MẦU TÍM HOA SIM
(NGUYỄN TẦM THƯỜNG)
Xe đi qua miền
Goa, xuống Kerala, xuôi theo biển về phía nam,
tôi thấy hoa phượng đỏ. Trên những
con đường nhiệt đới Ấn Ðộ,
hương đồng cỏ giống Việt Nam quá.
Ngày xưa còn là học trò, tôi cũng
thích những bài ca "mầu hoa phượng thắm
như máu con tim." Và những bài thơ
nói về hoa sim. Cả hai loại hoa đều man
mác buồn, nở trong mùa hạ nắng,
mùa học trò chia tay cuối sân trường.
Trên đồi
Zen ở Bodhi Zendo không có phượng vĩ,
nhưng có mầu tím hoa sim. Mấy mươi
năm rồi, bây giờ tôi mới nhìn lại
được những cánh hoa sim. Ngày xưa
còn bé, mùa tháng năm dâng hoa, chỉ
biết nô đùa, không biết mầu
tím trên bàn tay những người thiếu nữ
và lời kinh đẹp thế nào.
Ðã hai
mươi lăm năm xa xứ không thấy mầu
tím hoa sim. Thấm thoát thế mà một phần
tư thế kỷ. Hôm nay đứng nhìn mầu
tím, không còn cánh hoa tím năm xưa
ở xứ đạo nhỏ quê xa. Rừng quê
ngoại không còn hoa sim nữa. Dân nghèo
phá hết rừng rồi. Người thiếu nữ
năm xưa dâng hoa cũng bỏ quê nghèo theo
mầu tím nhòa theo dòng đời. Trên
núi rừng đất Ấn hôm nay cho tôi nhớ
mầu sim tím năm xưa, nhìn xuống mầu
tím cuộc đời, và những bước
chân tôi đang đi.
Tôi đang
trong Tuần Thánh. Cây thánh giá trong niệm
đường đã bọc khăn tím. Dưới
cây thánh giá, Ðức Phật như ngồi
thiền dưới mầu tím hoa sim.
Bên lối
vào thiền viện có hai bụi sim già rất
to. Tôi chưa bao giờ thấy mầu tím đẹp
như thế. Những cánh sim tắm nắng ban mai,
thứ nắng tinh sạch vô ngần trên đồi
cao, không bụi đường, không khói xe, mầu
tím rực lên thanh tao. Sim trên gió núi,
nắng rừng. Sương đêm chưa tan hết
còn đọng trên cánh sim mềm, long lanh nhẹ
rung theo gió, giọt sương sáng như nước
mắt của hạnh phúc.
Vào Mùa
Chay, giáo đường mang màu tím buồn.
Mầu tím trên bàn thờ, trên thập
giá. Là linh mục, tôi thích mầu
tím trên phẩm phục lúc dâng lễ.
Ðứng bên bàn thờ dâng lễ như
dâng lên Chúa mầu tím cuộc đời
mình.
Tôi thích
Mùa Chay, mùa của mầu tím hoa sim. Mầu
đen buồn lắm, nó như tang chế. Còn mầu
tím, không tuyệt vọng khóc thương,
mà là thương và nhớ. Thương
vì có xót xa cho một lỡ lầm nào
đó. Nhớ vì có mong chờ, có gọi
đi và muốn nghe hồi âm.
Trên thập
giá, mầu hoa sim gọi giáo dân về một
chuyện tâm hồn. Chuyện giữa ta và
Chúa. Thương vì lỗi phạm. Nhớ
vì có thứ tha. Trong mầu tím có
đau buồn mà không tuyệt vọng. Có
nước mắt mà hạnh phúc. Có
chút xót xa nhưng cũng có an ủi.
Ðứng
nhìn những cành hoa sim tím trên đồi
thinh lặng. Thánh giá phủ mầu sim tím
trong thiền đường. Nhớ nhung bâng
khuâng của tình cảm đưa tôi về
những mảnh đời có mầu tím trong cuộc
sống. Năm xưa, 1989 ngày mới thụ phong linh
mục tôi qua giúp mục vụ tại trại tỵ
nạn Palawan, Philippines. Kinh nghiệm mục vụ đầu
tiên của một linh mục mới ra trường
là một đốm mầu tím buồn.
Hôm ấy,
tôi dặn rất kỹ sẽ rửa tội cho
cháu bé lúc 7 giờ sáng. Tôi ngồi
đợi 7 giờ 15 không thấy ai lên. Tôi chờ
đến 7 giờ 30 rồi đi họp mục vụ.
Ðang họp có người gọi rửa tội.
Tôi có lý do để từ chối vì
đang họp. Tôi cũng có thể bảo họ
chờ ngoài nhà nguyện, họp xong tôi sẽ
rửa tội. Nhưng tôi không làm thế. Bất
chợt tôi nóng tính. Tôi thấy cần phải
tập cho họ biết làm việc theo giờ giấc.
Tôi đem theo lối làm việc của người
Mỹ qua trại tỵ nạn. Nghĩ lại lúc ngồi
chờ từ 7 giờ. Tôi càng bực mình.
Tôi từ chối rửa tội cho cháu bé. Hẹn
họ phải đem cháu bé lên nhà thờ
đúng giờ sáng hôm sau. Trong tôi lẫn
lộn cả hai ý nghĩ, vừa muốn tập cho họ
phải đúng giờ, vừa bực vì phải
đợi. Tôi còn nhớ, khuôn mặt cha mẹ
cháu bé, biết có lỗi không
đúng giờ, họ sợ hãi bế cháu về.
Câu chuyện
trôi qua đến một ngày không ngờ. Cha
già Crawford, người Mỹ, qua làm linh mục thừa
sai ở Việt Nam từ thập niên năm
mươi, sau biến cố tháng tư năm 75
ngài bị trục xuất. Qua Borneo truyền giáo
chín năm, khi có trại tỵ nạn, ngài
trở lại với người Việt Nam. Năm
đó cha đã ngoài bẩy mươi. Từ
ngày tôi từ chối rửa tội cháu
bé đến hôm tâm sự với cha Crawford
có lẽ đã mấy tháng qua. Vào một
chiều sau cơm tối, trong lúc thong thả, cha kể
chuyện ngày xưa truyền giáo bên Tầu.
Giữa lúc vui, tôi chân thành hỏi cha:
- Với bao năm
kinh nghiệm truyền giáo, cha có thể cho con một
kinh nghiệm mục vụ không? Ðiều gì nếu
cha muốn nói cho một linh mục mới ra trường?
Thinh lặng một
chút, hơi e ngại nhưng thân tình. Cha gọi
tôi là Joe thay vì Joseph. Cha nói với
tôi:
- Bữa nọ
tôi thấy cha từ chối rửa tội cho một
đứa bé.
Bấy giờ
tôi giật mình. Lâu rồi, tôi nhớ làm
gì. Sao cha Craword lại biết? Vì bất ngờ
nên tôi hồi hộp. Không biết ngài sẽ
nói gì đây.
- Joe, cha qua Mỹ
quá lâu rồi, quen lối làm việc của
Mỹ. Hôm ấy tôi ở trong phòng, nghe thấy
cha mắng bố mẹ nó là không
đúng giờ. Tập cho họ đúng giờ
là tốt. Nhưng cha cũng phải nghĩ, những
người Việt Nam đánh cá này, họ
ở miền quê sống không cần giờ giấc.
Có khi họ chẳng có đồng hồ.
Làm sao họ quen được lối làm việc
của Mỹ.
Cha già dừng
lại một chút. Nghe cha nói vậy, trong tôi
hối hận vô cùng. Tôi thấy mình
không nhậy cảm đủ. Tôi chỉ biết
im lặng lắng nghe. Cha già nói thêm:
- Nếu là
tao, tao sẽ rửa tội cho nó. Cha mẹ nó
không đúng giờ, nhưng đứa bé
nào biết gì. Joe, mày thấy đường
trong trại bụi bặm dơ dáy, bố mẹ
nó phải bế từ cuối trại lên
nhà thờ, bụi đường có thể
làm nó mang bệnh. Ðứa bé mới sinh,
nó như vỏ trứng phải săn sóc cẩn
thận. Tội nghiệp nó chẳng biết gì hết.
Nếu là tao, tao rửa tội.
Nghe cha già nói thế. Tôi thấy
buồn. Nhớ đến hình ảnh đứa
bé tôi thấy cay trong mắt mình. Cha già
nói tiếp:
- Trong phòng, hôm đó tao nghe
mày từ chối không rửa tội. Tao không
nói gì, vì các linh mục trẻ thường
nhiều tự ái. Hôm nay mày hỏi nên
tao mới nói.
Tôi lại càng thấy cay trong mắt
hơn, như sương mờ đi. Không ngờ
trái tim cha già nhẫn nại như thế, tế
nhị như thế. Người trẻ thường cho
người già lẩm cẩm, không hợp thời.
Thực sự qua bao năm làm người, họ giầu
kinh nghiệm. Kinh nghiệm chỉ mua được bằng
thời gian. Nơi họ có kho tàng mà
mình không xin, không tìm, không thấy.
Hôm nay nhìn mầu tím hoa sim
trên đồi. Tôi trở về kỷ niệm những
mảnh đời mầu tím của mình. Sau
sáu năm làm việc, tôi rời trại tỵ
nạn năm 1995. Mình cha già ở lại cho
đến ngày trại đóng cửa. Tuổi
già như lạc đất sống. Cha muốn chết
ở Việt Nam nhưng mơ ước không
thành. Cuối đời cha bị ung thư, cha ở
Philippines mãi, đem về Mỹ được
vài tuần, cha qua đời. Cha mất ngày 16
tháng ba. Tôi đến thiền viện này
ngày 9 tháng tư. Hôm nay đã qua
ngày lễ giỗ thứ hai của cha. Nhớ về
tháng ngày năm xưa ở trại tỵ nạn,
cứ vào Mùa Chay và Phục Sinh là cha
già ngồi giải tội suốt ngày để
cho tôi có giờ tập những nghi thức Tuần
Thánh. Cha không bao giờ mỏi mệt với
tòa giải tội. Hôm nay ngày thứ Bẩy
vọng Phục Sinh. Trong thinh lặng, tôi nhớ về
những kỷ niệm xa xưa. Kỷ niệm có mầu
tím buồn thương.
Trời viễn phương xa xứ. Nhìn
những cánh hoa sim, tôi thấy mầu tím
đơn côi giữa núi rừng. Hoa sim trên
cánh rừng quê ngoại năm xưa không
còn nữa. Mầu tím thản nhiên bình
an trong thương và nhớ dịu hiền. Trong
đời tôi cũng có những mảnh trời
mầu tím. Lối vào thiền viện những
cánh sim có man mác buồn nhưng hoa sim vẫn
đẹp. Mầu tím nhẹ nhàng không tuyệt
vọng.
Hôm nay thứ Bẩy Tuần Thánh
vọng Phục Sinh. Ngoài đồi kia, hoa sim tím
đang hong gió núi và nắng ban mai. Tôi muốn
gởi vào gió nắng hai bóng hình. Cha
già năm xưa từng chiều ngồi bên
tòa giải tội, và em bé không biết
bây giờ ở đâu:
- Con xin gởi kỷ niệm về cha,
người cha già đã ra đi để lại
trong con mầu tím rất đẹp.
- Tôi gởi lại em bé năm
xưa mầu tím buồn và thương của
tôi hôm nay.
Ấn Ðộ Tuần Thánh 2001
NGUYỄN TẦM
THƯỜNG
- trích trong
Những Trang Hồi Ký của Một Linh Mục, sắp
xuất bản -
(P H-T nhặt
trên Net)