawrence Illinoise hoặc Phở Xe Tăng ở Chicago. Tiệm
Phở Về Đêm và tiệm Phở Bình
Trailer ở Houston làm ta gợi nhớ đến những
tô phở ngoài đường phố Saigon thuở
nọ.
Bên cạnh những
tiệm phở mang tên lạ, có những tiệm
Phở lại mang tên bằng những con số.
Bắt đầu
là Phở Số 1 ở Cantonville MD, Phở 24 có mặt
khắp nơi, Phở 54 Inc. ở Westminster, Phở 75 ở
Rockville MD, Arora CO, Artlington TX.
Phở 76 ở Fresno CA. Phở 88 ở Dencer CỌ Phở
89 ở Manhattan, Phở 97 ở China Town LA, Phở 98 ở
Chantilly VA, Pho 99 ở Fresno CA. ở Bufallo NY, Phở 101 ở
Monterey CA, Tiệm Phở Triple 888 ở Peabody MA, tiệm phở
909 ở Milpitas, tiệm Phở 2000 ở LA, tiệm Phở
4000 ở LA .....
Hệ thống phở
lớn nhất hải ngoại có lẽ là hệ
thống kinh doanh phở có tên là Aureflam
Corporation tại Sacramento
CA. Hệ thống này làm chủ khoảng hơn
90 tiệm mang tên Phở Hòa (33 tại Mỹ, 12 tại
Canada và khoảng hơn 40 tiệm tại Á
Châu), và một số tiệm mang tên Phở Tự
Do ở Texas và Virginia.
Tại Mỹ,
Canada và Úc, có cả thảy khoảng 2340 tiệm
phở. Những thành phố được kể
là nhiều tiệm phở nhất ở Mỹ
là: San Fransico có 78 tiệm, Houston TX có 74 tiệm,
Seattle 72 tiệm, San Jose 58 tiệm, New York 46 tiệm, Garden
Groove 39 tiệm và Westminster 33 tiệm.
Có một hệ
thống tiệm Phở nổi tiếng ở khu vực
Á châu Thái bình Dương là Phở
24. Hệ thống phở 24 có khoảng 65 tiệm. Hệ
thống phở này có món phở đuôi
bò và Phở cho trẻ em mang tên Kid Combo.
Bên Pháp
có những tiệm phở nổi tiếng ở Paris
như Phở Bánh cuốn 14 ở Avenue de Choisy, Phở
Bambou ở Metro Olympiades và Phở Hòa Pasteur Saigon.
Một số tiệm
phở, nghe qua như là cùng chung một công
ty, nhưng thực ra họ chẳng liên quan gì
nhau, như tiệm phở 2000 mà tổng thống Bill
Clinton ghé ăn ở Saigon nhân chuyến công du
Việt nam ngày nọ, không dính dáng
gì với tiệm Phở 2000 tại Cali (tiệm phở
2000 ở Việt Nam cho thực khách ăn bánh phở
mệt nghỉ, bạn có thể kêu thêm
bánh phở mà không phải trả thêm tiền
(unlimited refill). Tiệm Phở Hòa 1 (số 1 nằm
trong vòng tròn) ở Garden City Kansas không phải
là tiệm phở của hệ thống Phở
Hòa, và nó có trước khi hệ thống
Phở Hòa đăng ký bản quyền. Tiệm
phở 99 ở Fresno cũng chẳng quen thuộc gì với
tiệm Phở 99 ở Bufallo NY.
Tổng thống Mỹ
sang Việt nam ăn phở, nhưng ông Hồ Chí
Minh hồi ở Việt Nam hình như lại chưa
hề được ăn phở. Theo giáo sư Nguyễn
Đình Vượng, CA. Tại The Boston Omni Parker Hotel,
nơi này có ghi lại tên những người
nổi tiếng trên thế giới đã ghé
qua đây, có ghi vào năm 1910, một người
thanh niên trẻ tên Thành đã làm việc
tại khách sạn này, với chức vụ
là Pastery assistant (thợ phụ nhồi bột
làm bánh, được nhà nước Việt
Nam dịch là: Bôn Ba Tìm Đường Cứu
Nước). Ông Nguyễn Tất Thành xuất
thân từ gia đình không được
dư dả nên thời
đó có thể là chưa từng được
ăn phở (nguồn tin VietnamNet). Hiện nay ai cũng biết
ông Thành đó là Hồ Chí Minh
mà ở Việt Nam thường gọi là
Bác Hồ.
Có một
người ở Mỹ cũng bị gọi là
Bác Hồ, không những ông đã ăn rất
nhiều phở, mà ông còn là chủ tiệm
phở. Mỗi lần gọi ông là Bác Hồ,
ông lừ lừ mắt có vẻ tức tối lắm.
Thật ra tên ông là Nguyễn Văn Hồ, chủ
tiệm Phở 99 ở Buffalo Ny. Ngày ở trại tỵ
nạn thấy tôi bán phở, ông cương ẩu:
- Ông nấu phở
như đếch ấy, sang Mỹ tôi bán phở
cho ông coi.
Lời bốc
đồng bên trại ngày nào, chẳng ngờ
nó lại vận vào thân. Sang Mỹ ông
bán phở thật!
Mỗi lần nghe bạn
bè đồn: Bác Hồ kỳ này ăn
nên làm ra, tiệm phở của bác nổi tiếng
như cồn, tôi bán tín bán nghi, cho đến
một hôm search ở Google, mục feedback của thực
khách về tiệm phở 99 tôi mới tin lời
đồn là đúng.
Nguyên văn
feedback của một cô bé thực khách
Mỹ tên là Theresa X. ngụ tại New York như
sau:
" Damn, I don't
even like Vietnamese food all that much, but this place is the shizz, every
thing here is good. My faves are: Pho of course, beef short rib BBQ, spring
roll and chicken fried rice. A must stop any time I'm up there, it also super
cheap. So what if the owners 's son is a lil gansta and thinks he is Jin! What
!"
Trình độ
của những ông chủ tiệm phở bây giờ
dĩ nhiên là "thông minh và nhân hậu"
hơn ngày xưa nhiều, họ không còn chỉ
biết bán phở và gằm ghè những
đứa muốn tán con gái mình. Họ hội
nhập vào mọi thành phần trong xã hội,
họ nói ngôn ngữ của mọi giai tầng
xã hội.
Có người
mạnh miệng so sánh: Ông
chủ tiệm bán phở so ra hơn những anh tốt
nghiệp đại học nhiều. Khi con người
hội nhập vào xã hội, chỉ cần kiến
thức của bậc trung học làm nền tảng
cho cuộc đời, sau đó là những
chuyên môn mà họ tích lũy được
do những kinh nghiệm thu thập từ nhiều môi
trường khác nhau.
Ông Bác sĩ thì 8 năm ở y khoa, ông kỹ
sư thì 4 năm ở đại học. Còn
ông bán phở? Ông lấy kinh nghiệm ở từng
người khách ăn phở, mà khách ăn
phở thì ôi thôi đủ mọi thành
phần.
Ông bán phở
ở Mỹ bây giờ có mặt ở rất nhiều
lãnh vực trong xã hội, như ông John Phạm,
chủ tiệm phở Ninh
Kiều ở Harrisburg PA, biết chia sẻ những
gì mình có với những người bất
hạnh. Ông bán phở với giá 1 xu Mỹ
cho những người đang bị thất nghiệp
(unemployment) trong chương trình Bowls of Pho for a Penny.
Cách nói
chuyện của chủ tiệm phở dí dỏm
mà văn chương, tôi không dám gọi
những chủ tiệm phở là Đại Gia,
vì sợ lẫn lộn họ với những trọc
phú ở Việt Nam. Tôi gọi phôn cho ông
Hồ, khen ông dạo này giàu sụ, thôi
thì liệt ông vào hàng Đại
Phú. Chẳng cần nghĩ ngợi, ông phản
pháo:
- Muốn làm
Trạng Quỳnh hay sao mà thích nói lái.
Nói chuyện với chủ tiệm phở phải
nghiêm túc nghe chưa.
- Gọi ông
là Đại Gia không xứng, Đại Phú
ông không chịu, vậy ông muốn đứng
hạng nào trong xã hội ?
Ông hóm hỉnh
trả lời:
- Thằng Bán Phở may lắm
là được xếp vào giới Tiểu
Thương thôi, như những người buôn
thúng bán bưng ở Việt Nam ấy mà,
nói cho cùng, đôi khi còn tệ hơn thế
nữa, vì nếu ế ẩm, thì Tiểu
Thương này chả biết Tiểu vào chỗ
Thương hay lại Thương vào chỗ Tiểu
nữa.
Ôi ông
bán phở ! Kiếp
sau nếu được chọn, tôi xin làm
ông bán phở, vì ngoài cái tài
uyên bác, hóm hỉnh học từ những
khách ăn phở của ông, tôi còn
được biết người tài trợ
chính cho quỹ khuyến học và thư viện
quê tôi, chính là ông bán phở Nguyễn
văn Hồ.
Tôi
viết bài này để tặng anh chị Hồ,
chủ tiệm Phở 99 Buffalo NY và tiệm phở
K5 Florida.
Phương Toàn
(Bai Chuyen)