Những
căn bệnh đang hủy hoại xã hội Việt
Nam
(Song
Chi)
Từ năm 1989 đến 1991, thế
giới đã chứng kiến sự sụp đổ
hàng loạt của các nước nằm dưới
sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng
Cộng sản ở Đông Âu và Liên
Xô. Hơn 20 năm qua, nếu có dịp đến
thăm các quốc gia này, người ta sẽ thấy
rằng chính phủ mới và nhân dân tại
các nước này đã kịp làm
được khá nhiều điều; đời sống
kinh tế, xã hội của người dân tốt
hơn hẳn so với trước kia, nhưng vẫn
còn rất nhiều việc mà chính phủ
và nhân dân họ phải nỗ lực thực
hiện để xóa đi di sản do những
năm dài dưới chế độ cộng sản
để lại trên con đường trở
thành những quốc gia phát triển, giàu mạnh,
dân chủ, tự do. Và tùy theo nội lực
của từng nước mà quá trình
này nhanh hay chậm, nhẹ nhàng hơn hay nặng
nề vất vả hơn. May mắn như nước
Đức, nhờ có Tây Đức với một
tiềm lực kinh tế hàng đầu của
châu Âu, vậy mà trong những năm qua
chính phủ Đức đã phải đổ
không biết bao nhiêu tiền để vực dậy
Đông Đức, xóa đi khoảng cách về
mọi mặt giữa hai bờ Đông Tây.
Nhưng dù sao, các nước Liên Xô
và Đông Âu vẫn có những nội lực
nhất định - các nước này trước
khi đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
đã là những quốc gia có nền kinh tế
công nghiệp tư bản bước đầu,
có nền văn hóa dày dặn, người
dân của họ dù sao cũng đã hiểu
thế nào là dân chủ, tự do …
nên quá trình thay đổi thế chế
chính trị cũng đỡ nhọc nhằn vất
vả hơn những quốc gia không có được
những “hành trang” như vậy. Ví dụ
như Việt Nam chẳng hạn. Đôi khi nghĩ
đến một ngày nếu vận hạn của
đất nước đã qua, Việt Nam may mắn
chuyển đổi thể chế chính trị
thành một quốc gia dân chủ pháp trị,
thì một điều có thể thấy trước
đó là cái giá phải trả do di họa
của những năm cầm quyền của Đảng
Cộng sản Việt Nam để lại trên đất
nước này phải nói là vô cùng
nặng nề, và những mất mát, thiệt
thòi là vô cùng lớn.
Thứ nhất là ở Việt
Nam, thời gian cầm quyền của Đảng Cộng
sản cho đến nay đã kéo dài hơn
một số quốc gia khác - 65 năm trên miền
Bắc và 35 năm trên toàn lãnh thổ,
nên cái hại cũng nặng nề hơn. Thứ
hai là do nội lực của đất nước
và của dân tộc, trước khi có Đảng
Cộng sản lãnh đạo cho đến ngày
nay, Việt Nam vẫn chỉ là một nước
nông nghiệp nghèo nàn đang phát triển,
từ hạ tầng cơ sở vật chất kinh tế,
kỹ thuật … đều chưa có gì
đáng kể. Cộng với một tầm nhìn
ngắn, văn hóa “lùn” của các
thế hệ lãnh đạo nối tiếp nhau từ
trên xuống dưới, chỉ thấy cái lợi
trước mắt mà không thấy cái hại
lâu dài, hoặc vừa làm vừa phá, hoặc
chỉ lo vơ vét, tham nhũng mà không nghĩ
gì đến tương lai của đất nước
và dân tộc, nên sau bao nhiêu năm cầm
quyền, trên khắp đất nước nhìn
đâu cũng thấy dấu vết của sự
phá hoại trên mọi lĩnh vực. Bao nhiêu
đất dọc theo biên giới phía Bắc, biển,
đảo … đã mất, biết bao giờ mới
đòi lại được. Rừng bị tàn
phá, tài nguyên bị khai thác một
cách vô tội vạ, môi trường sống
bị ô nhiễm nặng nề, một số sông
ngòi bắt đầu khô cạn, bây giờ
người ta lại bắt đầu phá nát
Tây Nguyên với những dự án khai
thác bauxite lợi ít hại nhiều, bộ mặt
các thành phố lớn, nhỏ thì hỗn
độn, quy hoạch yếu kém, kiến trúc lộn
xộn một cách không thể sửa chữa nổi
v.v… Chưa nói đến cơ cấu luật
pháp hay một nền giáo dục yếu kém cần
phải xây dựng lại từ đầu, rất mất
thời gian. Chưa kể cả một xã hội bị
băng hoại về mặt đạo đức, những
giá trị, chuẩn mực bị lệch; con người
hoặc bị nhồi sọ bởi lối giáo dục
tuyên truyền một chiều phải mất thời
gian mới hiểu ra được đâu là sự
thật đâu là dối trá, hoặc bị tồi
tệ đi do phải sống trong một môi trường
xã hội có quá nhiều điều
không tử tế v.v… Nhưng điều nguy hiểm
nhất đối với số phận của đất
nước và dân tộc Việt Nam, đó
là nếu sự thay đổi thể chế
chính trị đến chậm thì nguy cơ phụ
thuộc, thậm chí mất nước vào tay
nước láng giềng phương Bắc là
điều mà hiện nay nhiều người đều
đã thấy.
Có những di hại có thể
thấy rõ vì nó hữu hình và
có thể xây dựng lại, có thể hồi
phục sau một thời gian vài ba thập niên
tùy theo. Nhưng , mất thời gian. Có những
cái di hại vô hình khó thấy hơn
mà hậu quả của nó thì rất nặng
nề và sự điều chỉnh, sửa chữa cũng
vô cùng khó khăn, mất thời gian.
Đó là những di hại về văn hóa,
con người, về tinh thần mà những quốc
gia đã từng trải qua chế độ do đảng
cộng sản lãnh đạo đều phải trả
giá.
Một môi trường sống
bị ô nhiễm, bị hủy hoại. Môi trường
tinh thần cũng vậy. Có những căn bệnh
tinh thần mà nếu sống trong một xã hội
như xã hội Việt Nam hay Trung Quốc (vốn
là một hình mẫu để chính quyền
Việt Nam bắt chước theo y hệt nên những
căn bệnh cũng giống nhau) lâu ngày con
người sẽ bị lây nhiễm ít nhiều
mà không hay.
Bệnh
vô cảm
Xã hội Việt Nam bây giờ
có quá nhiều điều phi lý, trái tai
gai mắt, và cũng có quá nhiều những
bi kịch, những câu chuyện thương tâm. Mỗi
ngày mở những tờ báo ra, bật TV
lên, hoặc ngay trong đời sống thường
ngày, người ta phải đọc, nhìn, nghe
hay chứng kiến tận mắt biết bao nhiêu chuyện
như vậy. Tổng Giám đốc X bị bắt
vì tham nhũng hàng tỷ đồng. Công ty Y
bị phát hiện có dấu hiệu lừa đảo,
làm thất thoát hàng trăm tỷ. Một
khu nhà hay một cây cầu vừa mới xây
đã bị sập, lún vì làm ăn gian
dối, bớt xén vật tư. Một bữa tiệc
sinh nhật của con cái một “quan lớn”
tốn kém hàng trăm triệu đồng trong
đó chủ nhân bữa tiệc vung tay tặng
các bạn mỗi người một chiếc xe gắn
máy hiệu. Một em bé chết oan vì bị
điện giật trên đường do dây
điện bị hở, không ai chịu trách nhiệm.
Một tai nạn giao thông thảm khốc do đường
hẹp, lô cốt chặn, chen lấn nhau hoặc
đôi khi chỉ vì do chất lượng
đường xá tồi khiến người đi
xe ngã xuống và bị xe tải phía sau
cán lên. Một người phụ nữ
nghèo đi mót cà phê bị chó
nhà giàu cắn chết nhưng công an lại
không truy cứu tội hình sự người quản
lý trang trại đã để mặc chó cắn
chết người v.v… Đầu tiên khi đọc
hoặc nghe những chuyện như vậy, người
ta phẫn nộ, bức xúc, thương cảm.
Nhưng rồi hàng ngày cứ phải đọc
mãi, chứng kiến mãi với mức độ
phi lý, bất công ngày càng lớn hơn,
người ta thành quen đi, không còn ngạc
nhiên trước bất cứ chuyện gì nữa.
Người ta quen dần với những điều
không tử tế, với cái xấu, cái
ác … và trở nên vô cảm dần dần
mà không hay.
Tai hại của điều
này là đến lượt mình, mỗi
người khi phải làm một điều
không tử tế hoặc không lương thiện
sẽ tự bảo rằng chung quanh mình ai cũng
làm như vậy, ai cũng đang sống như vậy,
có sao đâu?
Cái
xấu, cái ác lên ngôi
Chưa cần phải từ nguồn
báo chí truyền thông của “thế lực
thù địch” nào, chỉ cần theo
dõi báo chí trong nước, do nhà nước
kiểm soát nội dung và cho phép phát
hành, cũng có thể thấy ở Việt Nam hiện
nay, cái xấu, cái ác đang lộng
hành ra sao. Có nhiều người sẽ bảo
xã hội nào mà chả có cái xấu,
cái ác, ở Mỹ chẳng hạn, cũng
có những cảnh bạo lực, giết người,
thậm chí sát nhân hàng loạt …
đó thôi. Nhưng vấn đề ở
đây là cái xấu, cái ác, sự
thiếu lương thiện đang tràn lan ở mọi
cấp độ từ những hành vi nhỏ nhặt
hàng ngày như chen lấn giành đường
nhau, dúi tiền cho cảnh sát giao thông để
được cho qua khi bị bắt lỗi và cảnh
sát cũng thản nhiên nhận tiền như
là chuyện bình thường phải vậy, hoặc
sẵn sàng cãi vả, chửi bới nhau thậm
chí đánh nhau chỉ vì những chuyện
xích mích không đáng … cho đến
những hành vi ở mức độ lớn hơn.
Nhiều khi rùng mình vì mức độ
trơ tráo vô đạo đức trong những
hành vi tội lỗi như khi một ông hiệu
trưởng không những dụ dỗ, ép
dâm hàng loạt học sinh tuổi vị
thành niên mà còn buộc các em phải
lên giường với hàng loạt quan chức
để có lợi cho mình; hay mức độ
dã man một cách thản nhiên như khi một
con người có thể để mặc cho
đàn chó cắn xé đồng loạt
đến chết mà không cứu; hay những
cô cậu học sinh còn ở tuổi cấp hai
có thể thản nhiên đánh bạn, thản
nhiên quay video clip tung lên mạng và những học
sinh khác thì ngồi xem mà không phản ứng
gì. Khi một
xã hội mà những điều không tử
tế, cái xấu, cái ác đã trở
thành chuyện bình thường trong khi điều
tử tế, cái đẹp, cái thiện dần
trở thành hiếm hoi, bất bình thường
thì đó là điều thực sự phải báo động đỏ
từ lâu rồi.
Sự
bạc nhược, cầu an
Khi phải sống chung quá
lâu với những điều bất công phi
lý, với các xấu cái ác đang
tràn lan, và biết rằng có kêu thì
cũng chẳng thay đổi được gì, số
đông người Việt dường như
đã chọn cho mình một “phương
châm” sống an toàn, đó là mặc kệ, mọi chuyện
đã có nhà nước lo, họ chỉ lo
kiếm sống, lo cho bản thân và gia
đình. Và điều đó tạo ra một
căn bệnh khác cũng phổ biến không
kém: sự bạc nhược, cầu an. Đối với
đám đông này, đừng nói với
họ về sự thối nát của chế độ,
về gánh nặng nợ nần đang đổ
lên đầu các thề hệ sau do việc vay nợ
nước ngoài, việc mất đất mất biển
và cả nguy cơ mất nước trong tương
lai, việc các nước khác người
dân được có những quyền gì cũng
như nhu cầu tự do dân chủ trong nhân
dân … Họ sẽ lảng tránh, sợ
hãi, không tin, và tiếc thay con số này
vẫn còn khá lớn. Chưa kể những kẻ
mà quyền lợi gắn chặt với chế độ
này và vẫn cố sống cố chết
bênh vực cho chế độ này là
không tính đến. Đó là lý do
vì sao một đảng cầm quyền có
quá nhiều sai lầm và tội lớn đối
với đất nước, với nhân dân trong
suốt bao nhiêu năm qua như Đảng Cộng sản
Việt Nam lại vẫn tiếp tục tồn tại.
Sự
giả dối
Trong lịch sử giành
chính quyền và giữ chính quyền của
mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
sử dụng rất nhiều “chiêu thức”,
trong đó có sự dối trá, mỵ
dân. Có thể nói sự dối trá,
nói một đằng làm một nẻo là
“chính sách” xuyên suốt trong đối
nội cũng như đối ngoại của Đảng
Cộng sản Việt Nam từ bao lâu nay. Và từ
bao nhiêu nay người dân Việt Nam đã phải
sống trong một môi trường giả dối, từ
khi còn đi học trẻ em Việt Nam đã phải
học tin vào những điều giả dối cho
đến khi trưởng thành nhìn xung quanh
xã hội toàn những điều giả dối
- bằng giả, hàng giả,
chất lượng công trình và cả chất
lượng tác phẩm văn hóa văn nghệ nhiều
thứ cũng là giả … Và cũng như
các căn bệnh đã kể trên, đến
một lúc nào đó sự giả dối cũng
trở thành căn bệnh phổ biến trong xã
hội - người ta chạy theo thành tích, chạy
theo những giá trị ảo, giá trị giả
bên ngoài và đánh giá nhau cũng bằng
những cái bên ngoài đó như căn
nhà, chiếc xe, áo quần, mảnh bằng
phó tiến sĩ, tiến sĩ “mua” …
mà không xét đến giá trị thật
bên trong của một con người.
Hoài
nghi và mất lòng tin
Và khi phải ăn uống
hít thở hàng ngày với một bầu
không khí giả dối như vậy thì lẽ
đương nhiên con người trở nên mất
lòng tin, hoài nghi vào tất cả mọi thứ.
Từ một nguyên nhân sâu xa nhất là sự
sụp đổ của toàn bộ hệ thống
lý luận chính trị
Mácxít-Lêninnít, lý thuyết về chủ
nghĩa xã hội chủ nghĩa cộng sản
… mà bao nhiêu năm nay Đảng và
nhà nước Việt Nam vẫn ra sức nhồi
nhét vào đầu người dân, trong
lúc chưa tìm ra được một hệ thống
lý luận khác để thay thế (thật ra
thì đã có sẵn những hệ thống
lý luận của các nước dân chủ
pháp quyền khác để mà học hỏi
nhưng vấn đề là nhà nước Việt
Nam không muốn học!), cùng với sự xuống
cấp, tha hóa về mọi mặt trong đời sống
đạo đức xã hội, khiến con người
mất lòng tin và căn bệnh hoài nghi
này cũng phổ biến không kém. Điều
tai hại hơn là người ta
không tin cả vào những điều tốt, sự
tử tế.
Môi trường xã hội
Việt Nam hiện nay là một môi trường
mà cái ác cái thiện lẫn lộn,
môi trường văn hóa nghệ thuật cũng
vậy - cái đẹp cái xấu lẫn lộn,
thật giả lẫn lộn, dễ làm cho con người,
nhất là giới trẻ, bị nhiễu về mặt
nhận thức, thẩm mỹ cho đến phương
hướng, mục đích sống … không biết
phân biệt, thẩm định hay dở,
đúng sai. Xã hội cứ thế mà nhiễu
loạn cả lên.
Và tất cả những
căn bệnh đó như những tế bào ung
thư đang tàn phá cả xã hội Việt
Nam mà nếu không có một sự thay đổi
toàn diện, triệt để về mặt thể
chế chính trị thì mọi sự “sửa
chữa” kiểu như thay tên Đảng, thay
tên nước, thay đổi nhân sự này
chính sách kia … cũng chỉ như những cố
gắng vá víu tạm bợ, che chỗ này
vá chỗ kia trên ngôi nhà đã thực
sự mục ruỗng từ bên trong mà thôi.
Song
Chi
(Sưu
Tầm Liên Mạng chuyển)